Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã xác định được chiến lược
xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ
trương trên, nhà nước ta đã vận dụng mọi yếu tố nội lực và ngoại lực để từng bước
đưa nền kinh tế quốc dân tiến lên. Trong điều kiện nội lực nước ta còn hạn chế thì
sự tác động của các yếu tố bên ngoài chính là động lực to lớn thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Một trong những yếu tố bên ngoài có thể tác động trực tiếp đến nền kinh
tế quốc nội và mang lại hiệu quả cao chính là vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư
nước ngoài là một bộ phận không thể thiếu trong tổng vốn đầu tư kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia, là điều kiện cần thiết để khai thác và phát triển nguồn lực trong nước.
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày
càng trở nên quan trọng đối với một nước đang phát triển như Việt Nam. FDI có vai
trò quan trọng trong hoạt động cung cấp vốn, công nghệ và mở rộng quy mô sản
xuất, tạo ra những năng lực sản xuất mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trở thành một bộ phận trong chính sách mở cửa nhằm góp phần đẩy
nhanh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, từng nước xây dựng Việt Nam thành một
nước công nghiệp, đúng như chủ trương đã được Đảng Chính phủ đề ra tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Đó là một chủ trương đúng đắn và cần thiết, phù
hợp với xu thế chung trên thế giới và thực tiễn phát triển nước ta.
Là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc bộ, Hưng Yên có vị trí và một số thế
mạnh nhất định trong thu hút FDI, như đội ngũ lao động trẻ đông đảo, điều kiện tự
nhiên, địa lý thuận lợi, nằm giữa hai thành phố lớn (và hai trung tâm kinh tế của cả
nước) đó là Hà Nội và Hải Phòng. Hưng Yên đang trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH trong đó rất coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
Trong những năm vừa qua, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên còn hết sức hạn chế cả về số lượng cũng như quy mô cơ cấu dự
án. Đặc biệt, trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản, thực phẩm
là lĩnh vực rất cần thiết phải thu hút đầu tư, song về cơ cấu chiếm tỷ trọng rất thấp
trong tổng vốn đầu tư.
Nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh từ nay đến năm 2020 đang đặt ra những
vấn đề cấp bách.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
1
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
Dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển của Hưng Yên giai đoạn 2011 - 2015
dự kiến khoảng 125 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), bình quân mỗi năm khoảng 25
nghìn tỷ đồng. Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2016 - 2020 dự kiến khoảng 300 - 320
nghìn tỷ đồng, bình quân mỗi năm khoảng 60 - 64 nghìn tỷ đồng, song khả năng chỉ
có thể đáp ứng được 54%, số còn lại 46% phải huy động từ các nguồn bên ngoài
trong đó có nguồn quan trọng là FDI.
Cho nên, việc nghiên cứu để tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường thu
hút FDI đối với tỉnh trở thành một vấn đề cấp bách. Đó là lý do lựa chọn đề tài
“Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn
2006-2020” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế đầu tư.
Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước
ngoài, phân tích vai trò, thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của tỉnh, vạch ra
những mặt được, mặt chưa được, luận văn đề xuất những định hướng và giải pháp
nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Hưng Yên.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra của luận văn là:
Tìm hiểu những lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn
tỉnh trong thời gian qua và những vấn đề cấp bách đang đặt ra.
Đánh giá vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên.
Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn trong
các nội dung sau:
Những lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thực trạng tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn
tỉnh thời gian qua.
Phương hướng phát triển và một số giải pháp nhằm tăng cường thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
2
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
Kết hợp lý luận, quan điểm đường lối của Đảng với thực tiễn địa
phương để lý giải những vấn đề mà chủ đề đặt ra.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu, phân tích số liệu, tổng
hợp và đối chiếu so sánh. Từ đó, đưa ra ý kiến nhằm hoàn thiện vấn đề
nghiên cứu.
Ý nghĩa của luận văn
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản có liên quan đến đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Phản ánh thực trạng, phân tích những những kết quả đạt được, tìm ra
những mặt hạn chế, khó khăn của tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, phân tích các nguyên nhân dẫn đến hạn
chế, khó khăn đó.
Trên cơ sở vận dụng lý luận và thực trạng phân tích luận văn đề xuất
các giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn
tỉnh Hưng Yên trong thời gian tới.
Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục luận
văn chia làm 3 chương:
Chương I: Những lý luận về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chương II: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Hưng Yên thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
3
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO ĐỊA BÀN TỈNH
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1 Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Cùng với việc mở rộng và đa dạng hoá các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế,
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận chính sách kinh tế đối ngoại
của Nhà nước ta. Trong những năm vừa qua, kể từ khi Luật đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã được thừa nhận như là một giải pháp quan trọng góp phần thúc đẩy sụ phát
triển nội sinh của nền kinh tế đất nước.
Để hiểu được khái niệm đẩu tư trực tiếp nước ngoài phải hiểu:
Đầu tư là một bộ phận cấu thành nên tổng cầu. Trong kinh tế học vĩ mô, thuật
ngữ “ đầu tư ” có ý nghĩa là sự bổ sung vào tư liệu sản xuất hàng hoá vốn ( trang
thiết bị, nhà xưởng, hay hàng hoá vật lưu kho ) hoặc sản xuất hàng hoá dự trữ. Nói
cách khác, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động
nào đó nhằm thu hút về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực
đã bỏ ra để đạt được kết quả đó ( Các nguồn lực có thể tiền, tư liệu sản xuất, tài
nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ .)
Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI: Foreign Direct Investment) là hình thức đầu
tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngoài góp một lượng vốn đủ lớn để thiết lập các cơ
sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng
mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro và thu lợi
nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu
tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có
một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản
đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước
ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay
được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh
công ty”.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
4
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi
nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức
đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất
hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn
đầu tư.
Sự vận động, phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu sự tác động, chi
phối của quy luật kinh tế. Thoạt đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là một trong
những phương thức tìm kiếm, khai thác các yếu tố cần thiết, đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đến giai đoạn phát triển nhất định
của nền sản xuất xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên là do quá trình tích tụ,
tập trung tư bản lớn, cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội trên quy
mô quốc tế ngày càng mở rộng, tạo ra những cơ hội đầu tư mới. Đồng thời dưới tác
động của nhiều yếu tố, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phát
triển kinh tế, tốc độ mở rộng, giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế, cùng với sự chi phối
của quy luật kinh tế, trong đó nổi bật nhất là những lợi ích kinh tế của các nền kinh
tế biết tận dụng lợi thế so sánh (tương đối và tuyệt đối) đã làm cho không gian hoạt
động của đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng mở rộng hơn.
Nếu đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để thực hiện cuộc đấu tranh giai
cấp thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là công cụ bóc lột của chủ nghĩa
tư bản hoặc nó được xem là yếu tố kinh tế mà giai cấp tư sản có thể lợi dụng để làm
tăng thêm sức mạnh của mình. Do sự phát triển của loại hình hoạt động kinh tế,
dạng đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngay từ thời kỳ đầu đã gắn liền với lịch sử phát
triển của chủ nghĩa tư bản nên trong hầu hết các trường hợp, Lê-nin xem nó như
một công cụ bóc lột của tư bản.
Thời kỳ đầu từ cách mạng tháng mười Nga về sau, khi mà trên thế giới đã hình
thành hai hệ thống chế độ chính trị - xã hội đối lập, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài
đã có sự thay đổi về chất. Bên cạnh các loại hình như vẫn tồn tại (ở các nước thuộc
địa) đã hình thành một loại hình mới đó là loại đầu tư chỉ có thể thực hiện khi có sự
chấp thuận của nước nhận đầu tư. Loại hình này mặc dù có sự khác nhau về mức độ
nhưng cả hai (nhà đầu tư và nước nhận đầu tư) đều có lợi.
Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, sự phát triển của đầu tư trực tiếp
nước ngoài được quy định bởi những quy luật kinh tế hoàn toàn khách quan với
những điều kiện cần và đủ nhất định, hoạt động đầu tư này chỉ được thực hiện khi
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
5
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
có sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và một bên khác là nước nhận
đầu tư.
Thực chất cơ bản bên trong của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài là: Khi quá trình tích tụ tập trung vốn đạt tới một trình độ mà “mảnh
đất” sản xuất kinh doanh truyền thống của họ đã trở nên chật hẹp, đến mức cản trở
khả năng phát huy hiệu quả của đầu tư, nơi mà ở đó nếu đầu tư vào, họ thu được số
lợi nhuận không được như ý muốn. Trong khi ở một quốc gia khác xuất hiện lợi thế
mà họ có thể khai thác để thu lợi nhuận cao hơn nơi mà họ đang đầu tư. Có thể nói
đây là yếu tố kinh tế cơ bản thúc đẩy các nhà đầu tư chuyển vốn của mình ra đầu tư
ở nước khác nhằm duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất của chủ đầu tư về vốn, kỹ
thuật, công nghệ, khai thác thị trường của nước nhận đầu tư để thu lợi nhuận đồng
thời tranh thủ các chính sách khuyến khích của nước nhận đầu tư để tối đa hoá lợi
ích của mình. Đối với nước nhận đầu tư thì họ có một số lợi thế cạnh tranh mà họ
chưa hoặc không có điều kiện khai thác do thiếu vốn, thiếu công nghệ tiên tiến,
thiếu kỹ thuật và ít có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao…
Chính vì vậy, họ muốn thu hút đầu tư nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh, tạo nguồn
vốn cho đầu tư phát triển.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế, đầu tư trực tiếp được hiểu là một hoạt động kinh
doanh mà ở đó có sự tách biệt ở tầm vĩ mô về chủ thể (bên đầu tư và bên nhận đầu
tư), nhưng lại có sự kết hợp vi mô trong việc sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu
tư. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp không chỉ là mối quan hệ buôn bán đơn thuần mà còn
là sự di chuyển những điều kiện sản xuất giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận.
Nói chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển vốn
quốc tế, trong đó người chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp là người trực tiếp
quản lý và điều hình hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
Theo Luật Đầu tư (2005) của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình
thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực sản xuất kinh doanh hay
dịch vụ nào đó và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
1.1.2 Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Xuất phát từ khái niệm, có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc
điểm sau:
- Các chủ đầu tư phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tùy theo
luật đầu tư nước ngoài (tại Việt Nam, khi liên doanh, số vốn góp của bên nước
ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định).
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
6
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
- Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với doanh
nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý doanh nghiệp
và quản lý đối tượng hợp tác tùy thuộc vào mức vốn góp của các bên khi tham gia,
còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người nước ngoài (chủ đầu tư)
toàn quyền quản lý doanh nghiệp.
- Lợi nhuận của nhà đầut tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh
doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh
nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sát
nhập các doanh nghiệp với nhau.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn với di chuyển vốn mà còn gắn với
chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị
trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư. Nhà đầu tư cùng với việc đưa
vốn còn đưa cả công nghệ, bí quyết công nghệ, kĩ năng tiếp thị, quản lý, đào tạo
nhân công và các năng lực trong sản xuất kinh doanh cũng như trong vấn đề quản lý
doanh nghiệp cho nước tiếp nhận vốn. Vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban
đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà nó còn bao gồm cả vốn vay
của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư trích từ lợi
nhuận thu được trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Thông thường, đi kèm
với dự án FDI là ba yếu tố: hoạt động thương mại (xuất, nhập khẩu), chuyển giao
công nghệ và di cư lao động quốc tế. Di cư lao động quốc tế cũng góp phần vào
việc chuyển giao kĩ năng quản lý của doanh nghiệp FDI.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh
quốc tế của các công ty đa quốc gia và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chính
sách về FDI của mỗi quốc gia tiếp nhận đầu tư thể hiện chính sách mở cửa và quan
điểm hội nhập quốc tế về đầu tư, đây được coi là nhân tố kéo, mặc khác, các công ty
đa quốc gia, trong chiến lược phát triển của mình sẽ mở rộng phạm vi hoạt động khi
có điều kiện thích hợp.
Bên cạnh đó, FDI còn có những đặc điểm cơ bản sau:
- FDI ít chịu sự chi phối của chính phủ: FDI do các nhà đầu tư hoặc doanh
nghiệp tư nhân thực hiện nên nó ít chịu sự chi phối của chính phủ, đặc biệt là nó ít
bị phụ thuộc và mối quan hệ giữa nước của chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư so
với các hình thức di chuyển vốn quốc tế khác.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
7
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
- FDI tạo được nguồn vốn dài hạn cho nước chủ nhà: FDI thường dài hạn nên
không dễ bị rút đi trong thời gian ngắn. Do đó nước chủ nhà sẽ được tiếp nhận một
nguồn vốn lớn bổ sung cho vốn đầu tư trong nước mà không phải lo trả nợ.
- Quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn gắn liền với chủ đầu tư: trong thời gian
đầu tư, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn gắn liền với chủ đầu tư, thành viên hội
đồng quản trị và việc điều hành, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh được phân
chia theo tỷ lệ góp vốn, quyền lợi của chủ đầu tư được gắn liền với lợi ích do đầu tư
mang lại.
- FDI là hình thức kéo dài “chu kì tuổi thọ sản xuất”, “ chu kì tuổi thọ kĩ thuật”
và “nội bộ hóa di chuyển kĩ thuật”. FDI sẽ giúp cho doanh nghiệp chuyển giao được
công nghệ lạc hậu ở nước mình nhưng dễ được chấp nhận ở nước có trình độ công
nghệ thấp hơn và từ đó kéo dài được chu kì sản xuất.
- Các bên tham gia vào các dự án FDI thường có quốc tịch khác nhau và sử
dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Vì mỗi quốc gia có ngôn ngữ riêng nên tất yếu
trong FDI sẽ có sự khác nhau về ngôn ngữ. Đặc điểm này đòi hỏi phải sử dụng ngôn
ngữ quốc tế và ngôn ngữ nước sở tại trong các văn bản của dự án và trong quá trình
hoạt động của dự án.
- Các dự án FDI chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật khác nhau: một sự án
FDI càng có nhiều bên tham gia thì lại càng chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật
khác nhau, nhưng thông thường là sử dụng luật của nước chủ nhà, tuy nhiên, ở một
mức độ nào đó, sự hoạt động của dự án vẫn chịu sự ảnh hưởng của luật pháp nước
các bên tham gia đầu tư, luật quốc tế, luật khu vực. Vì vậy, trong quá trình hội nhập
và phát triển, các quốc gia phải luôn có sự điều chỉnh và sửa đổi luật pháp của mình
sao cho ngày càng gần và phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này một mặt sẽ tạo
điều kiện cho sự mở rộng giao lưu kinh tế giữa các quốc gia, mặt khác sẽ tránh được
các tranh chấp, xung đột không đáng có trong quá trình hoạt động, quản lý các dự
án FDI.
- Trong quá trình thực hiện các dự án FDI, có sự “cọ xát” giữa các nền văn hóa
khác nhau, sự “cọ xát” này đòi hỏi phải có sự giao hòa văn hóa giữa các bên liên
quan từ đó có được sự hợp tác tốt đẹp. Điều này lý giải hiện tượng khi mới đầu tư
vào một thị trường nào đó, các nhà đầu tư nước ngoài thường lựa chọn hình thức
doanh nghiệp liên doanh để giảm bớt rủi ro, nhưng khi đã tìm hiểu và rõ hơn về thị
trường đầu tư thì họ lại có xu hướng đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài để
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
8
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
có thể toàn quyền quyền định mà không muốn có sự phụ thuộc hay tranh chấp trong
các quyết định đầu tư.
1.1.3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hiện nay tại Việt Nam có các hình
thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC).
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu
tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
để tiến hành đầu tư kinh doanh tại Việt Nam mà không thành lập pháp nhân mới.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giữa đại diện có thẩm quyền
của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh và hoàn toàn khác với hợp đồng
thương mại, hợp đồng giao nguyên liệu lấy sản phẩm và các hợp đồng khác ở chỗ
nó quy định rõ việc phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên. Có thể nói, hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức kinh doanh quốc tế,
trong đó, liên kết giữa các đối tác tương đối lỏng lẻo. Căn cứ pháp lý quan trọng
nhất đối với các dự án đầu tư theo hình thức này là hợp đồng hợp tác kinh doanh và
hệ thống pháp luật nước sở tại.
Đối với nước tiếp nhận:
- Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ, tạo ra thị trường
mới nhưng đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền điều hành dự án.
- Nhược điểm: khó thu hút đầu tư, chỉ thực hiện được đối với một số ít lĩnh
vực dễ sinh lời.
Đối với nước đầu tư:
- Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại
vào những lĩnh vực hạn chế đầu tư thâm nhập được như thị trường truyền thống của
nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và
xây dựng các mối quan hệ; không bị tác động lớn do khác biệt về văn hoá; chia sẻ
được chi phí và rủi ro đầu tư.
- Nhược điểm: không được trực tiếp quản lý điều hành dự án, quan hệ hợp tác
với đối tác nước sở tại thiếu tính chắc chắn làm các nhà đầu tư e ngại.
Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí giữa chính
phủ nước ngoài hoặc do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
9
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với chủ đầu tư nước
ngoài trên cơ sở hợp đồng kinh doanh (Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam).
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh doanh có tính chất quốc tế, hình
thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thốgn tài chính,
luật pháp và bản sác văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn,
quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy
ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung
ứng dịch vụ, hoạt đọng nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hoá sản phẩm,
đổi mới công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho ngưòi lao động làm việc
và học tập kinh nghiệm quản lí của nước ngoài.
- Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo các vấn đề liên quan đến dự án
đầu tư, thường xuất hiện mẫu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp; đối tác
nước ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi khi liên doanh phải
chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác; ngoài ra, thay đổi nhân sự ở công ty mẹ có ảnh
hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
- Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại;
được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lình vực bị cấm hoặc hạn chế
đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập được những thị
trường truyền thống của nước chủ nhà. Không mất thời gian và chi phí cho việc
nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ. Chia sẻ được chi phí và rủi
ro đầu tư.
- Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất
nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, định giá tài sản
góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong nước; không chủ
động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội kinh doanh khó giải
quyết khác biệt về tập quán, văn hoá.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý
và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh (Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam). Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
10
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi
trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các điều kiện về chính trị, kinh tế luật
pháp, văn hóa, mức độ cạnh tranh…Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách
pháp nhân là 1 thự thể pháp lý độc lập hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành
lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Đối với nước tiếp nhận:
- Ưu điểm: nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù doanh
nghiệp bị lỗ; giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập
trung thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những linh vực khuyến khích
xuất khẩu; tiếp cận được thị trường nước ngoài.
- Nhược điểm: khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài để
nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh nghiệp trong nước.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
- Ưu điểm: chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp nhằm thực hiện
được chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh các dự án đầu tư; được
quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng phục vụ yêu cầu
phát triển chung của tập đoàn.
- Nhược điểm: chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải chi phí
nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào
những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với các
cơ quan quản lý Nhà nước nước sở tại.
Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT)
Là hình thức hợp tác mà văn bản được kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước
ngoài) để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất
định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó
cho phía Việt Nam. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu
đường…Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng
chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác
là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chinh phủ nước chủ nhà dành cho quyền
kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại
toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về công trình đã xây dựng và chuyển
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
11
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
giao. Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà thanh toán
bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ ra và một tỉ lệ
lợi nhuận hợp lí. Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đòng BOT, BTO, BT
mặc dù hợp đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đòng là các cơ quan quản lí nhà
nước ở nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn các doanh nghiệp FDI khác, chủ
yếu áp dụng cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; được hưởng các ưu đãi đầu tư
cao hơn sơ với các hình thức đầu tư khác và điểm đặc biệt là khi hết hạn hoạt đọng,
phải chuyển giao không bồi hoàn công trình cơ sở hạn tầng đã được xây dựng và
khai thác cho nước sở tại.
Đối với nước chủ nhà:
- Ưu điểm: thu hút được vốn đầu tư vào những dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn
đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời nhanh chóng
có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các nguồn lực trong
nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế.
- Nhược điểm: khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lí và khó kiểm soát công trình.
Mặt khác, nhà nước phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu tư.
Đối với đầu tư nước ngoài:
- Ưu điểm: hiệu quả sử dụng vốn được bảo đảm; chủ động quản lí, điều hành
và tự chủ kinh doanh lợi nhuận, không bị chia sẻ và được nhà nước sở tại đảm bảo,
tránh những rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát.
- Nhược điểm: việc đàm phán và thực thi hợp đồng BOT thương mại gặp nhiều khó
khăn tốn kém nhiều thời gian và công sức.
Ngoài ra còn các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài khác như đầu tư
thông qua mô hình công ty mẹ và con, hình thức công ty cổ phần, hình thức chi
nhánh công ty nước ngoài, hình thức công ty hợp doanh và hình thức đầu tư mua lại
và sáp nhập (M&A).
1.1.4 Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với các nước đang
phát triển. Để tăng trưởng và phát triển kinh tế các nước đang phát triển gặp rất
nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường cũng như các kinh nghiệm và những
kiến thức trong quản lý Cho nên, các nước đang phát triển không ngừng cải thiện
môi trường đầu tư để tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
12
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng. Như vậy đầu tư trực tiếp nước
ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến nước nhận đầu tư, trong phần lý thuyết đề cập tới
những tác động như sau:
1.1.4.1. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tổng cầu:
Để tạo sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư. Đầu tư là một yếu tố chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu tư(I) làm cho tổng cầu( AD)
tăng nếu các yếu tố khác không đổi.
AD = C +I+G +X- IM
C: Tiêu dùng.
I: Đầu tư:
G: Tiêu dùng chính phủ
X: Xuất khẩu.
M: Nhập khẩu.
Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế một số nước không chỉ dựa trên khả năng sản xuất
mà còn phụ thuộc vào khả năng sản xuất được sử dụng, cùng với độ mạnh của cầu
(Sundrum, 1990). Sự tăng lên trong bất cứ thành phần nào của tổng cầu sẽ dẫn đến
sự tăng lên của GDP và tỷ lệ thu nhập. FDI có khả năng góp phần vào tăng trưởng
kinh tế của nước nhận đầu tư thông qua ảnh hưởng tích cực tới tổng cầu.
Sau cầu đầu tư ban đầu, cầu đầu tư kế tiếp – bởi các FIEs – cho đầu vào của
sản phẩm cũng rất quan trọng. Khi các FIEs tạo đầu tư trực tiếp và thiết lập nên sản
xuất ở nước nhận đầu tư. Nó cung cấp không chỉ thu nhập cho người lao động mà
cả tiết kiệm cho nước nhận đầu tư, cải thiện năng suất lao động của khu vực truyền
thống.
Tác động quan trọng khác về cầu của FDI là ảnh hưởng liên kết sau khi vào
khu vực nội địa của nước nhận đầu tư. Thông qua việc mua nguyên liệu, sản phẩm
trung gian do địa phương làm, FIEs có thể tạo cầu cho những sản phẩm này. Như
vậy, cung nội địa sẽ được khuyến khích để tạo ra nhiều đầu ra hơn, cung cấp cho
cầu của FIEs.
Hơn nữa, FDI, đặc biệt hướng xuất khẩu, xúc tiến cán cân xuất khẩu của
nước nhận đầu tư. Tận dụng lợi thế lao động rẻ, trẻ ở các nước này, cùng với những
kênh và chuyên môn của mình, FIEs hướng tới xúc tiến xuất khẩu cho các hãng nội
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
13
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
địa bằng việc sử dụng nguyên liệu và trung gian đầu vào của địa phương. Xuất khẩu
mở rộng đưa ra một số chỉ số quan trọng cho nền kinh tế cạnh tranh, trực tiếp
khuyến khích tăng trưởng kinh tế và cải thiện hiệu quả công nghiệp của nước nhận
đầu tư.
Hiện nay, có hai trường phái giữa người làm kinh tế và người làm chính sách về vai
trò của FDI ở nước nhận đầu tư. Cách nhìn thứ nhất như là động lực cho nước chủ
nhà, coi FDI có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Cách nhìn nhận khác thì
FDI là công cụ phá hủy quốc tế bởi MNCs (các công ty đa quốc gia). Mà đầu tư của
chúng vào các nước đang phát triển như sự dẫn dắt nền kinh tế phụ thuộc, hủy hoại
kinh tế của nước nhận đầu tư. Ví dụ cụ thể, chúng ta không thể phủ nhận vai trò to
lớn của FDI đối với tốc độ phát triển mạnh mẽ của các nước NICs (Hong Kong, Đài
Loan, Singapore và Hàn Quốc), tuy nhiên, tác động tích cực đó lại không xuất hiện
ở Mỹ Latinh và Châu Phi.
1.1.4.2 Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài theo tổng cung:
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung
từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản
xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ thể hiện qua phương trình sau:
Q = F( K,L,T,R ).
K: Vốn đầu tư.
L: Lao động.
T: Công nghệ.
R: Nguồn tài nguyên.
Các nhà kinh tế chỉ ra khung cảnh của các quốc gia đang phát triển có nền
kinh tế bị kìm hãm do thiếu vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, lao động có kỹ
năng, chuyên môn quản lý hay ngoại tệ. Việc thiếu các yếu tố trên như là mô hình
kinh tế với những khoảng cách là “cổ chai” trong nền kinh tế đang phát triển. Xóa
bỏ hay làm giảm bớt những khoảng cách này là chìa khóa cho những quốc gia muốn
tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa đất nước. Dựa trên các lý thuyết kinh tế phát
triển, những nhà kinh tế học đã chỉ ra FDI có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tăng
trưởng kinh tế của một nước đang phát triển thông qua các kênh sau:
Đầu tiên, FDI có thể góp phần tạo lập vốn cho nước nhận đầu tư thông qua
dòng vốn đầu tư vào trong nước, và nó còn có đóng góp them vào tiết kiệm nội địa.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
14
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
Theo công thức tiết kiệm bằng đầu tư, FDI làm tăng khả năng đầu tư của nước mà
dòng FDI chảy vào. Hơn nữa, FDI có thể mang lại những máy móc, thiết bị công
nghệ mới, đó là những hàng hóa mà nước nhận đầu tư chưa có khả năng tự sản xuất.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa FDI và đầu tư nội địa là không xác định được.
Như Arekoug (1976) nhận định FDI có thể kích thích hoặc chiếm chỗ những nhà
đầu tư nội địa. Hơn thế, sự gia tăng tư bản nước ngoài làm giảm áp lực trên tỷ lệ
trao đổi đưa lại sự khuyến khích cho đầu tư nội địa. Hơn thế, sự gia tăng tư bản
nước ngoài làm giảm áp lực trên tỷ lệ trao đổi đưa lại sự khuyến khích cho đầu tư
nội địa. Dù vậy, FDI cũng không thể thay thế đầu tư bản địa ở nước nhận đầu tư.
Khi FDI được đưa vào trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài có thể cạnh tranh với
nhà đầu tư bản địa nhằm vào việc sử dụng nguồn lực khan hiếm như giấy phép nhập
khẩu, lao động có kỹ năng,…, và do vậy, nguồn cung của những nguồn lực khan
hiếm này bị giảm đi với các nhà đầu tư bản địa. Mặt khác, nếu những nhà đầu tư
nước ngoài này có xu hướng bán sản phẩm của họ tại thị trường nội địa, đạt thị phần
cao thì sẽ dẫn đến việc các hang địa phương bị loại bỏ ngay trên sân nhà, hay có khả
năng buộc phải thu hẹp thị phần đã bị san sẻ. Bên cạnh đó, nhà đầu tư có khả năng
loại bỏ cơ hội đầu tư của nhà đầu tư địa phương dựa trên lợi thế công nghệ và quyền
lực thị trường của mình.
FDI có thể xúc tiến sản xuất tại khu vực nội địa nước nhận đầu tư thông qua
chuyển giao công nghệ, đào tạo lao động địa phương về quản lý và kỹ thuật. Rất
nhiều nhà kinh tế đồng ý rằng FDI đem lại sự phát triển công nghệ, chuyển giao và
truyền bá công nghệ, góp phần quan trọng trong nền kinh tế nước nhận đầu tư. Và
trong các hình thức thì liên doanh là hình thức thuận tiện cho việc chuyển giao và
truyền bá công nghệ.
Thêm vào đó, thông qua ảnh hưởng của liên kết trước, hãng đầu tư nước
ngoài cung cấp thiết bị, máy móc và các sản phẩm trung gian cho hãng nội địa. Khi
có sự sẵn sang của đầu vào, việc sản xuất của hãng nội địa có thể được khuyến
khích. Hơn nữa, những sản phẩm sản xuất bởi FIEs (các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài) có thể thay thế sản phẩm nhập khẩu, giúp nước nhận đầu tư giảm sự
phụ thuộc vào nhập khẩu, từ đó, giảm thâm hụt cán cân thanh toán.
Cuối cùng, FIEs cũng góp phần vào thu nhập thuế của chính phủ nước nhận
đầu tư. Tuy nhiên, đóng góp ròng còn phụ thuộc vào thu nhập thuế được trả bởi
FIEs có lớn hơn những chi phí mà nước nhận đầu tư phải bỏ ra cho việc thiết lập và
cải thiện cơ sở hạ tầng thu hút FDI.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
15
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
1.1.4.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng
để bổ sung vốn cho đầu phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp
sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với những
nước đang phát triển.
Hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào cái “ vòng luẩn quẩn” đó là:
thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp rồi hậu quả là thu nhập
thấp. Tình trạng luẩn quẩn này là “điểm nút” khó khăn nhất mà các nước này phải
vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào
tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra được điểm đột phá
chính xác một mắt xích “ vòng luẩn quẩn” này. Trở ngại lớn nhất đối với các nước
đang phát triển là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc
làm trong các nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật tăng năng suất lao động… Từ đó
tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên để
tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ chông chờ vào tích luỹ nội bộ thì hậu quả khó tránh
khỏi sẽ là sự tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước ngoài sẽ
là một “cú hích” để góp phần đột phá cái vòng luẩn quẩn đó. Đặc biệt FDI là một
nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho nước
nhận đầu tư. Hơn nữa luồng vốn này có lợi thế hơn so với luồng vốn vay ở chỗ: thời
hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một dự án đầu tư, còn
thời hạn của FDI thì thường linh hoạt hơn.
Theo mô hình lý thuyết ” hai lỗ hổng” của Cherery và Stout, có hai cản trở
chính cho sự tăng trưởng của một quốc gia đó là: (1) Tiết kiệm không đủ cho nhu
cầu đầu tư gọi là “ lỗ hổng tiết kiệm”. (2) Thu nhập của hoạt động xuất khẩu không
đủ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được gọi là “lỗ hổng thương
mại”. Hầu hết các nước đang phát triển hai lỗ hổng trên rất lớn. Vì vậy FDI còn là
một nguồn quan trọng không chỉ là sự bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu
hụt về ngoại tệ nói riêng, bời vì FDI góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh và mở
rộng khả năng xuất khẩu cuả nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công
ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ hoạt động dịch vụ phục vụ nước ngoài.
Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng minh rằng, muốn thoát khỏi đói nghèo,
muốn thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển… thì không còn cách nào khác
là phải đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các nước đang phát triển lại vấp phải
một vấn đề thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội địa còn thấp, tổng đầu tư xã hội không
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
16
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
đáng kể. Do đó, để tạo đà kích thích tăng trưởng các nước đang phát triển cần có
nguồn vốn từ bên ngoài, vì vậy, nguồn vốn FDI trở thành nhân tố có vai trò hết sức
quan trọng.
FDI vào các nước đang phát triển sẽ tạo tác động tích cực đối với việc huy
động các nguồn vốn khác như ODA, vốn đầu tư trong nươc… và từ đó kích thích
tăng trưởng kinh tế, dần tạo nên một hình ảnh đáng tin cậy về nước này trong các tổ
chức và cá nhân nước ngoài. Chính lòng tin ấy sẽ tác động trở lại, góp phần đẩy
nhanh tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển.
1.1.4.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực, giúp
giải quyết lao động.
Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn
đề xã hội và mức độ tiêu dung của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống
thông qua đầu tư vào các lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề và
kỹ nằng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng xuất
lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng.
Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp
phần giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng tốc độ tăng trưởng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua
việc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. Cần phải thấy
rằng, cùng với các dự án FDI là các xí nghiệp liên doanh, công ty 100% vốn nước
ngoài… được thành lập, qua đó đã thu hút rất nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp,
góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp cho nước nhận đầu tư. Chỉ ở Việt Nam, tính
đến hết năm 2009, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút được
khoảng hơn 1.611 ngàn lao động, ngoài ra FDI còn tạo ra hàng chục vạn lao động
gián tiếp trong lĩnh vực xây dựng và các lĩnh vực khác. Thực tiễn ở một số nước
cho thấy FDI đã đóng góp tích cực tạo ra việc làm trong các ngành sử dụng nhiều
lao động như may mặc, điện tử, chế biến.
Thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở lớp đào tạo dạy nghề, FDI còn góp
phần quan trọng đối với phát triển giáo dục nươc chủ nhà trong các lĩnh vực giáo
dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài
đã góp phần vào quỹ phát triển giáo dục phổ thông, cung cấp một số thiết bị giảng
dạy cho các cơ sở giáo dục của nước chủ nhà, tổ chức các chương trình phổ cập
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
17
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
kiến thức cơ bản cho người lao động làm việc trong các dự án( trong đó có nhiều
lao động được cử đi đào tạo ở nước ngoài)
FDI còn mang lại cho các nước tiếp nhận đầu tư những quy trình sản xuất,
chuyển giao kỹ thuật, bản quyền phát minh, kinh nghiệm quản lý cho nước chủ nhà,
góp phần nâng cao và phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Bên cạnh
đó, những công nhân và cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, vốn đã có một trình độ tương đối cao so với mặt bằng chung, nay lại càng có
cơ hội học hỏi do được tiếp cận với khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Dưới sự
quản lý chặt chẽ và mức độ đòi hỏi cao của phía nước ngoài, các chuyên gia nước
chủ nhà sẽ nhanh chóng tiếp cận được với những phương pháp quản lý hiện đại, từ
đó cải thiện cách thức tổ chức điều hành sản xuất, sáng tạo hơn, hiệu quả hơn; góp
phần nâng cao năng lực sản xuất của đất nước.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những thu hút một lượng lao động lớn, doanh
nghiệp FDI còn gián tiếp ảnh hưởng đến cơ hội việc làm ở những ngành có liên
quan. Theo Ngân hàng thế giới, cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo ra việc làm cho từ 2
đến 3 lao động gián tiếp trong xây dựng và cung ứng các loại dịch vụ khác.
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại lợi ích về tạo công ăn việc làm.
Đây là một tác động kép: tạo them việc làm cũng có nghĩa là tăng them thu nhập
cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước. Tuy nhiên, sự
đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với việc làm trong các nước nhận đầu
tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
1.1.4.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
nước đang phát triển theo hướng CNH- HĐH.
Trong điều kiện kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực và
điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các nước. Trong đó, FDI là
một động lực mạnh mẽ, tác động to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hình
thức: Chuyển dịch cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành. Sự
tập trung đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành nghề và địa
phương có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ làm góp phần làm phát huy nội lực của các
ngành và lĩnh vực đó, đồng thời kéo theo sự phát triển của một số vùng lân cận và
ngành nghề có liên quan như các ngành bổ trợ đầu vào, các ngành liên quan đến tiêu
thụ đầu ra… Khi sự đầu tư vào các lĩnh vực và ngành này trở nên bão hoà, các nhà
đầu tư sẽ chuyển sang các ngành nghề và địa phương khác theo định hướng của
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
18
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
Chính phủ thông qua một số ưu đãi đầu tư, như vậy đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu
ngành nghề và cơ cấu vùng lãnh thổ theo hướng tích cực.
Nhờ đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước chủ nhà cơ cấu chuyển dịch nhanh
tỷ trọng các ngành công nghiệp dịch vụ và giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong
tỷ trọng GDP.
Hoạt động FDI cũng có tác động lớn tới cơ cấu xuất nhập khẩu của các nước
đang phát triển. Mặc dù giai đoạn đầu triển khai, FDI thường làm tăng nhập khẩu vì
phải nhập máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu để xây dựng cơ bản dẫn đến tình trạng
thâm hụt thường xuyên nhưng trong dài hạn, cán cân thương mại sẽ phát triển theo
hướng tích cực hơn do các sản phẩm của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài sản
xuất ra sẽ đáp ứng phần nào nhu cầu nội địa. Theo đó, khả năng xuất khẩu của các
nước này cũng được cải thiện rõ rệt.
1.1.4.6. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động đến chuyển giao và phát triển công
nghệ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng
công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh chính là
chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào phát triển khả năng công nghệ của
các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan
trọng mà nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài.
Chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được
thực hiện chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia (TNCs), dưới các hình thức:
chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của các (TNCs) và chuyển giao giữa
các chi nhánh của các (TNCs). Những năm gần đây, các hình thức này thường xen
nhau với các đặc điểm rất đa dạng.
Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của (TNCs) sang
nước đang phát triển ở hình thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp lien doanh
có phần lớn vốn nước ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công
nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất
lượng, công nghệ quản lý,công nghệ marketing.
Nhìn chung, các (TNCs) rất hạn chế về chuyển giao những công nghệ mới có
tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc
mất bản quyền công nghệ do việc bắt trước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của
các công ty chủ nhà. Mặt khác, do nước chủ nhà còn chưa đáp ứng được yêu cầu sử
dụng công nghệ của các (TNCs).
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
19
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
các (TNCs) còn góp phần tích cực đối với tăng năng lực nghiên cứu và phát triển công
nghệ của nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần lớn các hoạt động R& D của các
chi nhánh (TNCs) ở nước ngoài là cải biến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử
dụng của địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngoài các
nhà đầu tư trong nước học được cách thiết kế, chế tạo công nghệ nguồn, sau đó cải
biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công
nghệ của mình. Nhờ những tác động tích cực trên, khả năng công nghệ của nước
chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố, nhờ đó thúc đẩy
tăng trưởng.
1.1.4.7. FDI làm tăng thu ngoại tệ, góp phần bổ sung quan trọng cho ngân sách
nhà nước
FDI đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc
thu thuế, phí và các nghĩa vụ tài chính khác của các doanh nghiệp. Thêm vào đó,
như một giải pháp để cải thiện cán cân thanh toán của các nước đang phát triển, hầu
hết các dự án FDI đều có chủ trương tăng cường xuất khẩu. Điều này cũng làm tăng
thêm một lượng ngoại tệ không nhỏ cho nước chủ nhà, góp phần cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế của các nước tiếp nhận đầu tư này.ngoài ý nghĩa tăng cường vốn
đầu tư nội bộ, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn là nguồn bổ sung quan trọng vào
ngân sách của nhà nước. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, doanh nghiệp FDI mang
lại cho nước sở tại một khoản thu thông qua các loại thuế, phí, lệ phí theo quy định
của nhà nước. Đối với các nước đang phát triển thì nguồn thu này có thể chiếm tới
10 – 15% tổng thu từ thuế. Điều này càng khẳng định hơn tầm quan trọng của FDI
với nền kinh tế các nước đang phát triển.
1.1.4.8. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị
trường thế giới.
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưởng kinh tế. Mối quan
hệ này được thể hiện ở các khía cạnh: xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thế so
sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất; nhập khẩu
bổ sung các hang hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dung, xuất nhập khẩu
còn tạo ra tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ tăng cường
kiến thức marketing cho các doanh nghiệp nội địa và nôi kéo họ vào mạng lưới
phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
20
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước đang phát triển có thể tiếp
cận với thị trường thế giới bởi vì hầu hết các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
đều do các công ty xuên quốc gia thực hiện mà các công ty này lại có lợi thế trong
việc tiếp cận với khách hang bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế
và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hang đúng hẹn.
Bên cạnh những tác động tích cực thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài còn có tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế xã hội, những tác động
tiêu cực đó là:
- Ảnh hưởng đến thị phân của doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn đến sự
phá sản của các doanh nghiệp trong nước do không thể cạnh tranh lại, gây rối loạn
thị trường, ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng: nguồn vốn FDI có thể gây ra ảnh
hưởng phức tạp và rộng lớn tới các doanh nghiệp bản xứ và tới mức độ cạnh tranh
của một nước đang phát triển. Tuy FDI khuyến khích hoạt động kinh doanh trong
nước bằng cách tạo ra một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt tuy nhiên điều
này lại làm giảm số lượng các doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của địa phương do
bị phá sản hoặc bị mua bán, sát nhập với các công ty hay chi nhánh của công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Việc tham gia thị trường của các doanh nghiệp trong nước
tuy góp phần đào thải những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả tuy nhiên nó lại
có thể đẩy một số ngành công nghiệp truyền thống đi vào chỗ chết yểu do không đủ
vốn, kĩ thuật cũng như do chính đặc thù của các ngành công nghiệp truyền thống
này. Với sức mạnh về vốn và công nghệ, một số doanh nghiệp liên doanh hay 100%
vốn nước ngoài có thể tạo sức ép lên các doanh nghiệp nhỏ hơn, thao túng thị
trường, gây nên sự rối loạn, ảnh hưởng đến người tiêu dùng và khiến môi trường
cạnh tranh không còn lành mạnh. Trong nhiều trường hợp, đầu tư trực tiếp nước
ngoài làm tăng chi phí sản xuất ở nước sở tại và người tiêu dùng phải mua hàng hóa
với giá cao do các doanh nghiệp nước ngoài thường tính đội giá của nguyên vật
liệu, bán thành phẩm hay máy móc thiết bị nhập về để thực hiện đầu tư. Việc làm
này mang lại nhiều lợi ích cho chủ đầu tư, ví dụ như trốn thuế của nước chủ nhà,
giấu diếm lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được, từ đó hạn chế các đối thủ cạnh tranh
khác xâm nhập vào thị trường.
- Cơ cấu kinh tế: các nhà đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận mà tập trung đầu tư vào
những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, cơ sở hạ tầng đảm bảo cho đầu
tư có hiệu quả để có thể quay vòng vốn cũng như thu hồi vốn nhanh, trong khi đó
những vùng kinh tế khó khăn, vùng xa, vùng cần phát triển thì bị lãng quên. Cũng
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
21
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
vì mục tiêu lợi nhuận này mà các ngành được nhà đầu tư lựa chọn bỏ vốn là những
ngành phổ biến và dễ sinh lãi, dẫn đến tình trạng dư thừa công suất sản xuất và sản
lượng ở một số ngành trong khi một số ngành khác cần thiết lại không được quan
tâm đến. Điều này dẫn đến tình trạng tiềm năng chưa sử dụng hết, nhu cầu xã hội
chưa được đáp ứng đầy đủ trong khi nhiều nguồn lực xã hội bị phí phạm. Sự tham
gia của các doanh nghiệp FDI có thể làm chệch định hướng phát triển của nhà nước
cũng như hướng nguồn nhân lực tới các ngành phổ biến, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến cơ cấu kinh tế.
- Môi trường sinh thái: chuyển giao công nghệ thông qua FDI bên cạnh những
mặt tích cực cũng có những hạn chế nhất định. Các công ty có vốn nước ngoài có
thể sử dụng các dây chuyền công nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, thậm
chí bị cấm sử dụng ở nước họ nhằm tái sử dụng, kéo dài tuổi thọ cho công nghệ. Họ
coi nước tiếp nhận đầu tư như “bãi rác thải” để “chuyển giao” những công nghệ này
với mức chi phí cao giả tạo. Cũng có trường hợp để duy trì ưu thế công nghệ mà
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao một cách không đầy đủ, dẫn đến tốn kém cho
nước sở tại mà hiệu quả lại không được cao. Ngoài ra, một số doanh nghiệp còn sản
xuất các sản phẩm có hại cho môi trường hay sức khỏe con người như thuốc lá,
thuốc trừ sâu…Việc các nhà đầu tư khai thác tài nguyên cũng có thể gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường sinh thái của nước sở tại. Bị đứng trên thế yếu, phải
phụ thuộc vào nguồn vốn FDI cho phát triển kinh tế mà nhiều nước tiếp nhận đầu tư
phải chấp nhận những điều kiện chủ đầu tư đặt ra, gây ra những hậu quả cho môi
trường cũng như xã hội.
- Tình trạng thất nghiệp: cac doanh nghiệp FDI tạo thêm việc làm cho người
lao động nhưng đồng thời cũng làm mất đi công ăn việc làm của những lao động từ
các công ty trong nước bị phá sản do sự cạnh tranh với các công ty có vốn đầu tư
nước ngoài. Cùng với sự phát triển của công nghệ thì dần dần máy móc sẽ thay thế
con người, những lao động có trình độ không phù hợp sẽ bị đào thải.
- Tình hình xuất nhập khẩu: nhiều nhà đầu tư FDI lại nhắm vào thị trường
trong nước chứ không hướng ra xuất khẩu khiến nước sở tại phải nhập nhiều máy
móc, trang thiết bị công nghệ để sản xuất những sản phẩm trong nước không có.
Điều này làm trầm trọng thêm tình trạng nhập siêu của quốc gia đó.
- Tình hình chính trị xã hội: có vai trò quan trọng với nước sở tại, các nhà đầu
tư nước ngoài có được những ưu đãi rất lớn từ chính quyền nước sở tại. Các dự án
càng lớn, càng hiệu quả thì sự ưu đãi này càng lớn hơn dẫn đến tình trạng phụ thuộc
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
22
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
cả về kinh tế và chính trị. Để đạt được mục tiêu phát triển, nước sở tại có thể phải
chấp nhận những yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài, sự phụ thuộc về vốn, công
nghệ và mạng lưới tiêu thụ dần làm mất quyền tự chủ của nước chủ nhà. Hơn nữa,
sự phát triển quá nhanh và chiếm lĩnh thị phần của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài được coi như sự yếu kém của nền công nghiệp trong nước, sự độc quyền của
các công ty này có thể dẫn đến những tổn thất phúc lợi cho dân cư. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài có thể gây ra những ảnh hưởng xấu về mặt xã hội khác như sự gia tăng
của tệ nạn xã hội, sự thay đổi lối sống phong cách sống trong cộng đồng, sự đe dọa
đến nèn văn hóa truyền thống…
1.2 Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa bàn tỉnh.
1.2.1 Các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Các nhà kinh tế đã phân tích và cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra do
nhiều nguyên nhân khác nhau như sau:
- Trình độ công nghệ ở các nước khác nhau.
- Vốn ở các nước khác nhau.
- Lao động ở các nước khác nhau.
- Hàng hoá ở các nước khi sản xuất có loại dung nhiều lao động, có loại dung
nhiêu công nghệ.
- Nhu cầu hàng hoá ở các nước khác nhau nhưng khả năng sản xuất ở các nước
cũng khác nhau.
- Thị hiếu của khách hang từng nước khác nhau.
- Chi phí vận chuuyển, thuế và các rào cản khác đối với lưu chuyển hang hoá
giữa các nước khác nhau.
- Nguồn lực sản xuất: các nước chưa sử dụng hết nguồn lực sản suất.
1.2.1.1 Các lý thuyết kinh tế vĩ mô.
Lý thuyết này dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố vốn và lao
động giữa các nước cũng như việc đầu tư ra nước ngoài nhằm phân tán rủi ro. Các
lý thuyết kinh tế vĩ mô thường dựa trên mô hình 2x2; hai nước, hai hang hoá và hai
yếu tố sản xuất.
Lý thuyết HO( Heckcher và Ohlin(1933), Richard S. Eckaus(1987):
- Mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ở phạm vi toàn cầu nhờ vào sử dụng hiệu quả
vốn đầu tư là nguyên nhân dẫn đến đầu tư nước ngoài.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
23
Đề tài: Thu hút FDI trên địa bàn tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2006-2020
- Nước đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn thấp( thừa vốn), trong khi đó
nước nhận đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn( thiêú vốn).
- Chênh lệch hiệu quả đã dẫn đến dòng đầu tư giữa các nước( Thừa vốn ->
thiếu vốn).
Mô hình MacDougall – Kemp (1964): theo mô hình này những nước dư thửa
vốn đầu tư có năng suất cận biên của vốn thấp hơn ở những nước thiếu vốn đầu tư,
vì vậy xuất hiện dòng luân chuyển vốn ở những nước này.
Theo Krugman (1983) và Dunning và Narula (1996): sở dĩ có đầu tư nước
ngoài là do có sự thay đổi các chính sách kinh tế vĩ mô như tài chính, thuế, ngoại
hối…ở các nước tham gia đầu tư.
Theo K. Kojima (1978): sở dĩ có đầu tư nước ngoài là do có sự khác nhau
giữa tỷ suất lợi nhuận; những nước có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút được vốn đầu
tư mà sự chênh lệch này chủ yếu do giá lao động và dung lượng thị trường.
Theo D. Salvatore (1993): sở dĩ có đầu tư nước ngoài là do có sự phân tán rủi ro.
1.2.1.2 Các lý thuyết kinh tế vi mô.
Theo Stephen Hymer (1976): độc quyền của thị trường đã thúc đẩy các công
ty mở rộng ra thị trường nước ngoài để khai thác các lợi thế của mình về công nghệ,
kĩ thuật quản lý…mà các công ty trong cùng ngành công nghiệp ở các nước nhận
đầu tư không có được.
Theo Charles Kindleberger (1969) và Richard E. Caves (1971): các công ty
đầu tư ra nước ngoài nhằm tối đa hóa lợi nhuận do có sự độc quyền của mình.
Theo Robert Z. Aliber (1970): FDI là do có hàng rào thuế quan làm tăng giá
nhập khẩu, các công ty sẽ đầu tư sang nước có thuế nhập khẩu cao và quy mô thị
trường lớn nhằm giảm chi phí và tăng lợi nhuận.
Theo Vernon (1966): việc sản xuất hàng loạt đòi hỏi tay nghề cao, vốn đầu tư
lớn, điều này chỉ có thể xảy ra ở các nước phát triển; tuy nhiên, sản xuất hàng loạt
một mặt dẫn đến việc hạ giá thành, mặt khác sẽ dẫn đến tình trạng bão hòa sản
phẩm. Để tránh suy thoái các công ty phải mở rộng ra nước ngoài, nhưng điều này
gặp phải cản trở của hàng rào thuế quan và chi phí vận chuyển, mặt khác do yêu cầu
thương mại hóa sản phẩm nên việc sản xuất đã được tiêu chuẩn hóa, lao động tay
nghề thấp có thể sử dụng được. Lúc này FDI xuất hiện vì nó hiệu quả hơn trong
nước để xuất khẩu.
HV: Đinh Quang Hào Lớp: CH18L
24