Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Quỹ tiền tệ quốc tế IMF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.73 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
KHOA TÀI CHÍNH_KẾ TOÁN
ĐỀ TÀI : QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ (IMF)
Họ và tên: Võ Thị Mỹ Phụng
MSSV: 3112420250
Lớp: DTN 1123
Ngành: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Giáo viên hướng dẫn: Tiến Sĩ Nguyễn Văn Nông
Hồ Chí Minh, Ngày 13 Tháng 4 Năm 2015
1
2
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh mang lại những cơ hội lớn cho
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc như là được nhận các lời khuyên cho các chính sách mới,
sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính khi rơi vào các tình cảnh khó khăn, thì đồng thời nó
cũng tiềm ẩn những nguy cơ của các cuộc khủng hoảng. Bởi vì sự thay đổi của các thị
trường tài chính cùng với mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước,
những điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều có thể dẫn đến nguy cơ khủng
hoảng. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là một trong những tổ chức tài chính quốc tế lớn đã
có những đối sách, chương trình điều chỉnh cơ cấu cho các cuộc khủng hoảng tài
chính-tiền tệ. Hiện nay, IMF có 188 thành viên, tuy nhiên những chính sách, chương
trình hỗ trợ của IMF khi thực hiện ở mỗi nước thì kết quả đạt được lại khác nhau.
Mục đích của IMF là thúc đẩy hợp tác tiền tệ quốc tế, ổn định tỷ giá hối đoái, và mở
rộng thường mài quốc tế bằng cách đóng vai trò là người cho vay cuối cung khi một
quốc gia thành viên phải đối mặt với khủng hoảng. Và nó hoàn toàn khác WB về bản
chất bởi vì nó không phải là người trung gian giữa nhà đầu tư và người đi vay. Về
nguyên tắc, IMF có cấu trúc going như một hợp tác xã tài chính. Tùy thuộc vào sự
đóng góp của mỗi nước thành viên mà nó sẽ nhận được một hạn ngạch riêng cho
mình và chính điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyên biểu quyết của họ trong
việc ra các quyết định của IMF. Từ khi thành lập vào năm 1944 đến nay IMF đã đóng


góp một vai trò nhất định trong việc ổn định nền kinh tế toàn cầu, tuy nhiên nó cũng
không tránh được những lời chỉ trích về những mặt yếu kém của nó. Việt Nam đã
tham gia vào IMF từ sớm, tuy nhiên mãi cho đến năm 1993 chúng ta mới bắt đầu nối
lại mối quan hệ với IMF, và chính điều này đã tạo nên những sự thay đổi tích cực
3
trong các hoạt động kinh tế, các chính sách cải cách và quản lí, có được sự hỗ trợ về
nguồn vốn trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như các chương trình xóa đói giảm
nghèo…Do đó, việc xem xét các vai trò quan trọng của IMF và bản thân của đất nước
chúng ta có phù hợp với những chính sách của IMF cả về lý luận và thực tiện, các xử
lý những bất đồng và cách thức phối hợp thực thi những chính sách ấy là một điều rất
quan trọng trong việc phát triển đất nước hiện nay.
4
1. Giới thiệu
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là một tổ chức quốc tế về tài chính tiền tệ mà trong đó thành
viên là chính phủ của các nước. Từ các ngày đầu thành lập, IMF đơn thuần chỉ là một tổ
chức hợp tác để giám sát các hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế, tuy nhiên IMF cũng
đồng thời hỗ trợ hệ thống này bằng những khoản tiền đôi khi tương đối lớn dưới hình
thức cho các nước thành viên vay. Trên thực tế, IMF được mọi người biết đến nhiều hơn
thông qua các như kiện như là đưa hàng tỷ USD vào hệ thống này trong thời kì khủng
hoảng nợ vào những năm thập kỉ 80 hay là rót một lượng tiền khổng lồ vào Nga và
Mêhicô hồi thập niên 90. Tuy nhiên, IMF được thành lập dựa vào những tôn chí và mục
tiêu riêng. Thứ nhất, IMF mong muốn thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế
trường trực có trách nhiệm, cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các
vấn đề tiền tệ quốc tế. Thứ hai, IMF tạo điều kiện mở rộng và tăng cường cân đối hoạt
động mậu dịch quốc tế và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao
việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên,
coi đó là mục tiêu qua trọng nhất của chính sách kinh tế. Thứ ba, IMF hy vọng tăng
cường ổn định ngoại hối nhàm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dịch ngoại hối
giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh, bên cạnh đó, hỗ trợ việc
thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên và xóa bỏ các

hạn chế về ngoại hối gây tổn hại đến sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế. Thứ tư, IMF
sẽ tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ các nguồn lực dự trữ
của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho sửa chữa sự mất cân đối trong cán cân
thanh toán quốc tế. Đồng thời, rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán
cân thanh toán của các nước thành viên. Trong hơn 70 năm qua, IMF đã khẳng định được
vai trò cũng như thực hiện các mục tiêu mình trong việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy
phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập quốc tế diễn ra trên quy mô ngày càng
ngày rộng với tốc độ ngày càng nhanh. Và để biết hơn về IMF cũng như các thành viên
tổ chức này, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về các chức năng, lịch sử hình thành, cơ cấu tổ
5
chức để có được một cái nhìn bao quát hơn và hiểu được phương thức hoạt động của
IMF.
2. Chức năng của IMF
Nhiệm vụ cơ bản của IMF là giúp đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính tiền tệ
quốc tế. Và để có thể dễ dàng thực hiện nhiệm vụ đó nó thường đi theo ba con đường sau
đây: theo dõi nền kinh tế toàn cầu và nền kinh tế của các nước thành viên, cho vay đối
với các nước đang gặp khó khăn trong việc cân bằng cán cân thanh toán và đưa ra các sự
giúp đơx thiết thực cho các thành viên.
2.1. Giám sát
Khi một nước bắt đầu gia nhập vào IMF, họ bắt buộc phải đồng ý sự giám sát của
cộng đồng quốc tế về các chính sách kinh tế và tài chính của mình. Bên cạnh đó, họ
cũng phải làm một bản cam kết để theo đuổi các chính sách có lợi cho sự tăng trưởng
kinh tế như là ổn định giá cả một cách hợp lý, tránh các thao tác tỷ giá hối đoái bằng
các lợi thế cạnh tranh không lành mạnh và cung cấp cấc dự liệu về nền kinh tế của họ
với IMF. Sự giám sát thường xuyên các nền kinh tế và các khuyến nghị chính sách
của IMF nhằm xác định những điểm yếu có thể là nguyên nhân và dẫn đến sự bất ổn
định trong tài chính hoặc kinh tế. Quá trình này thường được gọi là giám sát
Giám sát quốc gia
Giám sát quốc gia là một hoạt động được diễn ra liên tục và thường xuên (thường là
hằng năm) nhằm tham vấn toàn diện đối với từng thành viên của tổ chức và nó cũng

có thể diễn ra các cuộc thảo luận bất kỳ thời điểm nào nếu cần thiết. Các cuộc tham
vấn này được biết đen như là “tham vấn Điều IV” bởi vì nó được yêu cầu trong Điều
IV của bản hiệp định tham gia IFM. Khi cuộc tham vấn này xảy ra, một nhóm các
nhà kinh tế của IMF sẽ đến thăm một quốc gia để đánh gia sự phát triển kinh tế, tài
chính và thảo luận về các chính sách kinh tế, tài chính của đất nước đó với chính phủ
và các ngân hang trung ương. Nhiệm vụ của các cán bộ IMF cũng là thường xuyên
gặp gỡ với các đại biểu Quốc hội và đại diện các doanh nghiệp, các công đoàn lao
6
động và đoàn thể dân sự. Sau đó, nhóm nghiên cứu này sẽ báo cáo lại những phát
hiện của mình với ban quản lý của IMF và sau đó trình bày cho họ để thảo luận với
với ban điều hành – nơi tập trung những đại diện của tất cả các nước thành viên IMF.
Một bản tóm tắt quan điểm của hội đồng này sau đó được chuyển đến chính phủ của
đất nước. Bằng cách này, các quan điểm và những bài học kinh nghiệm của cộng
đồng quốc tế được mang đến cho chính sách quốc gia. Hầu hết các bản bản tóm tắt
của các cuộc thảo luận đều được đăng tải trên các bài báo và trang Web của IMF,
cũng như trong các bản báo cáo của các quốc gia.
Giám sát khu vực
Giám sát khu vực liên quan đến việc kiểm tra các đoàn thể tiền tệ trong việc theo
đuổi các chính sách của IMF, bao gồm khu vực đồng Euro (The Euro Area), liên
minh kinh tế và tiền tệ Tây Phi (The West African Economic and Monetary Union),
cộng đồng kinh tế và tiền tệ Trung Phi (The Central African Economic and Monetary
Community), và liên minh tiền tệ Đông Caribbean (The Eastern Caribbean Currency
Union). Các bản báo cáo về các nền kinh tế khu vực triển vọng cũng đang được
chuẩn bị để thảo luận về sự phát triển kinh tế và các vấn đề chính sách quan trọng
như ở Châu Á Thái Bình Dương, Sub-Saharan Châu Phi, và Tây bán cầu.
Giám sát toàn cầu
Giám sát toàn cầu đòi hỏi phải được đánh giá bởi ban điều hành của IMF về các xu
hướng kinh tế và sự phát triển toàn cầu. Các ý kiến chính được dựa trên các bài báo
cáo của Triển vọng kinh tế thê giới (The World Economic Outlook) và báo cáo ổn
định tài chính toàn cầu (The Global Financial Stability Report), trong đó nêu rõ sự

phát triển, các triển vọng và các vấn đề chính sách trong thị trường tài chính quốc tế,
bên cạnh đó các nhà giám sát tài chính cũng phân tích những phát triển mới nhất
trong tài chính công. Ba bài báo cáo được công bố hai lần một năm với các bản cập
nhật được cung cấp dựa trên cơ sở hàng quý. Thêm vào đó, ban điều hành của IMF
thường tổ chức các cuộc thảo luận về sự phát triển kinh tế và thị trường thế giới
không chính thức hơn.
7
2.2. Cho vay
IFM đã được tạo ra để bảo vệ một đất nước gặp khó khăn tài chính nghiêm trọng,
không thể trả các hóa đơn quốc tế của mình, hay là đối đầu những vấn đề tiềm năng
cho sự của hệ thống tài chính quốc tế. Bất kỳ quốc gia thành viên nào, dù giàu, thu
nhập trung bình hoặc kém có thể chuyển sang các khoản IMF tài chính nếu đất nước
đó không thể tìm đủ nguồn tài chính về các điều khoản giá cả phải chăng trên thị
trường vốn để tạo ra sự thanh toán quốc tế và duy trì một mức dự trữ an toàn. Tuy
nhiên, các cuộc khủng khaongr tài chính toàn cầu đã nêu bật nhu cầu về một mạng
lưới tài chính toàn cầu an toàn để giúp các nước đối phó với những cú sốc bất lợi. Do
đó, IMF đã bổ sung và cải cách các chính sách cho vay truyền thồng gần đây với các
công cụ hiệu quả hơn để phòng ngừa khủng hoảng. Hơn thế nữa, IMF không phải là
một ngân hàng phát triển và không giống với ngân hàng thế giới (WB) và các cơ quan
phát triển khác, nó không tài trợ cho các dự án
Môi trường cho vay thay đổi
Khoảng bốn trong năm nước thành viên đã sử dụng tín dụng IMF ít nhất một lần.
Nhưng lượng dư nợ cho vay và số lượng khách hàng vay đã biến đổi rất nhiều theo
thời gian. Trong hai thập kỉ đầu tiên của IMF, hơn một nửa số cho vay là các nước
công nghiệp. Nhưng kể từ cuối những năm 1970, các nước này đã có thể đáp ứng nhu
cầu tài chính của họ trong thị trường vốn. Cú sốc dầu mỏ của những năm 1970 và
cuộc khủng hoảng nợ 1980 khiến những nước có thu nhập thấp và thấp hơn trung
bình bắt buộc phải vay từ IMF. Năm 2004, điều kiện kinh tế bắt đầu tạm ổn đồng
nghĩa với việc nhiều nước bắt buộc phải hoàn trả vốn vay cho IMF. Như một hệ quả,
nhu cầu về các nguồn của Quỹ giảm sút rõ rệt. Nhưng đến năm 2008, IMF bắt đầu

cho các nước bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vay. IMF đã thực
hiệ một chương trình với sự tham gia của hơn 50 nước trên toàn thế giới và đã cam
kết với nguồn lực hơn 325 tỷ USD cho các nước thành viên từ khi cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu bắt đầu. Cuộc khủng hoảng tài chính này đã làm dấy lên nhu cầu
gia hạn và sự suy giảm trong cho vay cũng phản ánh một nhu cầu mới về các công cụ
cho vay của IMF. Vì vậy, vào tháng 3 năm 2009, IMF đã thông báo một sự thay đổi
8
lớn trong công cụ cho vay, bao gồm các điều kiền cho vay mới, giới thiệu một dòng
tín dụng linh hoạt mới, tăng cường sự linh hoạt trong các thỏa thuận cho vay, tăng
gấp đôi giới hạn truy cập vào các hoản vay, áp dụng cho vay thận trọng. Nõ cũng đã
đẩy nhanh thủ tục cho vay và thiết kế lại các cơ sở của mình để làm cho các nước có
thu nhập thấp dễ dàng truy cập.
Cho vay để giữ gìn sự ổn định tài chính
Theo điều I của bản hiệp định tham gia IMF, múc đích cho vay của IMF là “…để tạo
sự tin tưởng cho các thành viên bằng cách làm cho nguồn lực chung của Quỹ có sẵn
tạm thời cho họ dưới sự bảo vệ đầy đủ, do đó cung cấp cho họ cơ hội để sữa chữa các
sai lầm trong cán cân thanh toán mà không cần dùng đến biến pháp phá hoại sự thịnh
vượng của quốc gia hoặc quốc tế”. Trong thực tế, múc đích cho vay của IMF đã thay
đổi kể từ khi nó được tạo ra. Trước đây, sự hỗ trợ tài chính của IMF giúp các nước
đối phó với những biến động thương mại ngắn hạn, hỗ trợ điều chỉnh cán cân thnah
toán, những cú sốc thương mại, các thảm họa tự nhiên, các xung đột, quá trình
chuyển đổi kinh tế rộng lớn, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế và các khủng
hoảng ngân hàng và tiền tệ. Hiện nay, cho vay IMF phục vụ ba mục đích chính. Thứ
nhất, nó có thể điều chỉnh dễ dàng các cú sốc khác nhau, giúp đỡ một quốc gia thành
viên tranh điều chỉnh kinh tế gây rồi hoặc mặc định chủ quyền cái mà cực kỳ tốn kém
cho cả đất nước này và có thể cho cả các nước này thông qua hiệu ứng gợn kinh tế và
tài chính (gọi là lây lan). Thứ hai, chương trình của IMF có thể giúp mở ra các tài trợ
khác. Bởi vì chương trình của IMF có thể được xem như là một tín hiều rằng nước
này đã áp dụng những chính sách tốt, tuân theo các chính sach uy tín và tăng niềm tin
của nhà đầu tư. Thứ ba, cho vay IMF có thể giúp ngan chặn các cuộc khủng hoảng.

Ví dụ rõ ràng là cuộc khủng hoảng tài khoản vốn thường làm tiêu tốn các khoản chi
phí đáng kể cho một đất nước và cả các nước khác thông qua sự lây lan. Cách tốt nhất
để đối phó với tình trạng này là ngăn chặn nó trước khi chúng phát triển thành một
cuộc khủng hoảng toàn diện.
Những nước gặp khó khăn có thể rút ra ở IFM 25% phần mình đã đóng góp trả bằng
vàng hay tiền những nước lớn. Nếu không đủ, Quỹ có thể cho vay một số tiền tương
9
đương với 5% phần đóng góp, chia ra làm 3 lần, mỗi năm có thể rút một lần. Nếu lần
rút 25% là tiền nước đã đóng (resẻve tranche – tranche de reserve) thì 75% sau là tiên
Quỹ cho mượn (credit tranche – tranche de credit). Khi Quỹ đồng ý giúp 75%, điều
này có nghĩa là Quỹ sẽ chỉ định một hay nhiều nước thành viên khác có nền kinh tế
vững chắc đổi tiền nước họ lấy tiền nước đang cần giúp đỡ. Nước mượn tiền sẽ phải
trả lại tiền đã đổi cho các nước khác mà tiền đã bị đổi có thể sử dụng để vay Quỹ
trong trường hơp cần thiết. Đây là nguyên tắc nền tảng và cũng là điều giải thích tại
sao, mặc dù Quỹ có một khoảng tiền lớn từ các nước thành viên đóng góp nhưng 75%
là tiền quốc gia của các nước hội viên nên Quỹ không thể cho vay một lúc tất cả
những khoảng tiền đó.
Điều kiện cho vay
Khi một quốc gia tiếp cận các nguồn tài chính của IMF, họ có thể là trong hoặc gần
một trạng thái khủng hoảng kinh tế, đồng tiền của họ đang bị tấn công trong thị
trường ngoại hối và dự trữ quốc tế của họ cạn kiệt, hoạt động kinh tế trì trệ hoặc giảm
sút và một số lượng lớn các doanh nghiệp và các hộ gia đình sẽ bị phá sản. Trong thời
buổi kinh tế khó khăn, IMF giúp các nước dễ bị tổn thương nhất trong cuộc khủng
hoảng để bảo vệ. Nhằm đảm bảo những điều kiện trong việc giải ngân vốn vay, IMF
tập trung vào các chính sách và nền tảng cơ bản là điểm mạnh của các thành viên.
Sau đó, IMF thảo luận với các nước về các chính sách kinh tế được dự kiến là có thể
giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả nhất. IMF và chính phủ sẽ đồng ý về một
chương trình của chính sách nhằm mục địch đạt được những mục tiêu cụ thể. Ví dụ,
nước này cos thể cam kết các mục tiêu dự trữ tài chình và ngoại hối. Các khoản vay
thông thường được giải ngân một số lần trong suốt thời gian của chương trình, với

mỗi phần thì có điều kiện và các mục tiêu tương ứng. Chương trình sẽ kéo dài trong 3
nam, tùy thuộc vào bản chất các vấn đề của đất nước, nhưng có thể được theo sau một
chương trình khác nếu cần thiết. Các chính phủ vạch ra chi tiết chương trình kinh tế
của mình rồi gửi đến ban điều hành ccủa IMF. Đối với các nước trong khủng hoảng,
các khoản vay của IMF thường chỉ cung cấp một phần nhỏ của các nguồn lực cần
thiết để tài trợ cho cán cân thanh toán của họ. Nhưng các khoản vay của IMF cũng
10
báo hiệu rằng chính sách kinh tế của một đất nước đang đi dung, mà đảm bảo với các
nhà đầu tư và cộng đồng giúp đỡ để bổ sung các khoản tài trợ khác.
2.3. Hỗ trợ kĩ thuật
IMF chia sẽ những kinh nghiệm của mình với các nước thành viên bằng cách ucng
cấp các hỗ trợ và đào tạo kỹ thuật trong các lĩnh vực như ngân hàng trung ương,
chính sách tiền tệ và tỷ giá, chính sách thuế và quản lý, và các số liệu thống kê. Mục
tiêu là để giúp cải thiện việc thiết kế và thực kiện các chính sách kinh tế của các nước
thành viên, bao gồm cả các kỹ năng trong các cơ quan như Bộ tài chính, ngân hàng
trung ương và các cơ quan thống kê. IMF cũng đã đưa ra những lời khuyên cho các
quốc gia rằng họ phải thiết lập lại cac tổ chức chính phủ sau khi xảy ra tình trạng bất
ổn dân sự hoặc chiến tranh. Trong năm 2008, IMF đã bắt tay vào việc nỗ lực cài cách
nhàm tăng cường nhưngx tác động của việc hỗ trợ kỹ thuật. Những cải cách nhấn
mạnh vào sự ưu tiên, nâng cao hiệu quả đo lường, dự toán kinh phí minh bạch hơn và
tăng tính chặt chẽ trong quan hệ với các nhà tài trợ.
Đối tượng được hưởng hỗ trợ kỹ thuật
Hỗ trợ kỹ thuật là một trong những hoạt động cốt lõi của IMF. Nó tập trung vào các
chính sách vĩ mô của các khu vực quan trọng nơi mà Quỹ có lợi thế so sánh nhất.
Nhờ vào các thành viên của nó mà chương trình hỗ trợ kỹ thuật của IMF được giới
thiệu bằng những kinh nghiệm và kiến thức thu được giữa các vùng khác nhau và các
quốc gia ở các cấp độ phát triển khác nhau. Khoảng 80% các hỗ trợ kỹ thuật của IMF
đi đến các nước có thu nhập thấp và thu nhập trung bình thấp, đặc biệt ở vùng cân
Sahara Châu Phi và Châu Á. Các nước sau xung đột là những đối tượng được hỗ trợ
kỹ thuật chính. IMF cũng đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật nhằm tăng cường kiến trúc

của hệ thống tài chính quốc tế, xây dựng năng lực để thiết kế và thực hiện các chương
trình giảm nghèo và tăng trưởng, và giúp đỡ các nước nghèo, nợ nần (HIPC) trong
việc giảm nợ và quản lý.
Các loại hỗ trợ kỹ thuật
11
IMF có nhiều hình thức hỗ trợ kỹ thuật khác nhau tùy vào nhu cầu, từ việc xây dựng
các năng lực lâu dài cho đến các chính sách hỗ trợ ngắn hạn trong các cuộc khủng
hoảng tài chính. Hỗ trợ kỹ thuật được cung cấp theo nhiều cách khác nhau. Nhân viên
IMF có thể thăm các nước thành viên để tư vấn cho Chính phủ và các cơ quan ngân
hàng trung ương vầ các vấn đề cụ thể, hoặc IMF có thể cung cấp các chuyên gia
thường trú trên cơ sở ngắn hạn hoặc lâu dài. Hỗ trợ kỹ thuật được kết hợp với các
chương trình cải cách đất nước cũng như các hoạt động giám sát hoặc cho vay. IMF
đang ngày càng cung cấp nhiều các hỗ trợ kỹ thuật thông qua các trung tâm khu vực
nằm ở Côte d’lvoire, Gabon, Mauritius, Tanzania cho Châu Phi, ở Barbados và
Guatemala cho Trung Mỹ và Caribean, ở Lebanon cho Trung Đông và ở Fiji cho
quần đảo Thái Bình Dương. IMF cũng mở ra các khóa đào tạo cho Chính phủ và các
quan chức ngân hàng trung ương của các nước thành viên ở trụ sở tại Washington,
ĐC và tại các trung tâm đào tạo khu vực ở Áo, Brazil, Trung Quốc, Singapore,
Tunisia, và United Arab Emirates.
Hợp tác với các nhà tài trợ
Các nhà tài trợ song phương và đa phương đang đóng một vài trò ngày càng quan
trọng trong việc tạo điều kiện cho IMF để đáp ứng các nhu cầu của các đất nước
trong khu vực này, và sự đóng góp của họ đã tài trợ khoảng 2/3 trong lĩnh vực hỗ trợ
kỹ thuật của IMF. Quan hệ chặt chẽ giữa các nước tiếp nhận và nhà tài trợ đã cho
phép hỗ trợ kỹ thuật của IMF phát triển trên cơ sở một cuộc đối thoại toàn diện và
trong bối cảnh, khuôn khổ phát triển, đồng nhất. Những lợi ích mà các nhà tài trợ
mang lại đã đi xa hơn so với các khía cạnh tài chính. IMF hiện đang tìm cách tận
dụng những lợi thế so sách các hỗ trợ kỹ thuật của mình để mở rộng tài trợ tài chính
để đáp ứng nhu cầu của các nước tiếp nhận. Như một phần của nỗ lực này, Quỹ đang
tăng cường quan hệ đối tác với các nhà tài trợ bằng cách cam kết với họ dựa trên một

nền tảng chiến lược, lâu dài và rộng hơn. Để thực hiện ý tưởng này, IMF đang thiết
lập mộ loạt các quỹ tín nhiệm của nhiều nhà tài trợ, bao gồm các chủ đề như chống
rửa tiền, chống tài trợ khủng bố, quản lý tài sản công, quản lý tài nguyên thiên nhiên,
tính bền vững nợ công và quản lý, và ổn định và phát triển lĩnh vực tài chính.
12
3. Lịch sử hình thành
3.1. Hợp tác và xây dựng lại (1944 – 1971)
Trong suốt cuộc khủng hoảng những năm 1930, các quốc gia đã cố gắng để vực dậy
nền kinh tế đang giảm sút của họ bằng cách tăng mạnh những rào cản khi giao dịch
thương mại nước ngoài, làm mất giá đồng tiền của mình để cạnh tranh với nhau trên
các thị trường xuất khẩu, và giảm bớt sự tự do của người dann để giữ lại ngoại hối.
Những nỗ lực này đã chứng minh rằng họ chỉ tự chuốc lấy thất mại. Thương mại thế
giới giảm mạnh và tiêu chuẩn lao động và đời sống giảm mạnh ở nhiều nước
Sự cố trong hợp tác tiền tệ quốc tế này đã dẫn đến sự thành lập của IMF nơi mà có
thể giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế - hệ thống của tỷ giá hối đoái và thanh toán quốc
tế, bên cạnh đó nó cho phép các quốc gia và công dân của nước đó mua các sản phẩm
và dịch vụ từ các nước thành viên khác. Tổ chức toàn cầu mới này sẽ đảm bảo tính ổn
định của tỷ giá và khuyến khích các nước thành viên của mình loại bỏ các rào cản
thương mại.
Thương mại thế giới giảm mạnh trong giai đoạn khủng hoảng những năm 1930
IMF được hình thành vào tháng 7 năm 1944 sau chiến tranh thế giới thứ 2 với đại
diện của 45 nước tham dự cuộc họp tại thành phố Bretton Woods, New Hampshire, ở
13
Đông Bắc Hoa Kỳ. Hội nghị đã nhất trí về khuôn khổ cho sự hợ tác kinh tế quốc tế.
Họ tin rằng một khuôn khổ như vậy là cần thiết để tránh sự lặp lại các chính sách
kinh tế tai hại đã góp phần tạo nên cuộc khủng hoảng trước. IMF ra đời chính thức
vào tháng 12 năm 1945, khi 29 quốc gia thành viên đầu tiên của nó đã kí vào hiệp
định tham gia IMF. Nó bắt đầu hoạt động vào ngày 1 tháng 3 năm 1947. Cuối năm
đó, Pháp đã trở thành quốc gia đầu tiên được vay từ IMF. Thành viên của IMF bắt
đầu tăng lên nhiều vào cuối những năm 1950 và trong những năm 1960 như khi nhiều

nước ở Châu Phi được độc lập đã bắt đầu tham gia. Nhưng cuộc chiến tranh lạnh đã
giới hạn thành viên của Quỹ, và hầu hết những nước chịu sự ảnh hưởng của Liên Xô
đều không tham gia.
Các nước gia nhập IMF từ những năm 1945 đến năm 1971 đã đồng ý để giữ tỷ giá
hối đoái (giá trị đồng tiền của các nước so với đồng đô la Mỹ, và trong trường hợp
của mỹ, giá trị đồng đô la so với vàng) ổn định và nó chỉ được điều chỉnh khi xảy ra
sự mất cân bằng cơ bản trong cán cân thanh toán theo sự đồng ý của IMF. Trong cho
đến 1971, Hệ thống mệnh giá này vẫn chiếm ưu thế và được biết đến như là hệ thống
Bretton Woods, lúc này Chính phủ Mỹ đề cao tính chuyển đổi đô la sang vàng (trong
khi các nước khác thì có khuynh hướng dự trữ đô la).
3.2. Sự kết thúc của hệ thống Bretton Woods (1972 – 1981)
Đến đầu những năm 1960, dưới tỷ giá cố định của hệ thống Bretton Woods, giá của
đồng đô la cố định so với vàng được xem là đinh giá quá cao. Sự gia tăng đáng kể
trong chi tiêu quốc dân và quân sự của cuộc chiến tranh ở Việt Nam là những nguyên
nhân làm đồng đô la bị định giá quá cao. Hệ thống này tan rã vào giữa năm 1968 và
1973. Trong tháng 8 năm 1971, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố đình chỉ
“tạm thời” chuyển đồi đồng USD sang vàng, chính điều này đã làm sụp đõ hệ thống.
Và nỗ lực để hồi sinh lại một tỷ giá hối đoái cố định đã thất bại, và đến tháng 3 năm
1973, các đồng tiền lớn bắt đầu nổi lên. Kể từ sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods,
các thành viên IMF đã được tự do lựa chọn bất kỳ hình thức chuyển đổi mà họ muốn
(trừ viêccj chốt đồng tiền của họ với vàng), cho phép đồng tiền thả nổi tự do, thay đổi
14
nó bằng một đồng tiền mới hay một rổ ngoại tệ khác, tham gia vào một khối đồng
tiền hoặc tạo thành một khối liên minh tiền tệ.
Nhiều người lo ngại rằng sự sụp đõ của hệ thống Bretton Woods sẽ làm cho giai đoạn
tăng trưởng kết thúc. Trong thực tế, quá trình chuyển đổi các tỷ giá hối đoái nổi trên
thị trường diễn ra khá trơn tru bởi vì tỷ giá hối đoái linh hoạt khiến cho nền kinh tế dễ
dàng điều chỉnh và làm dầu mắc hoen, khi giá đột nhiên bắt đầu đi lên vào tháng 10
năm 1973. IMF đáp lại những thách thức tạo ra bởi các cú sốc dầu trong những năm
1970 bằng cách sử dụng các công cụ vay của mình để giúp các nhà nhập khẩu dầu đối

phó với tình hình thâm hụt và lam phát do giá dầu cao gây ra. Hơn thế nữa, từ giữa
những năm 1970, IMF đã tìm cách đối phóvới cán cân thanh toán khó khăn ở các
nước nghèo nhất thế giới bằng cách cung cấp tài trợ ưu đãi thông qua Quỹ Trust. Vào
tháng 3 năm 1986, IMF đã tạo ra chương trình cho vay ưu đãi mới được gọi là cơ sở
điều chỉnh cơ cấu (SAF)
3.3. Nợ và những cải cách khó khăn (1982 – 1989)
Cú sốc dầu vào những năm 1970 buộc nhiều nước phải vay từ các ngân hàng thương
mai để nhập khẩu dầu, và việc tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát ở các nước công
nghiệp làm dẫn đến một khủng hoảng nợ quốc tế. Lúc này, các ngân hàng thương mại
phương Tây cho vay để mua dầu mỏ, nhận tiền gửi từ các nước xuất khẩu dầu và cho
những nước đang phát triển và nhập dầu vay, cho nên lãi xuất thường thả nổi trên thị
trường. Vì vậy, khi lãi xuất bắt đầu tăng mạnh trong 1979, tỷ giá thả nổi trên các
khoản vay ở các nước đang phát triển cũng tăng vọt. Đồng thời, giá các mặt hàng từ
các nước đang phát triển giảm mạnh do suy thoái kinh tế gây ra bở chính sách tiền tệ.
Để đối phó với tình hình, các nước đang phát triển mở rông chính sách tài chính, tỷ
giá hối đoái được định gia cao hơn và duy trì các khoản vay lớn hơn. Khi khủng
hoảng nổ ra ở Mêxicô vào 1982, IMF tham gia vào các ngân hàng thương mại và phát
biểu rằng sẽ không có ai được lợi nếu một đất nước không thể chi trả các khoản nợ
của mình. IMF đã làm dịu cơn khủng hoảng đầu và xoa dịu tiềm năng bùng nổ của
nó. Tuy nhiên, những cải cách khó khăn ở các nước nợ và các biện pháp hợp tác toàn
cầu là cần thiết ngay lúc này để loại bỏ đi các vấn đề.
15
3.4. Sự thay đổi đột ngột của Đông Âu và Châu Á (1990 – 2004)
Sự sụp đổ của bức tường Berlin 1989 và sự tan rã của Liên Xô 1991 cho phép IMF
gần như trở thành một tổ chức phổ quát. Trong 3 năm đó, số thành viên tăng từ 152
đến 172, tăng nhanh nhất kể từ sau làn song các nước Châu Phi tham gia vào những
năm 1960. Để hoàn thành trách nhiệm của mình, nhân viên IMF mở rộng gần 30%
trong sáu năm, Ban điều hành đã tăng từ 22 đến 24 người. IMF đã đóng một vai trò
trung tâm trong việc giúp các nước thuộc khối Xô Viết cũ chuyển đổi từ kế hoạch tập
trung sang nền kinh tế định hướng thị trường. Trong những năm 1990, các nước này

đã làm việc chặt chẽ với IMF, được hưởng lợi từ những lời khuyên chính sách, hỗ trợ
kỹ thuật và hỗ trợ tài chính. Đến cuối thập kỹ này, hầu hết các nền kinh tế trong quá
trình chuyển đổi đã hoàn thành sau nhiều năm cải cách mạnh mẽ và nhiều nước bắt
đầu tham gia vào Liên minh Châu Âu 2004.
Năm 1997, một làn song các cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra ở khu vực Đông Nam
Á, từ Thái Lan đến Indonesia, Hàn Quốc và xa hơn nữa. Hầu hết các quốc gia bị ảnh
hưởng đã đề nghị IMF giúp hỗ trợ tài chính và cải cách chính sách kinh tế. Những
cuộc xung đột đã xuất hiện trong khi tìm cách để giải quyết cuộc khủng hoàng và
IMF đã nhận được những lời chỉ trích không hay. Sau đó, IMF đã rút ra được nhiều
bài học kinh nghiệm. Trước hết, họ nhận ra rằng họ cần phải chú ý nhiều hơn vào các
điểm yếu trong lĩnh vực ngân hàng ở các nước này và những ảnh hưởng của sự yếu
kém đó trong nền kinh tế vĩ mô. Trong 1999, IMF và WB phát động chương trình
đánh giá khu vực tài chính và bắt đầu tiến hành các cuộc đánh giá quốc gia trên cơ sở
tự nguyện. Thứ hai, Quỹ cũng nhận ra rằng những điều kiện tiên quyết cho sự thành
công của thể chế tự do hóa các nguồn vốn quốc tế là khó khăn hơn họ nghĩ. Thứ ba,
mức độ nghiêm trọng của sự suy giảm trong hoạt động kinh tế đi kèm với cuộc khủng
hoảng Châu Á đòi hỏi phải đánh giá lại các chính sách tài chính .Trong những năm
1990, IMF đã làm việc chặt chẽ vơi WB để giám bớt gánh nặng nợ của các nước
nghèo.
3.5. Toàn cầu hóa và khủng hoảng (2005 – present)
16
IMF đã cho các nước thành viên vay để giúp thúc đảy nền kinh tế toàn cầu khi nó
chịu một cuộc khủng hoảng lớn nhất sau Đại suy thoai. Tại thập niên đầu tiên của thê
kỹ 21, các dòng vốn quốc tế thúc đẩy sự mở rộng toàn cầu nhằm cho phép nhiều quốc
gia trả lại số tiền mà họ đã vay từ IMF cà các chủ nợ chính thức khác để tích lũy dự
trữ ngoại hối. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu với sự sụp đổ của cho vay
thế chấp tại Mỹ 2007 và lây lan trên toàn thế giới vào 2008 bởi sự mất cân bằng lớn
trong dòng vốn toàn cầu. Dòng vốn toàn cầu dao động từ 2 – 6 % GDP thế giới trong
thời gian 1980 – 1995 và nó đã tăng đến 15% sau đó. Năm 2006, dòng vốn toàn cầu
đạt 7.2 triệu tỷ USD tăng gấp ba lần so vơi 1995. Những người sáng lập hệ thông

Bretton Woods đã cho rằng các dòng vốn tư nhân sẽ không bao giờ có thể tiếp tục vai
trò nổi bật mà họ đã làm trong thế ky 19 và 20. IMF đã cho vay truyền thống đối với
các thành viên gặp khó khăn. Cuộc khủng hoảng đã làm mọi người nhận ra về sự
mong manh của thị trường tài chính tiên tiến và IMF cũng bắt đầu yêu cầu những
hình thức hỗ trợ tài chính và chính sách.
Công đồng quốc tế công nhận rằng nguồn lực tài chính của IMF là quan trong hơn
bao giờ hết và có khả năng được kéo dai trước khi cuôc khủng hoảng kết thúc. Với sự
hỗ trợ rộng rãi của các nước chủ nợ, khả năng cho vay của Quỹ đã tăng gấp ba lần lên
đến xấp xỉ 50tỷ USD. Để sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả, IMF cải cách chính
sách cho vay của mình, kể cả tạo ra một hạn mức tín dụng linh hoạt cho các nước có
nền tảng kinh tế vững mạnh và một hồ sơ theo dõi việc thực hiện chính sách thành
công. Những cải cách khác được thiết kế để giúp các nước có thu nhập thấp, IMF giải
ngân các khoản tiền lớn một cách nhanh chóng dựa trên nhu cầu của các nước đi vay
và không ràng buộc chạt chẽ về hạn ngạch giống như trong quá khứ.
4. Các nước thành viên
Hiện nay, IMF có 188 thành viên tham dự. Không phải tất cả các nước thành viên của
IMF là những quốc gia có chủ quyền, và do đó không phải tất cả các nước thành viên
của IMF là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Bất cứ nước nào cũng có thể áp dụng để
17
trở thành một phần của IMF. Trong giai đoạn sau chiến tranh trước đây, các quy tắc
cho thành viên IMF khá là lỏng lẻo. Các thành viên cần phải thực hiện đóng góp phí
thành viên theo hạn ngạch của họ trong từng giai đoạn. Để ngăn chặn các sự hạn của
tiền tệ ngoại trừ khi IMF cho phép, các thành viên phải tuân thủ các quy tắc ứng xử
trong cản hiệp định tham gia IMF và phải cung cấp các thông tin của quốc gia mình.
Tuy nhiên các nguyên tắc nghiêm ngặt hơn sẽ được áp dụng cho các đất nước sử
dụng các gói tài trợ từ IMF. Các nước gia nhập IMF từ năm 1945 đến năm 1971 đã
đồng ý để giữ tỷ giá hối đoái của họ ở mức an toàn và nó chỉ được điều chỉnh khi mà
xảy ra “sự mất cân bằng cơ bản” trong cán cân thanh toán và tuân theo sự đồng ý của
IMF. Một số thành viên có mối quan hệ khó khăn với IMF và thậm chí khi họ vẫn là
hành viên, họ không cho phép bản thân của mình bị kiểm soát. Ví dụ như Argentina

đã từ chối tuân theo điều IV của IMF. Các nươc thành viên của IMF có thể truy cập
thông tin về các chính sách kinh tế của tất cả các nước thành viên , có cơ hội để tác
động đến chính sách của các thành viên khác về kinh tế, hỗ trợ kĩ thuật trong ngành
ngân hàng, các vấn đề tài chính và các vấn đề trao đổi, hỗ trợ tài chính trong thời gian
thanh toán và tăng cơ hội cho thương mại đầu tư.
5. Cơ cấu tổ chức của IMF
(Sơ đồ tổ chức IMF)
18
19
5.1. Ban thống đốc
Ban thống đốc bao gồm một thông đốc và một thống đốc có thể thay thế của mỗi
nước thành viên tham gia. Mỗi nước thành viên cử ra hai thống đốc của mình. Ban
thống đốc này thường gặp mặt một năm một lần và nó chịu trách nhiệm cho việc bỏ
phiếu và chọn ra những giám đốc điều hành trong ban giám đốc điều hành. Trong khi
ban thống đốc chịu trách nhiệm chính trong việc phê duyệt tăng hạn ngạch, kết nạp
các thành viên mới và sửa đổi các điều khoản trong hiệp định của IMF, trên thực tế,
họ đã giao phần lớn quyền hạn của mình cho ban giám đốc điều hành của IMF. Ban
thống đốc nhận các lời khuyên từ Ủy ban tiền tệ và tài chính quốc tế, và Ủy ban phát
triển. Ủy ban tiền tệ và tài chính quốc tế có 24 thành viên, họ theo dõi sự phát triển
của tính thanh khoản toàn cầu và chuyển giao các nguồn lực để phát triển quốc gia.
Ủy ban phát triển có 25 thành viên và họ tư vấn về các vấn đề phát triển quan trọng
và khuyến khích phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Họ cũng tư vấn về các
vấn đề môi trường và thương mại.
5.2. Ban điều hành
Ban điều hành bao gồm 24 vị giám đốc điều hành. Các giám đốc điều hành đại diện
cho tất cả 188 quốc gia thành viên trong một đội hình dựa trên địa lý. Các quốc gia
với nền kinh tế lớn có giám đốc điều hành của riêng mình, nhưng hầu hết các nước
được nhóm lại trong các cử tri đại diện cho bốn hoặc nhiều hơn các nước. Sauk hi sửa
đổi năm 2008 trên đài tiếng nói và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 3 năm 2011, tám nước
từng bổ nhiệm một giám đốc điều hành cho nước mình là: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức,

Pháp, Anh, Trung Quốc, Liên Bang Nga, và Saudi Arabia. 16 giám đốc còn lại đại
diện cho cử tri gồm 4 – 22 nước. Giám đốc điều hành đại diện cho các cử tri lớn nhất
của 22 quốc gia chiêm 1.55% số phiếu bầu. Ban điều hành này thường gặp nhiều lần
mỗi tuần.
5.3. Giám đốc điều hành
IMF được dẫn dắt bởi một giám đốc điều hành, là người đứng đầu của các nhân viên
và là Chủ tịch của Ban chấp hành. Các giám đốc điều hành được hỗ trợ bởi một Phó
giám đốc điều hành chính và ba Phó giám đốc điều hành khác. Trong lịch sử, giám
20
đốc điều hành ở IMF là từ Chầu Âu và Chủ tịch của WB là từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên,
tiêu chuẩn này đang được đặt ra câu hỏi và cạnh trạnh hơn để mở ra cơ hội cho các
ứng cử viên có trình độ khác từ bất kỳ các nước nào trên thế giới cho 2 vị trí này.
6. Quyền hạn bầu cử
Khi một quốc gia gia nhập IMF, nó được gán một hạn ngạch ban đầu trong cùng một
phạm vi giống như các hạn ngạch của các thành viên hiên tại trên cơ sở so sánh một
cách rộng rãn nền kinh tế và đặc điểm. IMF sử dụng một công thức hạn ngach để
giúp đánh giá vị trí tương đối của một thành viên. Công thức hạn ngạch hiện nay là
bình quân gia quyền của GDP (trọng lượng 50%), sự cởi mở (30%), biên đổi kinh tế
(15%). Hạn ngạch được tính bằng quyền rút đặc biệt (SDR), đơn vị của IMF trong tài
khoản. Các thành viên lớn nhất của IMF là Hoa Kì với một hạn ngạch hiện tại là 42.1
tỷ SDR (khoảng 65 tỷ USD) và các thành viên nhỏ nhất là Tuvalu với hạn ngạch hiện
tại là 1.8 triệu SDR (khoảng 2,780,000 USD). Quyền biểu quyết trong IMF được dựa
trên một hệ thống hạn ngạch. Mỗi thành viên có một số phiếu cơ bản (số lượng phiếu
cơ bản của mỗi thành viên tương đương với 5.502% của tổng số phiếu bầu) cộng
thêm một phiếu bầu cho từng 100,000 SDR trong hệ thống hạn ngạch của từng thành
viên.
Ảnh hưởng của hệ thống hạn ngạch
Hệ thống hạn ngach của IMF được tạo ra để tăng Quỹ cho các khoản vay. Mỗi nước
thành viên IMF được xác định một hạn ngạch, hoặc đóng góp, phản ánh quy mô
tương đối của đất nước đó trong nền kinh tế toàn cầu. Hạn ngạch của từng thành viên

cũng quyết định quyền biểu quyết tương đối của nó. Như vậy, các khoản đóng góp tài
chính từ chính phủ các nước thành viên có liên quan đến quyền biểu quyết trong tổ
chức. Hệ thống này đi theo một logic, các nước giàu có tiếng nói hơn trong việc tạo ra
và sửa đổi các quy tắc. Kể từ khi việc ra quyết định ở IMF phản ánh vị trí kinh tế của
một đất nước trên thế giới, các nước giàu cung cấp nhiều tiền hơn cho IMF để có
nhiều ảnh hưởng hơn so với các thành viên nghèo hơn. Tuy nhiên, IMF tập trung vào
việc phân phối lại nguồn Quỹ.
21
Các nước đang phát triển
Hạn ngạch thường được xem xét lại mỗi năm năm một lần và có thể tăng lên nếu thấy
cần thiết bởi ban thống đốc. Hiện nay, cải cách lại các đại diện của các nước đang
phát triển trong IMF đã được đề xuất. Nền kinh tế của các nước này đại diện cho một
phần lớn của hệ thống kinh tế toàn cầu nhưng điều này không được phản ánh trong
quá trình đưa ra quyết định của IMF bởi vì nó đi theo hệ thống hạn ngạch. Joseph
Stiglitz lập luận rằng: “Có một nhu cầu để cung cấp một tiếng nói đại diện cho các
nước đang phát triển bởi vì những nước này chiếm một phần lớn các hoạt động kinh
tế trên thế giới từ 1944 khi IMF được thành lập”. Năm 2008, một số cải cách hạn
ngach được thông qua bao gồm cả chuyển 6% cổ phần hạn ngạch sang cho các thị
trường mới nổi năng động và các nước đang phát triển.
Sự ảnh hưởng của Mỹ
Bởi vì có sự tham gia cao và số lá phiếu của Mỹ, các tư tưởng kinh tế toàn cầu có thể
biến đổi để phù hợp với Mỹ. Điều này hoàn toàn được chứng minh trong khoảng thời
gian những năm 1970 khi có những sự thay đổi trong chức năng của IMF sau khi
Nixon Shock kết thúc hệ thống Bretton Woods. Các đồng minh của Mỹ được vay các
khoản vay lớn hơn với điều kiện ít hơn.
Sự chia rẽ của người vay và chủ nợ
Thành viên của IMF được chia theo dòng thu nhập: một số quốc gia cung cấp các
nguồn lực tài chính trong khi những ngừoi khác sử dụng các nguồn tài nguyên. Cả hai
bao gồm các nước đã phát triển (chủ nợ) và các nước đang phát triển (người vay) đều
là thành viên của IMF. Các nước đã phát triển cung cấp các nguồn tài chính nhưng

hiếm khi tham gia vào các hiệp định cho vay của IMF, họ là những chủ nợ. Ngược
lại, các nước đang phát triển sử dụng các dịch vụ cho vay nhưng đóng góp rất ít vào
khoản dự trữ tiền để cho vay vì hạn ngạch của họ nhỏ hơn, họ là những người đi vay.
Như vậy, sự căng thẳng được tạo ra xung quanh vấn đề quản trih vì hai nhóm này có
lợi ích cơ bản khác nhau. Những lời chỉ trích về quyền biểu quyết dựa trên hệ thống
hạn ngạch bời vị tạo ra sự lệ thuộc cho người vay và sự thống trị của chủ nợ. Hậu quả
của việc phân chia các thành viên IMF lá sự tăng lên những tranh cãi xung quanh khi
22
mà người vay quan tâm đến các điều kiện và cách tiếp cận nguồn vốn trong khi chủ
nợ thì mong muốn các khoản vay được hoàn trả.
7. Các vấn đề của IMF
Viện phát triển hải ngoại (ODI) đã tiến hành một nghiên cứu vào năm 1980 để chỉ ra
những điểm yếu của IMF, cái mà nhà hoạt động Titus Alexander gọi là sự phân biệt
chủng tộc toàn cầu. Thứ nhất, các nước phát triển được xem là có ưu thế hơn trong
vai trò kiểm soát so với các nước kém phát triển (LDCs). Thứ hai, Quỹ đã làm việc
trên các giả định không chính xác rằng tất cả các nguyên nhân của sự mất cân bằng
thanh toàn đều xuất phát từ các yếu tố nội tại. Thay mặt cho các nước kém phát triển,
nhóm G-24 và hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) đã
phàn nàn rằng IMF đã không phân biệt một cách toàn diện các nguyên nhân làm mất
cân bằng xuất phát từ bên ngoài hay bên trong. Lời chỉ trích này xuất hiện sau những
hậu quả của cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 193. Sau đó, các nước kém phát triển
thấy mình thiếu hụt thanh toán do những thay đổi bất lợi trong các điều khoản của
thương mại với các quy định trong chương trình ổn định của Quỹ như là những gợi ý
cho sự khiếm khuyết gây ra bởi Chính phủ bội chi. Để giải quyết những vấn đề do các
yếu tố bên ngoài gây ra cho sự mất cân bằng, G-24 lập luận rằng cần phải có thêm
thời gian cho các nước kém phát triển để điều chỉnh nền kinh tế của họ. Thứ ba, bài
nghiên cứu cho rằng các chính sách của IMF đang chống lại sự phát triển. Các tác
dụng giảm phát của chương trình IMF nhanh chóng dẫn đến những thiệt hại về sản
lượng và việc làm trong những nước có thu nhập thấp và tỷ lệ thất nghiệp capp. Hơn
nữa, gánh nặng giảm phát có một tỷ lệ không tương xứng cho những người nghèo.

Thứ tư, điều kiện chính sách khắc nghiệt chính là một trong những nguyên nhân
khiến IMF tự chuốc lấy thất bại khi một vòng tròn luẩn quẩn xảy ra, mà ở trong đó
các thành viên đã từ chối cho vay do các điều kiện khắc nghiệt, làm trầm trọng thêm
nên kinh tế. Cuối cùng chính là do các chính sách của IMF thiếu một cơ sở kinh tế rõ
ràng. Cơ sở chính của nó à lý thuyết và không rõ ràng do có nhiều ý kiến khác nhau
23
và sự ganh đua giữa các phòng ban trong khi giải quyết các vấn đề của các nước có
các hoàn cảnh kinh tế rất khác nhau.
Kết luận của ODI chỉ ra rằng những bản chất của IMF trong việc thúc đẩy các
phương pháp giúp định hướng thị trường thì không thể tránh khỏi những sự chỉ trích.
Mặt khác, IMF cho phép các chính phủ có thể đổ lỗi cho các ngân hàng quốc tế. ODI
thừa nhận rằng IMF đã không nhạy cảm với những khát vọng chính trị của các nước
kém phát triển trong khi các điều kiện chính sách của nos là không linh hoạt. Trong
một bài phỏng vấn, cựu Thủ tướng Rumani, Calin Popescu tuyên bố rằng: “kể từ năm
2005, IMF đã liên tục mắc sai lầm khi đánh giá cao các hoạt động kinh tế của đất
nước này.” Cựu Tổng thống Tanzania, Julius Nyrere – người đã từng tuyên bố rằng
các quốc gia Châu Phi nợ nần được nhượng chủ quyền với IMF và WB đã có một câu
nói nổi tiếng: “Ai là người đã bầu IMF trở thành bộ tài chính của tất cả các nước trên
thế giới?”. Năm 1989, Tổng thông Romania, Nicolae Ceausescu đã nuộc tội IMF vì
đã làm cho các nước nghèo hơn, còn các nước giàu thì đang “lấy cắp” tiền từ các
nước đang phát triển.
Cải cách
IMF chỉ là một trong những tổ chức quốc tế và nó là một tổ chức chung về các vấn đề
kinh tế vĩ mô, các vấn đề cốt lõi đáng quan tâm của các nước đang phát triển là rất
hạn hẹp đối với IMF. Vì vậy, một cải cách đã được đề xuất để hướng tới sự hợp tác
chặt chẽ các mối quan hệ với các cơ quan chuyên môn khác như UNICEF, tổ chức
lương thực và nông nghiệp (FAO), hay chương trình phát triển Liên hợp quốc
(UNDP). Jeffrey Sachs đã từng viết trong một cuốn sách rằng IMF và WB có các nhà
kinh tế tuyệt vời và dẫn đầu trong việc tư vấn cho các nước nghèo để làm thế nào có
thể thoát ra cảnh nghèo đói, nhưng vấn đề là làm cho nền kinh tế phát triển. Phát triển

kinh tế cần cải cách, không phải cần IMF. Ông cũng lưu ý rằng các điều kiện vay của
IMF nên được kết hợp với các cải cách khác. Ví dụ như cải cách thương mại ở các
nước đã phát triển, hủy bỏ nợ và tăng hỗ trợ tài chính cho các khoản đầu tư và cơ sở
hạ tầng cơ bản. Điều kiwwnj vay của IMF không thể đứng một mình và tạo nên sự
thay đổi, họ cần kết hợ với những cải cách khác và điều kiện khác khi áp dụng.
Những cải cách đã giúp các nền kinh tế mới nổi có nhiều quyền lực hơn và đã được
24
sự đồng ý của G-20 vào năm 2010, tuy nhiên, dến tháng 4 năm 2014, Quốc hội Mỹ đã
không đồng ý với những cải cách đó.
Tác động đến sức khỏe cộng đồng
Một nghiên cứu năm 2009 đã kết luận rằng các điều kiện nghiêm ngặt đã dẫn đến
hàng ngàn ca tử vong ở Đông Âu bởi bệnh lao cũng như sự chăm sóc sưc khỏe của
cộng đồng cũng bị suy yếu đi rất nhiều. Trong 21 quốc gia mà IMF cho vay, tử vong
vì bệnh lao tăng lên 16.6%. Trong năm 2009, một cuốn sách của Rick Rowden đã
tuyên bố rằng cách tiếp cận sự ổn định giá của IMF (lạm phát thấp) và kiềm chế tài
chính (thâm hụt ngân sách thấp) là những điều hạn chế không cần thiết và đã ngăn
cản các nước đang phát triển mở rộng quy mô đầu tư dài hạn trong cơ sở hạ tầng của
y tế cộng đồng. Cuốn sách đó cũng khẳng định hậu quả là các hệ thống y tế công
đồng trở nên thiếu thốn, dẫn dến điều kiện làm việc vô đạo đức và thúc đẩy sự chảy
máu chất xám của nhân viên y tế, và nó đã làm suy yếu cuộc chiến chống HIV/AIDS
ở các nước đang phát triển và sức khỏe cộng đồng.
8. IMF và Ngân hàng thế giới (WB)
IMF và WB có cơ chế thoạt nhìn giống nhau và lắm lúc gây khó khăn trong viêccj
phân biệt. Thậm chí, John Maynard Keynes – một trong những người đưa ra ý kiến
sáng lập hai tổ chức trên và được xem là một trong những chuyên gia hàng đầu thế
giới trong thế kỷ XX – cũng từng nhầm lẫn.
8.1. Giống nhau
IMF và WB đươck biết đến như bộ đôi chống đỡ cấu trúc trật tự kinh tế và tài chính
thế giới. Trên bề mặt, IMF và WB có nhiều đặc điểm giống nhau. Cả hai đều được
quản lí bởi chính phủ của các nước thành viên. Cả hai tổ chức đều chịu tránh nhiệm

giải quyết các vấn đề liên quan kinh tế và tập trung việc củng cố cũng như phát triển
nền kinh tế các nước thành viên. Viên chức của cả hai tổ chức luôn cùng nhau xuất
hiện tai các buổi hội thảo kinh tế, phát biểu bằng thứ ngôn ngữ kinh tế và tài chính y
25

×