MỤC LỤC
I. Tình hình ruộng đất tư hữu trước thời Lý-Trần……………2
1. Khái niệm ruộng đất tư hữu……………………………… 2
2. Tình hình chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất trước thời
Lý-Trần ………………………………………………………… …3
II. Tình hình ruộng đất tư hữu ở Việt Nam thời Lý-Trần
Chính sách đối với ruộng đất tư của 2 triều đại Lý-Trần … 5
Tình hình ruộng đất tư hữu dưới thời Lý-Trần………………
7
2.1. Ruộng đất thuộc sở hữu nhỏ của nông dân lao động…
9
2.2. Ruộng đất thuộc sở hữu lớn của địa chủ……………… 10
2.3. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà chùa………………………11
2.4. Bộ phận ruộng đất thuộc điền trang của các vương hầu,
quý téc…………………………………………………………… 13
2.5. Quyền sở hữu ruộng đất……………………………………….16
KẾT LUẬN ………………………………………………….18
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………21
1
I. Tỡnh hỡnh rung t t hu trc thi Lý-Trn
1. Khỏi nim rung t t hu
Trc khi i vo tỡm hiu rung t t hu thi Lý-Trn ta
tỡm hiu th no l rung t t hu.
ng ghen vit Quyn s hu t do v hon ton v rung
t khụng nhng ch cú ngha l cú th chim hu rung t mt
cỏch khụng iu kin hay khụng b hn ch gỡ, m cng cũn cú
ngha l cú th em nhng nú i
1
Lờ nin núi T do chõn chớnh ca loi ch t h (rung
t nh) ấy, khụng cú t do mua bỏn rung t thỡ khụng th
c
2
. T nhng quan im trờn ta nhn thy mua bỏn rung t
l mt tiờu chun ca quyn t hu rung t. Tuy nhiờn cng phi
t nhng quan im trờn trong mt hon cnh lch s c th. Bi
vỡ theo Mac Trong mi thi i lch s, ch t hu ó phỏt
trin mt cỏch khỏc v trong mt lot nhng quan h xó hi hon
ton khỏc. Vỡ vy cú th mi thi i lch s khỏc quan nim,
tớnh cht ca rung t t hu cng cú mang nhng nột khụng
tng ng. Cõu núi ca ng ghen núi v giai on tan ró ca xó
1
Ăng ghen Nguồn gốc của gia đình, chế độ t hữu và của nhà nớc NXB Sự thật, Hà Nội (1961, tr
235)
2
Lê nin Cơng lĩnh ruộng đất của Đảng xã hội dân chủ trong Cách mạng Nga lần thứ nhất (1905 -
1907) Matxcơva Trung Văn, tr 117
2
hi th tc. Cõu núi ca Lờnin núi v giai on t bn ch ngha.
Vy t quan im trờn v t hu rung t trong lch s phong
kin Vit Nam thỡ cớ ỳng khụng. Theo Phan TH Tõm H Vn
Trn trong bi vit Vi nhn xột v rung t t hu Vit Nam
thi Lý Trn ng trờn tp chớ nghiờn cu lch s s 52-1964 thỡ
tiờu chun mua bỏn rung t, tiờu chun ca quyn t hu rung
t l mua bỏn rung t cú th ỏp dng cho thi k phong kin
Vit Nam. Tt nhiờn õy, chỳng ta quan nim t hu rung t
khụng phi l t do tuyt i nh trong thi k cn i.
lm rừ khỏi nim v t hu rung t m ta ó bn trờn.
Sau õy, tụi xin trớch dn quan im ca nh s hc Trng Hu
Quýnh v vn rung t gi nh no ú i vi mt b phn
rung t nht nh, do ú, cú quyn thu hoch ton b sn phm
ca lao ng m mỡnh b ra trờn b phn rung t ú hoc mt
phn sn phm ca nú nu em nú phỏt c cho ngi khỏc. D
nhiờn nhõn vt ú cú th phi np bt mt phn sn phm ca nú
nu em nú phỏt canh cho ngi khỏc. D nhiờn, nhõn vt ú cú th
phi np bt mt phn nh sn phm vi t cỏch thc cho nh
nc, nu s vic din ra trong hon cnh mt quc gia cú chớnh
quyn. õy, trong xó hi trung i, cú mt nh nc trung ng
tp quyn bờn trờn, ch t hu t nhõn, nh Mỏc núi, cũn nhiu
tp cht v b bao bi mt cỏi mng che chớnh tr xó hi do
ú phi chu mt s hn ch nht nh. Nh nc quõn ch chuyờn
ch vi t cỏch ngi i din ca c nc, cú th cú mt s quyn
hn nht nh i vi ton b rung t trong nc, nht l khi m
t tng phỏp lý ch phỏt trin.
3
33
Trơng Hữu Quýnh Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI XVIII tập I, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội 1989
3
Nh vậy Trương Hữu Quýnh đã kế thừa quan niệm về tư hữu
ruộng đất của các nhà kinh điển Mác, Lênin. Song đã đặc khái
niệm này trong hoàn cảnh lịch sử phong kiến nước ta để có một
cách hiểu đúng đắn về nó. Trong xã hội phong kiến quyền tư hữu
ruộng đất “phải chịu một số hạn chế nhất định do một số quyền hạn
nhất định của nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất. Tư tưởng này,
Trương Hữu Quýnh đã kế thừa các nhà lịch sử học trước đó nói
chung, Hà Văn Tần, Phan Thị Tâm nói riêng khi cho rằng: Tư hữu
ruộng đất trong thời kỳ phong kiến không được tự do tuyệt đối nh
trong thời kỳ cận đại”.
2. Tình hình chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất trước
thời Lý-Trần
Chế độ tư hữu về ruộng đất ra đời muộn nhất là ở thời Bắc
thuộc. Sử cũ đã từng nói đến những Thứ sử, đô hộ chiếm đoạt
ruộng đất của nhân dân ta, đưa người nhà hoặc bắt dân ta cày cấy
phục dịch. Cho tới cuối thời thuộc Đường (thế kỷ IX), theo xu thế
chung ở Trung Quốc, trên đất nước ta đã xuất hiện một số điền
trang tư nhân, gia phả dòng họ Vũ (của đô hộ Vũ Hồn) đã nói đến
điền trang của tổ tiên ở Mộ Trạch (Cẩm Bình, Hải Dương), gia phả
của dòng họ Hồ (của Thứ sử Hồ Hưng Dật) nói đến điền trang Bàu
Đột ở Quỳnh Lưu (Nghệ An)…Xu thế này đã ảnh hưởng đến các
hào trưởng địa phương ở thế kỷ X, xuất hiện một số trang trại tư
nhân của người Việt. Theo bia “Càn ni sơn Hương Nghiêm tự bi
minh” (dựng năm 1124 ở Đông Sơn, Thanh Hoá) Ông tổ họ Lê là
Lê Lương “nhà rất giàu, chứa thóc hơn 100 lẫm, trong nhà nuôi
3000 khách…”. Dòng họ Dương Đình Nghệ ở Dương Xá (Đông
4
Sn, Thanh Hoỏ) cng nh vy, dũng h Phm (ca Phm C
Lng) Nam Sỏch cng cú trang tri riờng
4
Cho ti thi Khỳc Tha D thỡ b phn rung t t hu (bao
gm ca cụng hu quý tc,ca a ch v ca nụng dõn t canh) ó
thc s xut hin nh mt b phn cu thnh nn kinh t Vit Nam
lúc ấy.
T Khỳc Tha D n inh B Lnh, tỡnh trng chin tranh
thng xy ra liờn miờn, c bit l lon 12 s quõn trong vũng
20 nm tri, l mt c hi thun li cho vic phỏt trin rung t t
hu. Li dng ỡnh hỡnh hn lon ấy, bn cú th lc, cú vừ bin, lu
manh cỏc a phng tha h chp chim rung t bin cụng vi
t. Mt khỏc, b phn rung t t hu cng c phỏt trin bng
con ng Nh Nc phong cp rung t cho cỏc tng s. Sau
khi ỏnh thng quõn Nam Hỏn, Ngụ Quyn ó ban cp thỏi ấp cho
cỏc tng s nhu trng hp ca Phm Lnh Cụng c ban cp
c mt vựng huyn Nam Sỏch (Hi Dng). inh B Lnh thng
nht t nc, Nh inh cng phong cp rung t cho quan li,
cụng thn, binh lớnhBờn cnh ú, Nh Nc cũn phong cp
rung t cho cỏc chựa lm t vin, t in. Nhng t vin, t
in ny thc cht cng ch l mt loi rung t t hu. Ngi
c cp cú quyn s dng v gi mói mói, k truyn, chuyn
nhng cho i sau s rung t ấy. Cũn rung t thỏi ấp ca i
quý tc thỡ rt rng. Vớ d nh Lờ Lng ỏI Chõu c inh B
Lnh phong tc v cp thỏi ấp mt phm vi thuc cỏc huyn ụng
4
Trơng Hữu Quýnh, Tình hình ruộng đất thời Lý, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Lý Công Uẩn và vơng
triều Lý, nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.2001.T.339
5
Sn, Thiu Hoỏ v Qung Xng ngy nay. Con cỏi c tha ấm
i i
5
.
T thi inh cho n sut triu i nh Tin Lờ hu nh
khụng cú mt s can thip no ca Nh Nc i vi rung t t
hu nờn nhỡn chung b phn rung t ny phỏt trin mt cỏch
thun li v nhanh chúng. Cho n thi Lý thỡ nú ó phỏt trin n
mc mnh m buc Nh Nc Lý phi ra nhng iu l thnh vn
xỏc nhn v quyn t hu rung t chng nhng i vi vng
hu quý tc m ngay i vi c tng lp a ch bỡnh dõn. Nhng
iu lnh ấy ghi rừ v t m v quyn chuyn nhng, cm , mua
bỏn rung t. Chng nhng th, phỏp lut thnh vn thi Lý cũn
cú nhng iu lnh bo v quyn li a ch v nghiờm tr nhng ai
xõm phm n quyn li ấy: Chiu rng bỏn on haong in thc
in ó cú vn kh thỡ khụng c chuc li na, ai lm trỏi b
ỏnh 80 trng.
6
II. Tỡnh hỡnh rung t t hu Vit
Nam
thi Lý-Trn
1. Chớnh sỏch i vi rung t t ca 2 triu i Lý-Trn
Nhỡn chung nh nc tụn trng v khuyn khớch phỏt trin.
Tụn trng quyn t hu: nm 1128 khi Nh nc tin hnh p ờ,
nu phm vo rung ca dõn thỡ Nh nc bi thng (cụng nhn
s tn ti crd ca dõn, tụn trng quyn t hu. Mt khỏc, khuyn
khớch phỏt trin: Chớnh sỏch khai hoang (1125 thi Lý), khai hoang
lp in trang (1266 i Trn) to iu kin cho s hu ln hỡnh
5
Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam , quyển thợng, tr.89.
6
Phạm Thi Tâm-Hà Văn Tấn, Vài nhận xét về ruộng đất t hữu thời Lý -Trần, tạp chí Nghiên cứu lịch sử số
52.
6
thnh v phỏt trin; quyt nh cho bỏn rung cụng thnh rung t
(1254 thi Trn).
T thi Lý: Nh Nc bt u tn cụng vo lóng xó, to iu
kin cho quan li phỏt trin rung t t hu (chớnh sỏch khai
hoang 1125). T th k XII, nhiu th ho cú trang tri riờng cha
rt nhiu ngũi o tu. Nhiu ti liu ghi vic kin tng, tranh
chp rung t. Nm 1139, Nh Nc ban hnh mu cỏc vn t bỏn
rung t.
Thi Trn: Chớnh sỏch khai hoang 1266 dn n quỏ trỡnh
phỏt trin t cỏc ch s hu ln, xut hin cỏc in trang. T th
k XIII, s hu phong kin ln phỏt trin mnh, bờn cnh cỏc loi
s hu va v nh cng phỏt trin. Hin tng bỏn quan in nm
1254 (1 mu giỏ 59 quan).
7
Ngay t nm 1227, do s phỏt trin ca vic mua bỏn v
tranh chp rung t, nh Trn ó phi quy nh rừ v vic im
ch lờn cỏc giy t, vn kh mua bỏn rung t, ca ci ca t
nhõn. Nh Trn quy nh Phm lm chỳc th, vn kh, nu l giy
t v rung t, vay mng thỡ ngi lm chng im ch 3 dũng
trc, ngi bỏn im ch 4 dũng sau
8
i vit s ký ton th chộp rng: Nm Thiờn ng chớnh
bỡnh th 17 (1248), Trn Thỏi Tụng h lnh cho cỏc lụ p ờ nh
nhm ch no p vo rung t ca dõn thỡ phi o ch t p, tr
giỏ thnh tin ri tr cho dõn
9
Ton th chộp nm thiờn ng chớnh bỡnh th 6 (1237) Thỏi
Tụng ó chiu rng phm lm chỳc the vn kh rung t vay
7
Vũ Văn Quân, Chế độ ruộng đất trong lịch sử cổ trung đại Việt Nam , tập bài giảng chuyên đề, H.2005.
8
Đại Việt Sử Ký Toàn Th, Hà Nội 1967, tr 8.
9
Toàn th, q.5, tr 9
7
mn tin, ngi lm chng ỏp tay trc 3 hng, ch bỏn ỏp tay
sau 4 hng
10
Nm 1254, nh Trn ó thc hin mt ch trng cha tng
cú trong lch s trung i Vit Nam l: bỏn rung quan (quan in)
cho dõn mua lm rung t vi giỏ mi din 5 quan (by goi gi
mu l din)
11
Nm Trựng Hng th 8 (1292), nh nc ó quy nh thờm
v th l lm vn t: Phm vn t bỏn on hay cm c rung t
in phi lm 2 bn ging nhau, mi bờn cm mt bn
n nm Trựng Hng th 8 (1292), Nhõn Tụng ó chiu
rng nhng ngi bỏn lng dõn lm nụ t thỡ c phộp chuc,
rung t khụng dựng lut ny
Cỏc lut l v tranh chp rung t cng c quy nh rừ:
Nm i Khỏnh th 7 (1320) Minh Tụng ó ra lnh rng ngi no
tranh ot rung t nu khỏm xột thy rng khụng phi rung t
ca mỡnh thỡ phi chu ti nh ó tranh rung ca ngi v tớnh
rung vn thnh tin, phi tr li gp my ln. Ngi no lm gi
vn kh thỡ b cht mt t ngún tay
12
Nm i Khỏnh th 10 (1323) Minh Tụng ra lnh phm
tranh rung ang cú lỳa thỡ chia lỳa lm hai phn tr v cho ngi
cy mt phn, gi li mt phn
13
Cng bn v thu loi ny Vit s thụng giỏm cng mc
ó cp Nhn nh ai cú rung t thỡ phi np tin, thúc. Mt
mu hoc 2 mu np 1 quan tin, ba mu hay bn mõu np 2 quan,
10
Toàn th, q5, tr 69
11
Trơng Hữu Quýnh Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI XVII, XNB LSKHXH, Hà Nội 1989
12
Đại Việt sử ký toàn th , sđd, tr 110
13
Đại Việt sử ký toàn th , sđd, tr 113
8
năm mẫu trở lên nộp 3 quan. Thuế ruộng: cứ mỗi mẫu nộp 100
thăng lúa, ai không có ruộng đất thì được miễn cả”. Về thuế đinh
năm 1378 triều Trần “bắt các đinh nam môi hộ nộp 3 quan. Theo lệ
cũ… người nào có ruộng, bãi dâu, đầm cá thì chịu thuế, không có
thì thôi. Đến đây Đỗ Tử Bình bắt trước phép chung của nhà Đường
để làm thuế má thêm nặng lên”
9
2. Tình hình ruộng đất tư hữu dưới thời Lý-Trần
Sự tồn tại và phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng
đất thời Lý-Trần và các triều đại phong kiến Việt Nam đã trở thành
một vấn đề không phải bàn cãi nữa trong giới sử học đây là một
đặc điểm quan trọng của xã hội Việt Nam trung đại.
“Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân đương thời bắt nguồn từ
nhiều nguồn gốc khác nhau, từ khẩn hoang cho đến mua bán, cũng
như mang nhiều hình thức khác nhau từ sở hữu nhỏ của nông dân
tự canh đến sở hữu lớn của nhà chùa, của địa chủ phi quý tộc và
của quý tộc”
14
Việc mua bán ruộng đất đã trở thành một hiện tượng tương
đối phổ biến và được pháp luật thời Lý quy định khá cụ thể.
Lý Thiên Cương đã nói đến việc ông mua trên 70 mẫu ruộng
công cho làng làm công bản. Býa Bác Ân trong xã Thấp Miếu (Yên
Lãnh – Vĩnh Phú) ghi việc một người họ Nguyễn bỏ ra hơn 1000
quan tiền mua được 126 mẫu ruộng ở các đồng Phan Thượng, Phan
Hạ, Tiểu Bì, Đông Hán, Đồng Trù, Đông Sơn, Đồng Nhi cóng cho
chùa.
Năm 1128 khi nhà nước tiến hành đắp đê, nếu phạm vào
ruộng của dân thì nhà nước bồi thường. Nó thể hiện nhà nước thời
Lý đã tôn trọng quyền tư hữu của dân. Đặc biệt năm 1125 nhà Lý
đã ban hành chính sách khai hoang taok điều kiện cho sở hữu lớn
hình thành và phát triển không những nhà Trần sau này mà các nhà
Lý trước đó đã xuất hiện 4 hình thức sở hữư tư nhân về ruộng đất.
14
Tr¬ng H÷u Quýnh – Thªm mét sè ý kiÕn vÒ chÕ ®é ruéng ®Êt thêi Lý – TrÇn (C¸c thÕ kû XI - XV),
NCLS sè 189 – 1979, tr 20.
10
1) Ruộng đất thuộc sở hữu nhỉ của nông dân lao động
2) Ruộng đất thuộc sở hữu lớn của địa chủ
3) Bộ phận ruộng đất của nhà chùa
4) Bộ phận ruộng đất điền trang
Ngay từ sớm, chế độ sở hữu nhỏ về ruộng đất của nông dân
lao động đã chiếm địa vị quan trọng trong nền kinh tế. Việc khẩn
hoang, mở rộng diện tích canh tác hãy xây dựng làng chạ mới, tạo
điều kiện phát triển của chế độ sở hữu nhỏ này.
Bài minh khắc trên chuông chùa Vân Bản (Đồ Sơn – Kiến
Thuỵ – Hải Phòng) có niên đại 1076 (Vào thời Lý) ghi “thị vệ nhân
dũng thư là Nguyễn Ngộ và vợ là Chu Thị Trãi cùng cúng một sở
đất là vường ông Hà … Hộ xã Chu Lâm cùng em gái là Chu Thị
Trãi, hai người cúng một thửa ruộng hương chén”.
Bi ký trên đã phản ánh hiện tượng tục cúng ruộng đương thời
rất phổ biến ở thời Lý và sau này phát triển ở thời Trần.
Chế độ sở hữu lớn về ruộng đất ra đời từ những thế kỷ trước
thời Lý- Trần. Những danh từ “hào hữu” được ghi lại trong sử cũ
một phần nhằm chỉ vị trí xã hội, kinh tế của những nhân vật đáng
ghi nhí trong lịch sử. Một số địa chủ giàu có đã từng bỏ itền của
ruộng đất để xây dựng chùa chiền cho con cái đi học… và sau khi
đất nước trở lại hoàn toàn độc lập, đã đưa con cái voà hàng ngũ
quan lại phục trách dân sự của các triều đại dân tộc Ngô ĐInh, Tiền
Lê.
Vào cuối thời Lý, các cuộc hỗn chiến giữa các tập đoàn
phong kiến là một cơ hội thuận tiện cho các hào trưởng chiếm
11
ruộng đất công làm ruộng đất tư. Trong khi triều đình nhà Lý hoàn
toàn suy yếu, lúc dựa vào tập đoàn phong kiến này, lúc dựa vào tập
phong kiến khác, có lúc phải rời bỏ kinh đô Thăng Long làm cho
quyền lực Nhà nước đối với ruộng đất quốc hữu tất nhiên hoàn toàn
duy yếu, ruộng đất tư hữu của địa chủ, hào trưởng ngày càng phát
triển.
Thời Lý-Trần, đạo phật đã phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam,
hàng loạt chùa chiền mọc lên ở khắp nơi. Phật giáo đã có địa vị
quan trọng trong xã hội. Vừa mới thành lập triÒu đại, Lý Thái Tổ
đã cho xây chùa, đúc chuông, tô tượng. Từ đó đã hình thành và
phát triển của chế độ sở hữu nhà chùa về ruộng đất.
Ở thời Lý, chùa Trần Quang đã được cấp đến 1.371 mẫu
ruộng các nơi.
Ở thời Lý nhà nước trung ương đã tham gia vào việc giúp nhà
chùa quản lý ruộng đất của cải nh sử chép. Năm 1088 “định các
chùa trong nước làm 3 hạng: đại, trung và tiểu danh lam, cho quan
văn chức cao kiện làm đề cử (chức quan trông coi chùa quán và
liên hệ với nhà nước) là vì bấy giờ chùa có điền nô…”
15
Một hiện tượng khác xuất hiện trong sở hữu tư nhân về ruộng
đất phong kiÕn Việt thời Lý là hình thức điền trang. Những nguồn
sử hiện Ýt ỏi còn lại chứng tỏ rằng hình thức sở hữu điền trang đã
xuất hiện từ những thế kỷ IX – X ở nước ta. Họ Vũ (của Vũ Hồn ở
Hải Dương), họ Lê (của Lê Lương), họ Dương (của Dương Đình
Nghệ) ở Thanh Hoá, họ Phạm (của Phạm Lệnh Công, Phạm Cự
Lạng ở Hải Hưng) là những đại biểu của tầng lớp chủ điền trang
này. Công cuộc đấu tranh để củng cố thống nhất đất nước, củng cố
15
§¹i ViÖt sö ký toµn th, tËp II, Hµ Néi 1967, tr 141
12
c lp dõn tc ó khụng to iu kin xỏc lp v phỏt trin hỡnh
thc s hu ny.
2.1. Rung t thuc s hu nh ca nụng dõn lao
ng
Ch s hu nh v rung t ca ngi nụng dõn lao ng
thi Lý-Trn chim mt a v quan trng trong nn kinh t t
nc. Vic khn hoang m rng din tớch t canh tỏc cựng vi
kinh t hng hoỏ tin t l nhng nguyờn nhõn chớnh to ra s hu
rung t tiu nụng v l iu kin cho loi hinh s hu nh ny
phỏt trin.
Nm 1254, nh Trn bỏn rung cụng cho nhõn dõn mua lm
rung t vi giỏ r ó to ra khụng ít gia ỡnh nụng dõn ang lm
ngh th cụng, thuờ mn cú th mua c rung t. Nhiu viờn
quan li cng gom gúp tin mua rung t gõy c s kinh t sinh
sng lõu di. Tt c ó to ra mt tng lp t hu tiu nụng trong
xó hi. Bi ký l ngun s liu cho phộp ta su tp li mt s ch t
hu nh ny Vn bia Sung Hng t khc nm 1293 (xó Tiờu Liờn,
huyn M Lc H Nam Ninh ghi li hng lot c s cỳng rung
cho chựa t 3 so n 5 so , nh b Hong Th cung 3 so. Bia
Sựng Thiờn t bi dng nm 1331 xó Thi c (Gia lc- Hi Hng)
cng ghi hng lot ngi cỳng rung 1,2 khúm (tha) nh: Phm
TH Ban cỳng rung ụng , ụng Th 1 khúm xó ễng ớch, Phựng
b cỳng rung Cm cựng Phm Th Ma Loi v con gỏi l
Nguyn Th Móo cỳng rung Cm, khúm
16
Cỏc tỏc gi H Vn Tn, Phm Th Tõm ó dn ra mt vi
dũng trong bi Vi nhn xột v rung t t hu Vit Nam thi
16
Trơng Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI - XVIII, tập I Thế kỷ XI XV, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội 1989
13
Lý Trần” ở bia chùa Đại – Bi – diên – minh (ở xã Hướng Đạc,
huyện Văn Lâm, Hưng Yên) dựng năm 1327, đời Trần Minh Tông,
như sau: “Sa môn Trí- hạnh ở An Dưỡng sơn cúng ruộng Tháp xa
lệnh một thửa phía đông cận Nguyễn Thị Đảm, phía tây cận đường
đi… Lệnh thư gia là Nguyễn Khảo cúng đất vườn của tiên hiền một
thửa phía đông cận tha ma tiên hiền phía tây cận Hà Khảo Thâm
thích hộ là Nguyễn Phúc cúng ruộng Tháp xa lệnh một thửa phía
đông cận Hà Lộc, phía Tây cận gò hoang là Nguyễn Sơn Phượng và
cháu là thư hoả Thái Bốc cúng ruộng Cá - nhuế”.
Nguồn sử liệu đã dẫn ở trên đã phản ánh sở hữu nhỏ về ruộng
đất của những người nông dân lao động. Việc ghi “cúng một
khóm” “cúng 4 khóm” “cúng một phần” “cúng nửa phần” cho phép
ta thấy được diện tích nhỏ ruộng đất cúng vào chùa. Nó góp phần
phân biệt hình thức sở hữu nhỏ này với hình thức sở hữu lớn của
giai cấp địa chủ mà ta sẽ tìm hiều dưới đây.
Tóm lại, sở hữu nhỏ về ruộng đất của người nông dân lao
động thời Trần chiếm một địa vị quan trọng trong nền kinh tế đất
nước. Theo giáo sư Trương Hữu Quýnh thì muộn nhất là ở thời
Trần chế độ sở hữu nhỏ của nhân dân lao động đã phổ biến. Nó sẽ
là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của chế độ sở hữu lớn về
ruộng đất trong thế kỷ XIV, đặc biệt là vào những năm đói kém.
2.2. Ruộng đất thuộc sở hữu lớn của địa chủ
Ở Việt Nam kinh tế hàng hoá lớn xuất hiện từ khá sớm. Vì cơ
sở của nó lúc đầu còn thấp kém non yếu cho nên sự phát triển của
nó rất chậm chạp. Tuy chậm chạp nhưng nó vẫn gây một ảnh
hưởng nhất định đối với nền kinh tế xã hội. “Tiền tệ đã thâm nhập
mạnh mẽ vào ruộng đất. Ruộng đất đã trở thành hàng hoá mua bán
14
trao i, to ra mt tng lp c bit a ch thng hay a ch
th dõn. Xỳc tin quỏ trỡnh t hu hoỏ lm cho kinh t a ch
xut hin nht l vo thi Trn. iu lnh ban hnh nm 1254 ca
nh Trn cho phộp bỏn rung cụng lm rung t ó to iu kin
cho nhng ngi cú nhiu tin ca mua c nhiu rung t to
thnh nhngx a ch cú s hu ln v rung t.
Xó hi thi k Lý Trn l xó hi ng tr c tụn ca t
tng Pht giỏo. Chựa chin mc lờn khp mi ni. Ngi theo o
pht ụng o vi mt lũng sựng kớnh ngng m. S c chộp rng
Trờn t vng cụng, di n dõn thng, h b thớ vo vic nh
Pht, dự n ht tin cng khụng xn tic.
Da trờn c s ny chỳng ta cú th khng nh nhng a ch
cú s hu ln v rung t rt cú th cỳng vo nh chựa mt din
tớch ln hn nhng viờn chc v nụng dõn lao ng.
Trong bia nh i t bi trung tu s tớch ký cú on ghi:
ngi thụn Võn ụng l Nguyn Trng L ó cỳng cho chựa
Qunh Lõm mt lỳc 75 mu rung v Hoa L c s V Cụng cỳng
cho chựa 20 mu rung
17
Theo bia Thn Quang tự bi, cụng chỳa Tiu Quõn thi Trn
ó cỳng cho chựa trờn mu rung huyn i An, M Lc (H
Nam Ninh)
Vo u nhng nm 80 ca th k XIII, thỡ in ch nhiu
rung t cú khp ni.
17
Trơng Hữu Quýnh Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ Thế kỷ XI XVIII, NXB KHXH, Hà Nội 1989
15
Trong tiểu sử trạng nguyên Nguyễn Bạch Liêu đời Trần (đề
vào năm 1226) có nói đến một phú ông ở quê ông (Nghệ An)
“ruộng liền trăm mẫu”.
Nhà Trần với việc ủng hộ việc mua bán ruộng đất, đã khiến
cho sở hữu tiểu nông và sở hữu địa chủ phát triển mạnh mẽ.
2.3. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà chùa
Tư liệu duy nhất trong Đại Việt Sử Ký toàn thư về ruộng chùa là:
“Năm 1088 chia các chùa trong nước ra làm ba hạng: đại, trung và tiểu
danh lam, cho quan văn chức cao (văn quan quý chức) kiêm làm đề cử vì
bấy giờ nhà chùa có điền nô và đồ vật chứa trong kho. Thời Trần, Trương
Hán Siêu làm giám chùa Quỳnh Lâm, gả con gái cho tam bảo nô Nguyễn
Chế vì tham giàu”.
Sử chỉ ghi điền nô, tam bảo nô, không ghi ruộng đất. Điền nô tất cày
ruộng. Tam bảo nô là thuật nguwxgoij chung nô của nhà chùa (tam bảo là
chùa) khác vơi gia nô của tư nhân hay quan nô của Nhà Nước. Tam bảo nô
gồm có điền nô cày ruộng, một số nô phục dịch trong chùa. Giàu sang nh
Nguyễn Chế vẫn là nô tuy không phải đìên nô cày ruộng. Nó có tiền của,
có vợ quý phái, thật là hiếm có.
Tam tổ thực lục ghi năm 1324 các Vương hầu cúng cho Quỳnh Lâm
viện hơn 1000 mẫu ruộng và hơn 1000 nô. Nừu tính chi tiết số ruộng đất
của chùa Quỳnh Lâm còn nhiều hơn nữa và không phải chỉ ở khu vực
huyện Đông Triều ngày nay mà còn ở các địa phương khác nh Trần Quang
Triều cúng 300 mẫu ở Gia Lâm. Cho nên khoảng 30 năm sau có một tam
bảo nô - phú hộ là điều dễ hiểu. Nô của chù không những là gia nô của
vương hầu cúng theo ruộng đất mà chủ yếu là dân đói vào chùa làm sư tức
làm tam bảo nô (năm 1344). Vì vậy mới có nhận định hơn nửa dân làm sư
rồi triều đình phải bắt sư đi lính, đuổi sư dưới 50 tuổi hoàn tục (1369).
16
Thi Lý Trn hỡnh thnh rung chựa vi t cỏch mt hỡnh thc i
s hu rung t tp th mang hỡnh thc a ch tụn giỏo khỏc vi a ch
th tớnh tp th thiờng, ging vi a ch th tc ch s dng nụ lm
i tng búc lt sc lao ng lm giu cho nh chựa v lt vo tay mt s
ngi qun lý chựa nh Nguyn Ch chng hn. Ca ci do rung chựa v
nụ dựng vo vic nuụi sng hng ngn ngi chựa, xõy dng thỏp nguy
nga trỏng l, ỳc hng ngn pho tng vng, ng, kớch thc khng l,
tic thay nay khụng cũn na !
18
S hỡnh thnh v phỏt trin ca ch s hu nh chựa v
rung t xut phỏt t thc t ca s phỏt trin o pht nc ta.
Ti thi Lý-Trn, Pht giỏo t n nh cao ca s phỏt trin, tr
thnh quc giỏo ca i Vit. Cỏc vua u theo o Pht, hỡnh
thnh c mụn phỏi Trỳc lõm nhm dõn tc hoỏ Pht giỏo. Cnh
phn thnh ca Pht giỏo hin lờn trong li vn ca Lờ Quỏt (gia
th k XIV). Nh Pht ly ho phỳc cm ng lũng ngi, sao
m c ngi tin theo sõu bn nh th! Trờn t vng cụng, di
n dõn thng, h b thớ vo vic nh Pht, dự n ht tin ca
cng khụng x tic. Cho nờn trong t kinh thnh, ngoi n chõn
ph, cho n thụn cựng ngừ him, ch no cú ngi , tt cú chựa
pht lõu i, chuụng trng n na phn so vi dõn c. Mt nh
vn ca th k XVI l Nguyn D cng ghi li rng: i nh Trn
tc tin qu thn, thn t pht t chng õu l khụng cú Nhng
ngi ct túc lm ni nhiu hu bng na s dõn thng. Nht l
vựng huyn ụng Triu (Qung Ninh) s sựng thng li cng quỏ
lm, chựa chin dng lờn, lng ln cú n hn 10 ni, lng nh cú
chng 5,6 bao ngoi bng ro lu, bờn trong bng vng son
19
18
Nguyễn duy Hinh, Kinh tế xã hội lý trần, Nghiên cứu lịch sử, số 04-1996
19
Nguyễn Dữ - Truyền kỳ mạn lục , Hà Nội 1971, tr 152
17
nuụi sng cỏc s tng cỏc loi, cho chựa chin cú
th hng la sm chiu, nh nc cựng mi tng lp nhõn dõn
trong xó hi ó b ra khỏ nhiu tin ca, rung vn cỳng vo
chựa.
Cỏc vua Trn v tng lp quớ tc quan li ca triu ỡnh l
nhng ngi cp nhiu rung nht cho nh chựa. Vớ d nh chựa
Thn Quang thi Lý ó c cp 1371 mu rung, sang thi Trn
vua Trn v cụng chỳa Tiu Quan li cp thờm cho hn 100 mu
na. Chựa Bỏo n riờng mt ngi a phng tờn l Nguyn Cụng
ó cỳng 126 mu rung. Theo cỏhc tam t thc lc thỡ s Huyn
Quang c Trn Minh tụng ban cho 150 mu rung lm in t.
c bit l chựa Qunh Lõm, mt ngụi chựa ln thi Trn ó
c cỏc vua quan cỳng tng rt nhiu rung t v nụ t. S c
chộp vo nm 1324, Vn Hu vng Trn Quang Triu ó cỳng cho
chựa Qunh Lõm trờn 1000 mu rung v nụ t trờn 1000 ngi
20
.
Cũng nh mi i s hu rung t khỏc, rung chựa v tam bo nụ
uy hip s tn ti ca nh nc phong kin nờn diờn ra hin tng ban u
thỡ t chc dõn lm s o t cui cựng thỡ ui s hon tc. S hu
rung t nh chựa l mt thnh phn quan trng khụng th coi nh trong
403 nm nay vỡ tớnh ph bin ca nú khp cỏc xó .
2.4. B phn rung t thuc in trang ca cỏc
vng hu, quý tộc.
Khỏi nim in trang ra i Trung Quc vo cỏc th k V -
VI, in trang l hỡnh thc rung t nh th no? Theo T Hi
L trang viờn, c thnh lp trờn din tớch t chim hu ca
20
Nguyễn Danh Phiệt Lịch sử Việt Nam thế kỷ X - Đầu thế kỷ XV, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội -
2002
18
hong tht, quý tộc quan liờu v a ch. Trang viờn ca hong tht
gi l hong trang, hu uyn, cung trang v vng trang, thuc
chớnh ph gi l quan trang, hu cụng in trang v n in trang,
thuc quý tộc, quan liờu, a ch gi l t trang hu ngha trang
bit th v bit trang
21
Khỏi nim v in trang ca T Hi cho ta thy ni dung c
bn ca loi hỡnh rung t ny l do cỏc tụn tht, quý tc, a ch
phong kin chim hu, kinh doanh. Nú hon ton khụng phi l
rung t do khn hoang m thnh.
in trang l mt hỡnh thc i s hu rung t khỏc ch yu l ca
vng hu v ch mi xut hin (hay chớnh thc c triu ỡnh tha
nhn ) vo nm 1266, non tr hn i s hu rung t chựa, nú ch cú 151
nm lch s. Nm 1266 vua xung chiu cho vng hu, cụng chỳa, phũ
mó, cung tn chiờu dõn phiờu tỏn khụng cú ti sn lm nụ t khai khn
rung hoang b khụng (hoang nhõn in) lp in trang.
Theo Nguyn Th Phng Chi: i vi in trang triu Trn
l do khn hoang v ginh cho cỏc i tng: vng hu, cụng
chỳa , phũ mó, cung tn
22
Cú th khng nh mt hin tng ni lờn trong ch rung
ất thi Lý Trn l in trang, c bit l thi Trn. Nh nc
thi Trn vi chớnh sỏch khuyn khớch khn hoang lp in trang,
thỡ in trang ó tr thnh ph bin úng vai trũ ht nhõn ca nn
kinh t in trang thỏi ấp thi Trn.
21
Từ Hải Thợng Hải từ th xuất bản xã, 1989, tr 1884
22
Nguyễn Thị Phơng Chi Thái ấp, điền trang thời Trần, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2002
19
Mốc đánh dấu cho sự phát triển mạnh mẽ của sở hữu điền
trang thời Trần là năm 1266. Đây là năm nhà nước ban chiếu cho
phép lập điền trang một cách rộng rãi.
Sách Toàn thư chép: “Mùa đông, tháng 10 (1266) xuống
chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập
những người xiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì để khai khẩn
ruộng hoang lập làm điền trang”.
Được sự khuyến khích của nhà nước, từ đây mở ra mét phong
trào khai khẩn ruộng đất hoang thành lập điền trang. Điền trang
mọc lên ở nhiều nơi. Sử cũ ghi “Trước kia các nhà tôn thất thường
sai nô tì đắp đê hối ở bãi biển để ngăn nước mặn, hai ba năm sau
khi khẩn thành ruộng cho họ lấy lẫn nhau mà ở ngay đấy, lập ra ra
nhiều ruộng đất tư trang”
23
hoặc “trước đây các nhà vương hầu,
công chúa có điền trang ở ven sông, những chỗ phù sa mới bồi đều
là của chủ cả”
24
Các Hùng Trưng trong An Nam chí nguyên cũng xác nhận:
“Đất ven biển thường bị ngập nước, các thế gia muốn biên đất đó
thành của tư đều tuỳ tiện đắp đê bồi, ngăn nước mặn rồi cầy cấy.
Cho người ở hẳn đấy để khai khẩn cho hết cho hết mối lợi của
đất”
25
Nh vậy, địa điểm khẩn hoang lập lên các điền trang thường
tập trung ở các vùng đất ven sông, ven biển, bãi bồi, hàng loạt các
điền trang mới của các quý tộc Trần đã được thành lập. Theo
Nguyễn Thị Phương Chi trong “Thái Êp - điền trang thời Trần thế
kỷ XIII – XIV cho biết có khoảng 14 điền trang của các vương
23
§¹i ViÖt sö ký toµn th, Hµ Néi 1967, tr 36, 161, 202
24
§¹i ViÖt sö ký toµn th, Hµ Néi 1967, tr 36, 161, 202
25
Cac Hïng Trng, An Nam ChÝ NguyÖn, tr 143
20
hầu , quý tộc Trần gồm nhà vua, hoangf hậu, vương hầu, công
chúa, phò mã”.
Các vua Trần đã tham gia khẩn hoang lập điền trang. “Những
tư liệu điền dã cho biết Trần Thái Tông đã từng mộ dân ở vùng ô
Lâm (Ninh Hải, Gia Khánh, Ninh Bình) khai khẩn đất hoang được
một khu 155 mẫu, tại đây nhà vua đã cho xây hành cung Tháu Vi
để thỉnh thoảng về thăm. Hoặc như ở xã Thanh Bình (Thanh Hà -
Hải Dương), Trần Nhân Tông cũng cho mộ dân khẩn hoang vùng
đất ven sông Hương lập nên các điền trang Hạ Hào, Hữu Cáo, Sơn
Dựng, Nhân Tông còn cho xay dựng chùa Bạch Hào ở Thanh Xá
cấp cho 36 mẫu ruộng để cung phụng việc hương lửa”
26
.
Ngoài ra ta còn phải kể tới điền trang của các vương hầu quý
téc nh điền trang của An Sinh Vương Trần Liễu. “Theo Nam Định
tỉnh địa dư chí của Ngô Giáp Đậu thì ở Bảo Lộc thuộc Thiên
Trường xưa (nay là xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định),
nguyên có đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Xã này do
đất bồi, vương phụ là An Sinh Vương Trần Liễu mộ dân khai khẩn
lập Êp gọi là An Lạc Êp”.
Tiếp đó phải kể đến điền trang của công chúa Trần Khắc Hãn
ở An Nội và Cổ Nhuế. “Công chúa Trần Khắc Hãn còn mở rộng
điền trang của mình ra vùng ven sông phía tây bắc. Một trang trại
mới được thành lập với diện tích ruộg đất khoảng 250 mẫu”
Điền trang của tiến sỹ Hoàng Hối Khanh thời Trần ở vùng Lệ
thuỷ (Quảng Bình). Tại đây ông đã chiêu tập dân từ Châu Hoan,
Châu ái vào kết hợp với dân sở tạikhai khẩn đất hoang lập điền
trang, số đất khai khẩn được 500 mẫu.
26
Tr¬ng H÷u Quýnh – ChÕ ®é ruéng ®Êt ë ViÖt Nam tõ thÕ kû XI - XVIII
21
Điền trang của trưởng công chúa Thái Đường, bà đã chiêu tập
dân xiêu tán và cùng gia đình đến vùng ven sông Đào thuộc làng
Thị Liệu khẩn hoàng lập điền trang, đất đai khai khẩn được hơn
100 mẫu.
Qua những điền trang ta nêu ở phần trên, số lượng ruộng đất
khai khẩn được không đồng đều nhau. Nó nói lên quy mô của điền
trang không giống nh thái Êp. Điền trang rộng hẹp thế nào hoàn
toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư ban đầu của các quý tộc ở nơi đất
mới.
“Nếu nh quy mô thái Êp được gọi bằng đơn vị “hương” thì
diện tích điền trang được tính bằng mẫu (thời Trần gọi mẫu là
diện). Có điền trang 155 mẫu, có điền trang 1800 mẫu và gần 4000
mẫu. Rõ ràng là không có quy định chung nào từ phía nhà nước cho
các vương hầu, quý téc trong việc khẩn hoang. Việc tiến triển khẩn
hoang là hoàn toàn tuỳ thuộc vào sức người , sức của của chủ
nhân”.
Điền trang thuộc về sở hữu tư nhân, mọi ruộng đất đều do người chủ
điền trang quản lý, sử dụng và có quyền định đoạt. Tuy nhiên trong điền
trang còn khuyến khích nông nô tự khai hoang (trong điền trang của công
chúa Thái Đường) và biến ruộng đất Êy thành sở hữu tư của cá nhân mình.
Nh vậy trong điền trang vừa có sở hữu của chủ điền trang lại vừa có sở
hữu riêng của hộ gia đình. Đây là một biện pháp nhằm khuyến khích khai
hoang được tiến hành liên tục và mở rộng. Diện tích của các điền trang
không lớn mà chỉ khoảng vài trăm mẫu.
Lực lượng sản xuất trong điền trang có nguồn gốc bao gồm:
Người nông dân tự do không có diện tích canh tác, dân nghèo xiêu
tán.
22
Lực lượng của vương hầu quý téc do vương hầu quý tộc chiêu mộ
Người bị tội và tù binh
Chính điều này đã làm cho cộng đồng cư dân trong các điền trang
không thuần nhất mà đa dạng và phức tạp hơn bởi họ xuất thân từ nhiều
thân phận, nhiều nguồn gốc khác nhau. Nhưng họ đã kết thành một lực
lượng đông đảo triệu tập dưới ngọn cờ khai hoang của quý tộc đi mở mang
bờ cõi chinh phục thiên nhiên phục vụ cho lợ Ých của con người, củng cố
sức mạnh của vương triều Trần lên toàn bộ lãnh thổ Đại Việt lúc đó.
Hoàng hậu Nguyễn Thị Ngọc Hào đã đem 170 nông nô, nô tỳ chạy
về quê ở Hương Khê, chiêu tập thêm dân sở tại lập điền trang mới có diện
tích khoảng 3695 mẫu. Tiến sĩ Hoàng Hối Khanh chiêu tập dân của 12
dòng họ ở Thanh Hoá, Nghệ An đi khai phá lập ra điền trang ở vùng Lệ
Thuỷ – Quảng Bình bây giờ. Nhìn chung lực lượng trong các điền trang là
nô tỳ, là người nông dân tự do. Họ làm việc trong các điền trang khai khẩn
đất hoang, gặt hái, trồng rau, kiếm củi, sản xuất hàng thủ công. Cũng nh
trong thái Êp quan hệ giữa vương hầu quý tộc và nông nô trong điền trang
dự trên chế độ tô thuế và lao dịch. Vì có sở hữu tư nhân lên người nông nô
được giữ lại phần hoa lợi trên đất của mình. Quan hệ giữa người chủ –
nông nô cũng không quá khắc nghiệt – vẫn là tư tưởng thân dân hoà mục
với nhân dân.
Tóm lại, do chính sách khai hoang, lập điền trang của nhà
Trần mà sở hữu điền trang về ruộng đất đã trở thành một nét điển
hình khi đề cập tới chế độ sở hữu ruộng đất của thời kỳ này. Dưới
thời Trần sở hữu lớn điền trang của các vương hầu quý tộc đã phát
triển mạnh mẽ đạt tới đỉnh cao. Ruộng đất tư phần lớn tập trung
trong tay địa chủ, nhà chùa , đặc biệt là các vương hầu, quý téc.
23
2.5. Quyền sở hữu ruộng đất.
Quốc khố điền là công điền tức quan điền thuộc quyền sở hữu nhà
nước. điền trang là sở hữu của quý tộc. Công điền khẩu phần thuộc quyền
sở hữu tập thể công xã hoặc được chia cho đinh hay chia cho quý téc quan
lại làm thái Êp, thác đao điền …Khi được chia như thế thì công điền đó
mang tính chất tư nhân sử dụng nhưng không được buôn bán cho nên
không phải sở hữu tư hữu. Ngoài điền trang ra, ruộng tư của dân là sở hữu
tư hữu đầy đủ tính chất nghĩa là được thừa kế, chuyển nhượng, cầm cố,
mua bán tự do. Tư liệu ghi tương đối rõ và nhiều về xét xử tố tụng dân sự
này.
Trước tiên có điền tịch (sổ đăng ký ruộng đất ) mới thu được thuế
nhưng đồng thời cũng xác định được quyền sở hữu ruộng đất thuộc về ai.
Sử ghi việc định thiên hạ điền tịch vào năm 1092 nhưng chắc chắn đã có
điền tịch từ trước vì năm 1013 đã định thuế lệ phân biệt đầm ao điền thổ
với đất bãi dâu. Lưỡng thuế pháp (thu hai vô thu hè) có từ trước Lý nay vẫn
tiếp tục duy trì trên cơ sở diện tích canh tác không phụ thuộc quyền sở hữu.
Quyền sở hữu tư hữu thể hiện qua kiện tụng tranh chấp lấn chiếm,
cầm cố, bán đoạn, chúc thư thừa kế các loại đầm ao, ruộng thục, ruộng
hoang đã được nhiều sử liệu ghi lại. Đáng lưu ý là sử liệu năm 1142 quy
định thời hạn chuộc ruộng: ruộng thục không quá 20 năm, ruộng vườn
hoang không quá 1 năm, nếu đã bán đoạn có văn khế thì không được chuộc
(năm 1135 đã có quy định tương tự). Năm 1237 quy định chúc thư văn khế
về điền thổ,, tiền bạc thì người làm chứng điểm chỉ ở 4 dòng sau (năm 1227
đã quy định thể thức điểm chỉ đơn từ văn khế nói chung). Năm 1292 quy
định văn khế bán đoạn hay cầm cố ruộng đất làm thành 2 bản mỗi bên mua
bán giữ một. Năm 1143, 1145 cấm nhà quyền thế cậy quyền lấn chiếm
tranh chấp ruộng ao.
24
Tóm lại quyền sở hữu tư hữu ruộng đất được pháp luật bảo hộ toàn
diện, đầy đủ, ổn định trong suốt khoảng thời gian Ýt nhất là 403 năm.
Nhưng có sự chuyển hoá quyền sở hữu ruộng đất do chính quyền
quyết định. Ruộng tư bị sung công thành quan điền nếu chủ nhân phạm tội
(năm 1128). Ruộng công bán cho dân mua thành tư điền năm 1254. Gía
bán cực rẻ, mỗi mẫu 5 quan tiền. Lưu ý năm 1290 đói mà giá gạo cũng chỉ
3 thăng 1 quan. Nh vậy giá một mẫu ruộng chỉ bằng 15 thăng gạo, trong
khi thuế mỗi năm 3 thăng; tô quan điền thì 300, 400, 680 hay 100 thăng
một mẫu một năm. Vì vấn đề quan trọng nhất cho nông nghiệp chủ yếu là
sức lao động cho nên việc mua bán nô rất sôi động, ruộng đất hoang còn
nhiều
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng ở thời Lý-Trần, ruộng đất tư hữu rất phát
triển. Nhìn chung nhà nước tôn trọng và khuyến khích phát triển.
Tôn trọng quyền tư hữu: năm 1128 khi Nhà nước tiến hành đắp đê,
nếu phạm vào ruộng của dân thì Nhà nước bồi thường (công nhận
sự tồn tại crd của dân, tôn trọng quyền tư hữu. Mặt khác, khuyến
khích phát triển: Chính sách khai hoang (1125 thời Lý), khai hoang
lập điền trang (1266 đời Trần) tạo điều kiện cho sở hữu lớn hình
thành và phát triển; quyết định cho bán ruộng công thành ruộng tư
(1254 thời Trần).
Ruộng đất tư hữu rất phát triển, đặc biệt là bộ phận ruộng đất
thuộc sở hữu của điền trang. Sự tồn tại và phát triển của chế độ sở
hữu điền trang, đặc biệt là ở thời Trần là một hiện tượng đặc sắc
đáng chú ý của chế độ ruộng đất nước ta. Cùng với việc khai khẩn
đất hoang lập điền trang thì hiện tượng mua bán ruộng đất cũng nổi
25