Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay,khi đất nước thống nhất thì nhu cầu hướng về cội nguồn
của con người ngày càng lớn. Do đó nghiên cứu,tìm hiểu về dòng họ một mặt
thể hiện đạo lý “ uống nước nhớ nguồn”. Đồng thời qua quá trình nghiên
cứu,truyền thống văn hoá dòng họ. của dân tộc từng bước được khẳng định.
Dòng họ là một hiện tượng lịch sử nên có sản sinh,có vinh thăng,có
suy thoái,thậm chí có khi không tồn tại nữa. Nhưng cũng có những dòng họ
được cả vùng hay cả nước biết đến,thường những dòng họ này có nhiều đóng
góp cho lịch sử dân tộc và thường có những nhân vật “tiờu biểu”. Các dòng
họ ở Nghệ An vốn có truyền thống cần cù lao động và đoàn kết theo tinh thần
thương thân tương ái,có ý chí mạnh mẽ và thông minh. Đã từng sát cánh bên
nhau đấu tranh oanh liệt để bảo vệ Tổ quốc,quê hương xóm làng. Trong các
dòng họ đó có họ Phan ở đất Đông Thành (Yên Thành - Nghệ An) trong suốt
chiều dài lịch sử (từ thế kỉ XV đến nửa đầu thế kỉ XX) đã đóng góp sức người
sức của,phục vụ cho chính nghĩa,cho công bằng xã hội. Truyền thống yêu
nước và anh hùng của dòng họ cần được làm sáng tỏ để thế hệ con cháu được
tự hào về tổ tiên mình,trên cơ cơ đó từng bước học tập và phát huy. Trong
thực tế,dòng họ này có nhiều đóng góp lớn cho lịch sử dân tộc cống hiến
nhiều nhân tài cho đất nước,đặc biệt ở thời kỡ Lờ Trung Hưng. Do đó nghiên
cứu về dòng họ Phan ở Đông Thành (Yên Thành - Nghệ An) giúp chúng ta
nhận thức đúng đắn hơn về gia tộc,cộng đồng và mối quan hệ giữa các dòng
họ. Trên cơ sở đó phát huy những mặt tích cực,hạn chế những mặt tiêu
cực,góp phần củng cố mối đoàn kết toàn dân. Bởi vậy,tôi xin chọn đề tài “
Tìm hiểu về dòng họ Phan trên đất Đông Thành (Yên Thành- Nghệ An) từ thế
kỉ XV đến thế kỉ XX” làm bài tiểu luận của mình.
Từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về quá trình phát
triển “Dũng họ Phan ở đất Đông Thành từ thế kỉ XV đến thế kỉ XX”. Trên
thực tế,con cháu hội đồng gia tộc họ Phan và một số nhà khoa học đó cú
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
những bài viết về dòng họ Phan nhưng chỉ đề cập đến những khía cạnh riêng
lẻ,cụ thể. Trong “ Hoàn chõu kớ” của Nguyễn Cảnh Thị,NXB Khoa học Xã
hội,Hà Nội – 1988 đã tái hiện lại dấu ấn lịch sử của mảnh đất Nghệ Tĩnh. Đặc
biệt sỏch cũn đề cập đến những nhân vật trong sự nghiệp phũ Lờ diệt
Mạc,trongđú có cá nhân Phan Công Tích. Cuốn “Danh nhân Nghệ An”,NXB
Nghệ An – 1998,có đề cập đến vị thuỷ tổ của họ Phan đó là Phan Vân ở cuối
thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV. Cuốn” Lịch sử huyện Yên Thành” tập I,NXB Nghệ
An do Ngô Đức Tiến làm chủ biên,đã đề cập đến tiểu sử và sự nghiệp cách
mạng của Bái Dương Hầu – Phan Vân. Trong cuốn” Họ Phan trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam” tác giả Phan Tương,NXB Văn hoá Thông tin,đã trình bày
sơ lược những nét khái quát về dòng họ Phan ở Đông Thành. Ngoài ra cũn cú
một số báo,tạp chí viết về dòng họ Phan ở đất Đông Thành. Tuy những bài viết
này còn mang tính riêng lẻ nhưng đã cung cấp những tài liệu quý báu để tôi đi
sâu nghiên cứu một cách toàn diện,có hệ thống về dòng họ này.
Để hoàn thành bài tiểu luận này,tôi sử dụng phương pháp lịch sử,phương
pháp lụgic,phương pháp điền dã,ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp
khác như phân tích,so sánh.
Bài tiểu luận này gồm 3 chương:
Chương I: Quá trình hình thành và phát triển của dòng họ Phan trên đất
Đông Thành từ thế kỉ XV đến thế kỉ XX.
Chương II: Những đóng góp của dòng họ Phan ở Đông Thành đối với
lịch sử dân tộc từ thế kỉ XV đến thế kỉ XX.
Chương III: Những nét văn hoá độc đáo của dòng họ Phan ở Đông Thành.
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
QUÁ TRÌNH HèNH THÀNH VÀ PHÁT TRIấN CỦA DÒNG HỌ PHAN
TRấN ĐẤT ĐễNG THÀNH (YấN THÀNH - NGHỆ AN)
TỪ THẾ KỈ XV ĐẾN THẾ KỈ XX
1. Vài nét về mảnh đất và con người Đông Thành (Yên Thành - Nghệ An)
1.1 Hình thành địa danh.
Huyện Yên Thành được thành lập tách từ huyện Đông Thành,phủ Diễn
Châu từ năm 1837,huyện Đông Thành tách ra làm hai huyện Đông Thành và
Yên Thành. Trong đó huyện Yên Thành nằm ở phía Tây,huyện Đông Thành
nằm ở phía Đông,đều thuộc phủ Diễn Châu.
1.2. Địa hình và điều kiện tự nhiên;
1.2.1.Địa hình:
Yên Thành nằm vè phía Đông Bắc tỉnh Nghệ An,cách thành phố Vinh 55
km vè phía Bắc,phía Đông giáp huyện Diễn Châu và Quỳnh Lưu,phía Nam
giáp huyện Nghi Lộc và Đô Lương. Huyện có diện tích là 56.204ha trong đó
đất canh tác chiếm 29%. Địa hình Yên Thành không bằng phẳng,ba phía
Bắc,Tây,Nam đều là đồi núi,chỉ có phía Đông là đồng bằng. Đồng bằng có độ
nghiêng lớn,mặt cắt dài nên quá trình mài mòn rủa trôi nhanh,đất ít màu mỡ.
1.2.2. Khí hậu:
Khí hậu và thời tiết tương đối phức tạp,thuộc khí hậu nhiệt đới ẩm gió
mùa,nhiệt độ trung bình hằng năm 23 độ C,lượng mưa lớn,bão lũ nhiều. Mùa
hè nóng,có gió Tây Nam thổi vào,tạo nên khí hậu khô lạnh. Mùa đông lạnh,có
gió mùa Đông Bắc xâm nhập vào,nhiệt độ hạ đột ngột,mưa kéo dài trong
nhiều ngày.
1.3. Truyền thông văn hoá của cư dân Yên Thành:
Tuy cuộc sống chật vật khó khăn nhưng nhân dân Yên Thành luôn ra sức
xây dựng cho mình cuộc sống yêu đời,lạc quan hoà đồng với tất cả mọi
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
người. Nhân dân Yên Thành thường tổ chức các trò chơi mang tính dân gian
như: đánh đu,chọi gà,đấu vật vào những ngày nông nhàn rỗi. Hiếu học là một
trong những truyền thống của cư dân Yên Thành. Yờn Thành còn là nơi giao
lưu các ngọn nguồn văn hoá dân gian Nghệ Tĩnh.
2. Quá trình hình thành và phát triển của dòng họ Phan trên đất Đông Thành
2.1. Quá trình hình thành của dòng họ Phan ở Đông Thành
Vào cuối đời Trần (nửa cuối thế kỉ XIV) tình hình chính trị xã hội Việt
Nam hết sức rối ren,vua tôi nhà Trần đi vào con đường ăn chơi xa đoạ,không
còn chăm lo đến thuỷ lợi,đê điều và các chính sách khuyến nông tích cực.
Một mực tăng cường vơ vét tiền của,thóc gạo của nhân dân,dẫn đến tình trạng
mất mùa,hạn hán,lụt lội. Hậu quả là sức sản xuất bị đình trệ,nhân dân bỏ làng
đi phiờu tỏn khắp nơi,chạy vào các điền trang “làm nô cho các thế gia”. Nhà
nước quân chủ quý tộc Trần không còn đủ khả năng điều hành đất nước theo
chế độ quân chủ quý tộc nữa.Yêu cầu đặt ra là phải cải cách để đưa đất nước
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng. Trước đòi hỏi đó của lịch sử,năm 1394,Hồ
Quý Ly đã bức vua Trần nhường ngôi,lập ra triều đại Hồ.
Một số người đã không thể chấp nhận điều đó,vì người ta cho rằng Hồ
Quý Ly đã làm việc “ không hợp lẽ đời”. Đó là tội “ khi quân phạm thượng”.
Trong xã hội cũ,hành đụng đú không thể tha thứ được. Do vậy,họ đã không
ủng hộ cuộc cải cách của ông,mặc dù cho công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly
đã chứng tỏ ông nhận thức được nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng
cuối đời Trần,một số người đã bỏ đi,vào vùng Hoan Châu sinh sống.
So với vùng đất Thanh Hoá trở ra châu thổ Sông Hồng,vùng đất Châu
Hoan chưa được khai phá trọn vẹn. Ở đây vào cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ
XV,đất đai còn hoang hoá nhiều. Do đó,nhiều người từ xa vào Châu Hoan
sinh sống và chờ thời cơ khôi phục lại nhà Trần,trong số những người đú cú
ụng Phan Vân.
Theo tộc phả họ Phan ở Đông Thành,ông Phan Vân sinh năm1364,gốc
huyện Hoằng Hoá,tỉnh Thanh Hoá. Năm 1387 ông thi đậu hương cống,vào học
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
trường Quốc Tử Giám. Lúc này Hồ Quý Ly lấn quyền,có ý chiếm đoạt ngôi vua.
Hồ Quý Ly mời ông làm quan nhưng ông từ chối không nhận. Ông xin vua Trần
bổ nhiệm làm chánh sứ doanh điền tại vùng Thượng Du,Thanh Hoá.
Căn cứ theo Phổ ký Tràng Thành cũng như Phổ ký Bắc Thành (Yên
Thành),ông Phan Võn cú ba anh em. Gặp phải loan,Hồ Quý Ly lấn ngôi nhà
Trần,cả ba anh em đều phải ẩn tránh,mỗi người một nơi. Người em thứ hai
vào huyện La Sơn (Hà Tĩnh),người em thứ ba lên tỉnh Sơn Tây,cũn ông là con
trưởng ở lại Phủ Lý thuộc huyện Đông Sơn (Thanh Hoá),lánh vào xã Tiền
Thành Châu Hoan,yên cư ở đó,nơi ông ở vì thế gọi là thụn Chỏnh Sứ.
Căn cứ đối chiếu vào các tư liệu chính sử thỡ ụng Phan Vân có thể là
con ông Phan Nghĩa. Ông Phan Nghĩa làm tu sử (biên soạn quốc sử).
Tháng 10 năm Tân Hợi,vua Trần Nghệ Tông lấy ông làm lang trung bộ
Lễ. Năm Quý Hợi Xương Phù thứ 7 (1383),vua Chiêm Thành đánh ta,đã
chiếm đóng kinh thành Thăng Long,vua tôi nhà TRần phải dời sang đóng ở
núi Lam Khê (tức núi Phật Tích ở huyện Tiên Du,tỉnh Bắc Ninh). Thượng
hoàng Nghệ Tông sai Phan Nghĩa và hai triều Quan thay nhau dạy vua (tức
Tràn Đế Hiện) học. Cuối năm ấy,giặc Chiêm Thành rút về,vua va các quan lại
quay về Thăng Long.
Lúc này Hồ Quý Ly đã nắm hết quyền bính trong tay,được Thượng
Hoàng Nghệ Tông tin dựng,nờn ra vào triều không kiêng nể gỡ ai.Thỏng 8
năm 1388,vua Trần Đế Hiện cựng Thỏi uý Ngạc và một số triều quan cận
thần tìm cách trừ khử Hồ Quý Ly,khụng ngờ mưu ấy lại bại lộ.Hồ Quý Ly
bèn tìm cách dốm pha,núi xấu nhà vua và tâu với Thượng Hoàng Nghệ
Tụng,Thượng Hoàng Nghệ Tông nghe theo bèn hạ chức vua xuống làm Linh
Đức Vương,lập người con khác tên là Ngang mới 12 tuổi lên thay,đú chính là
vua Thuận Tông.Vua Trần Đế Hiện bị đưa xuống phủ Thái Đường rồi bị Hồ
Quý Ly sai người treo cổ chết,năm đó vua 26 tuổi,sử gọi là Trần Phế Đế.
Các triều quan theo nhà vua đều bị Hồ Quý Ly giết hại,Phan Nghĩa nắm
bắt được tin ấy liền cùng người con thứ 2 chạy trốn,vào ẩn náu tại huyện La
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
sơn,một nơi hẻo lánh ở Hà Tĩnh,tại thôn Cẩm Trang.Cũng do dú,cả gia đình
Phan Võn đó theo ông vào ẩn cư ở làng Phủ Lí,tức là làng Bối Lý,một làng xa
vắng phía tây thuộc huyện Đông Sơn(Thanh Hoỏ),nơi ụng đó ở trước đó với
nhiệm vụ chánh sứ doanh điền.
Sau khi Hố Quý Ly dời đô vào thành Tây Giai(Thanh Hoỏ),lại tiếp tục
giết vua Trần Thuận Tụng thỡ xảy ra một vụ ám sát Hồ Quý Ly ở hội thề Đốn
Sơn vào năm 1399 nhưng sự việc bại lộ,Hồ Quý Ly phát hiện,bắt giết các
triều quan và gia nhân 370 người,truy lùng những người chống đối liên quan.
Từ Phủ Lý,ông Phan Vân phải đưa vợ con trốn vào Hoan Chõu(Nghệ
An),xó Tiền Thành(1400) và gây dựng sự nghiệp ở đõy.Dũng họ Phan ở đất
Đông Thành cũng bắt đầu từ đó.
2.2. Sự phát triển của dòng họ Phan trên đất Đông Thành từ thé kỷ
XV đến đầu thế kỷ XX.
Họ Phan định cư trên đất Đụng Thành(Yờn Thành) tính từ thuỷ tổ Phan
Vân đến nay hơn 600 năm.Cho dự quờ gốc không phải ở Đông Thành,nhưng
ông Phan Võn đó cùng với nhân dân bản địa ở đây chăm lo khai khẩn đất
hoang để phát triển và mở mang dòng họ của mình làm phong phú thêm
truyền thống văn hoá dân tộc.
Trải qua nhiều thế hệ con cháu cho đến ngày nay,dũng họ phan đã lan toả
ra hầu hết các huyện trên đất Nghê An và nhiều tỉnh thành trong cả nước.Hơn
600 năm đó,đất nước đã trải qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi,từ Lê Lợi dẹp
tan sự thông trị của nhà Minh gây dựng nền độc lập đến cách mạng tháng 8
thành công và đất nước độc lập như ngày nay.Cựng với sự phát triển của đất
nước,dũng họ Phan cũng có nhiều biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp.Con
cháu ngày một đụng,cỏc chi ngày một nhiều.Theo gia phả họ Phan
Quận(nhỏnh trưởng) ở xã Hoa Thành-Yờn Thành do Phan Tươm sưu tầm và
biên soạn vào 5/10/1998,và gia phả họ Phan Hoàng ở làng Hào Kiệt xã Vĩnh
Thành do nhóm sưu tầm và nghiên cứu gồm Phan Ngọc,Phan Hoằng
Kiểu,Phan Hoằng Nậm biên soạn vào tháng 2 năm 1998,trong khoảng thời
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
gian từ 1398 đến thế kỷ XX dòng họ Phan đã trải qua 23 đời,42 chi và 7000
hộ và có đến 3 nhà thờ lớn ở Yên Thành. Ở đây dòng họ Phan đã phát triển
thành 2 nhỏnh,nhỏnh trưởng định cư ở xã Hạ Thành(Hoa Thành,Nghệ
An),nhỏnh thứ định cư ở làng Hào Kiệt, xã Vĩnh Thành,Yờn Thành.
Như vậy, từ thuỷ tổ Bái Dương Hầu Phan Võn,dũng họ Phan đã trải qua
hơn 600 năm phát triển thành nhiều chi nhánh lớn nhỏ, từ Kẻ Rộc lan ra các
huyện, các tỉnh, lớp hậu duệ của ngài đã sống xứng đáng với thuỷ tổ của
mỡnh.Dũng họ Phan đã trở thành một dòng họ lớn,con cháu ngày càng phát
triển phồn thịnh, có truyền thống hiếu học, tinh thần yêu nước,con cháu họ
Phan ngày nay càng tô điểm thêm truyền thống tốt đẹp đó của cha ông.
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
Chương 2
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA DÒNG HỌ PHAN Ở ĐÔNG THÀNH
(YÊN THÀNH – NGHỆ AN) ĐỐI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘC
TỪ THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XX
Lịch sử phát triển của dòng họ Phan từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX gắn
liền với các triều đại phong kiến từ thời Lê sơ đến cuối thời Nguyễn. Trải qua
quá trình lịch sử gần 600 năm,dòng họ Phan đã có những đóng góp to lớn đối
với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc,nhiều con cháu đã hy sinh
cả đời mình cho đất nước vẻ vang.
2.1. Thời trung đại
2.1.1. Thời Lê
2.1.1.1. Thời Lê Thái Tổ (Lê Lợi)
Thủy tổ Phan Vân là người nổi bật nhất trong thời kỳ này. Ông là người
nông dân thuần phác,sống bình dị như bao nhiêu người nông dân khác ở quê
hương Đông Thành,nhưng ông đã có công trong việc chiêu dân lập Êp,mở
rộng đất canh tác và đặc biệt có thành tích lớn trong việc ủng hộ quân lương,
góp phần vào tạo nên cuộc thắng lợi đối với cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược Minh của Lê Lợi.
Như ta đã biết cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV,tình hình chính trị xã hội
hết sức rối ren, chính quyền trung ương mục ruỗng thối nát,không còn đảm
bảo đúng vai trò của người đứng đầu đất nước,nhân dân phải sống cuộc đời
phiêu bạt lầm than. Bên ngoài giặc ngoại xâm nhiều lần tiến đánh thành
Thăng Long (ba lần giặc Chiêm Thành tiến đánh Thăng Long) . Bên trong,các
thế lực ra sức tranh quyền đoạt chức,mua bá đồ vương(tranh nhau ngôi vị
thiên tử). Năm 1400,Hồ Quý Ly bức vua Trần nhường ngôi và lập nên triều
đại Hồ (1400-1407).
Trước và sau khi lên ngôi,Hồ Quý Ly một mặt ra sức cải cách để đất
nước thoát khỏi khủng hoảng,nhưng cũng đồng thời thẳng tay trừng trị những
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
người liên quan. Nội dung những cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đưa ra chứng
tỏ ông đã nắm được căn bệnh của đất nước,và ở một chừng mục nào đó thì đã
đưa ra một giải pháp kịp thời. Hành động bức vua Trần nhường ngôi và sát
hại triều thần thì không hợp với “đạo lý ở đời”nên ụng giành được Ýt tình
cảm từ nhân dân. một số người không chấp nhận điều đó nên không hợp tác
với nhà Hồ mà bỏ đi xứ khác làm ăn,chờ thời cơ để biểu thị thái độ,trong số
những người đó có Phan Vân.
Năm Đinh Hợi(1407),giặc Minh sang đánh nước ta,tiêu diệt triều đại
nhà Hồ. Phan Vân vẫn Èn thân cày ruộng nhưng ngầm chí đánh giặc cứu n-
ước,chuẩn bị quân lương.
Những sử sách chính triều đình không ghi chép,nhưng may mắn cho
chóng ta là có vị quan giữ chức “ hàn lâm viện thị giảng” (tức chức quan
văn,học vấn uyên bác cổ kim,được kinh giảng kinh sách cho vua) lầ Liên Hoa
Phan Cảnh Nho đã chép trong phổ ký các sự kiên trên theo lối rẽ bút,rồi sau
đó được con cháu họ Phan Vân chi Tràng Thành chép lại như sau : ông húy là
Vân,nguyên vốn là ngưòi Hoằng Hóa,trấn Thanh Hóa,đậu hương cống,khoa
thi Đinh Mão (1387) đời Trần Phế Đế nhưng không ra làm quan,về sau gặp
loạn giặc Minh, bèn rời vào Châu Hoan,xã Tiền Thành Èn cư,kịp đến lúc vua
Lê Thái Tổ thừa lệnh phái lập đồn điền, được thăng chức chánh sứ sơn phòng,
thiết lập doanh cư ngay tại xã đó.
Mùa xuân năm Ất Tỵ(1425),đại quân Lam Sơn tiến dọc triền Lam
Giang xuống tới huyện Thổ Du. Lê Lợi hạ lênh cho nghĩa quân,kể cả dân binh
trong nghĩa quân, đồng loạt lấn chiếm lại các huyện châu thuộc trấn Nghệ An
ở vị trí phía đông đường sơn cước. Yên Thành bang cách nơi chỉ huy và trại
dân binh “doanh cư” của Phan Vân 10km đã bị tiêu diệt. Giảỉ phóng được
phía đông huyện Đông Thành (sau này lại thuộc Diễn Châu) tạo điều kiện
khai thông từ vùng núi đường sơn cước phía tây xuống giáp biển Đông thuộc
hải phận Diễn Châu ngày nay.
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
Theo “ Đại việt sử ký toàn thư”thì “ các châu huyện đều thu phục
được,duy chỉ có Nghệ An và Diễn Châulà chưa hạ”.Ở đây ta cần chú ý rằng
việc đánh chiếm các châu huyện Êy chính nhà Lê không thể chếp hết và do
đó,ngay trong “Đại Việt sử ký toàn thư”của cỏc nhà sử thần nhà Lê do Ngô
Sỹ Liên đứng đầu vẫn chỉ chép tổng quát tình thế chiến sự lúc đó chứ không
ghi danh tính đích thực của một vị chỉ huy nào,kể cả chánh sứ sơn phòng
Phan Vân vốn chịu hai trách nhiệm lớn vừa nờu tên đối với nghĩa quân Lam
Sơn khi phương án chiên lược của Nguyễn Chích đang được thực hiện kip
thời với hiệu quả lớn . Nhưng sự tích anh hùng của Cỏc vị chỉ huy Êy được
nhắc nhở bằng một tên gọi,một địa danh “đồng chỉ huy”
Lúc quuân Minh mở cửa thành ra tiếp nhận thuyền lương thì bị tập
kích bất ngờ,đoàn vận tải quân lương do Trương Hùng chỉ huy thua chạy.
Đinh Lễ đuổi quân Minh chạy ra tận Tây Đô bỏ lại thành Trài đang bị vây
chặt đằng sau. Chiến thắng thành Trài đã mở màn cho một chiến dịch mang
đầy ý nghĩa chiến lược mới. Nghĩa quân Lam Sơn mở cuộc đại tấn công ra
bắc,liên tiếp chiến thắng,bỏ lại sau hai thành Diễn Châu và Nghệ An đang bị
vây hãm chặt . Sau khi giải phóng Tân Bình –Thuận Hóa (tháng 8/1425)từ
cuối năm 1425 đến tháng 9/1426,Lê Lợi cùng các tướng lĩnh của ông đã quyết
định mở các cuộc tiến công ra các lộ miền Đông Đô.
Rõ ràng phương án chiến lược của Nguyễn ChÝch đã được thực hiện
thắng lợi,chỉ “đứng chân” ở Nghệ An hơn một năm,đại quân Lam Sơn đã xây
dựng được lực lượng hùng mạnh. Đại quân Lam Sơn đã tiến quân ra bắc theo
đường bộ,quõn lương vận tải theo đường thủy,tất cả trùng trùng điệp điệp tiến
ra giải phóng Tây Đô,Đụng Đô,thu phục lại giang sơn Đại VIệt vào năm
Đinh Mùi (1427). Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc ta cũng như các dân
tộc khác trên thế giới,hiếm thấy có trường hợp tương tự như thế.
Theo dõi tiến trình lịch sử trên,ta thấy chiến lược xác định “đất đứng
chân”ở Nghệ An rồi tiến thẳng ra Đông Quan sở dĩ hoàn thành được là do sự
tài tình của tướng lĩnh Lam Sơn. nhưhng một nguyên nhân không kém phần
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
quan trọng là công lao đóng góp về quân số và quân lương,đóng góp về chiến
trận của cư dân Nghệ An thế kỷ XV,trong đó nổi bật lên là vai trò to lớn của
chánh sứ sơn phòng Phan Vân. Từ một sỹ phu cuối thời Trần,không muốn
làm quan nhà Hồ,kiên quyết bất hợp tác với giặc Minh xâm lược,cuối cùng
Phan Vân đã hết lòng,hết sức tham gia khởi nghĩa Lam Sơn,khi cuộc khởi
nghĩa theo đường sơn cước từ Như Xuân Long Chánh tiến vào núi rừng Quỳ
Châu,lấy Nghệ An làm đất đứng chân. mặc dù tham gia “ muộn”,nhưng Phan
Vân đó tham gia và tham gia hết lòng ở giai đoạn quyết định thành bại của
công cuộc giải phóng dân tộc thế kỷ XV. Do đó sau ngày thắng lợi,Lê Lợi lên
ngôi hoàng đế,sáng lập ra tiều đại Hậu Lê. Khi xét công ban thưởng,các tướng
được giao chức mới và gắn liền với đất phong (thường là tên một một vùng
nào đó ). Sau đó,đến lượt những người không được giao chức mới nhưng vẫn
phong tước,vì có công lao lớn gọi là tản quan. Và vì thế tước phong không
theo huỵên,tên đất mà chỉ nào mà chỉ chọn một cặp bẩy từ có ý nhĩa khẳng
định đức tính,phẩm chất của người được phong tước. Ở đây từ phương diện
sử học,chóng ta cần chú ý rằng,ngay từ khi đầu pháp chế nhà Lê đã phân biệt
rõ ràng “chức” và “tước”.
Chánh sứ sơn phòng Phan Vân lúc bấy giờ (1428)không được phong
chức mới mà chỉ được phong tước,nói rõ hơn là ông vẫn giữ nguyên chức vụ
của thời chiến tranh chứ không nhận thêm chức mới,được xếp và hàng “tản
quan” và được phong tước hầu với mỹ từ “Bái Dương” có hàm nghĩa khẳng
định bản lĩnh phẩm chất của Phan Vân,một sỹ phu cuối đời Trần đã từ bỏ
bóng tối(nghĩa của chữ “bái”),đi theo ánh sáng mặt trời (nghĩa của chữ
“dương”) tràn đầy khí thế của sự nghiệp phục hồi đất nước Đại Việt dưới
ngọn cờ đại nghĩa Lam Sơn.
2.1.1.2.Thời Lê Trung Hưng
Kháng chiến chống quân Minh xâm lược thắng lợi năm1428,Lê Lợi
lên ngôi hoàng đế,sáng lập ra triều đại Hậu Lê. Song song với sự phát triển và
hoàn thiện thể chế chính trị ở thế kỷ XV,nhà nước Lê sơ đã thực hiện hàng
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
loạt chính sách ruộng đất,từng bước khẳng định sự thống trị của những mối
quan hệ sản xuất phong kiến.
Nhìn chung,xã hội Lê sơ tương đối ổn định,mặc dù còn có nạn cường
hào đói kém nhưng nhờ sự phát triển của nền kinh tế,luật pháp nhà nước,nên
nhân dân chưa bị bức bách đến chỗ phải nổi dậy đấu tranh. Sự thịnh trị đó chỉ
tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn,vào đầu thế kỷ XVI đất nước rơi vào
cảnh chiến tranh,chia cắt trong nhiều thế kỷ. Khi sự thịnh trị này kết thúc thì
đã đưa xã hội quân chủ vào gai đoạn khủng hoảng trầm trọng,trong đó xuÊt
hiện các tập đoàn quân chủ “mưu bá đồ vương” tranh nhau ngôi vị thiên tử.
Vào thế kỷ XVI,chính quyền nhà Lê suy thoái,các ông vua kế vị
như Lê Uy Mục (1505-1509),Lê Tương Dực (1509-1515) ngày càng sao
nhã việc triều chính “làm nhơ cả nghiệp lớn” nên nhân dân mệnh danh
cho Lê Uy Mục là vua “lợn”,Lê Tương Dưc là vua “quỷ”. “Công việc làm
đi phá lại nhiều lần khiến cho nhà nước hết kiệt tiền của”,các quan lại
không còn ai đủ sức can ngăn,hạn chế. Bọn quí tộc ngoại thích nhân đó
tung hoành làm bậy,ruồng bỏ người cương trực, “ những súc vật hoa màu
của nhân dân đều bị cướp cả,nhân dân ai có vật gì lạ thì đánh dấu để
lấy”…Các quan hệ xã hội thời Lê Lợi từng bước bị phá vỡ,quan hệ
“hoàng quyền thần thuộc” bắt đầu bộc lộ mặt trái của nó.
ĐÊt nước còn trong chế độ quân chủ chuyên chế thì vấn đề “trung
quân,ái quốc”được đặt lên hàng đầu nghĩa là trung thành với vua và yêu đất n-
ước, tư tưởng đó nặng nề đến mức khiến người ta có thể hy sinh cả tính mạng
của mình để giữ chữ trung. Trong lịch sử,đẫ có người lấy cái chết để giữ trọn
đạo hiếu với vua “vua bắt thần chết mà thần không chết là bất trung”. Do
đó,tư tởng trung quân ái quốc trở thành nguyên tắc xử sự trong xã hội cũ,là
nền tảng đạo đức hàng ngàn năm của nhân dân ta,trong sự nghiệp giữ nư-
ớc,xây dựng đất nước và mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân. Họ Phan mà thủy
tổ là Phan Vân từ đầu thế kỷ XV đến thế kỷ XX đã tuân thủ những nhiệm vụ
theo đạo lý trên.
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
Ông Phan Vân ở Đông Thành đã có công giúp Lê Lợi đánh thắng giặc
Minh nên được phong tước Bái Dương hầu. Kể cả Phan Cảnh Huân con trai
ông tham gia chiến trận nên đợc phong là Yên Thế Bá.Vua Lê Thái Tổ tức Lê
Lợi có công đánh đuổi giặc Minh giàng lại độc lập,tù do cho đất nước nên
xứng đáng lên ngôi vua và được truyền ngôi báu cho con cháu về sau,đó là
đạo lý mà toàn dân tín nhiệm.
Thế nhưng sau 100 năm (1428-1527) đên đời Lê Chiêu Tông,Lê Cung
Hoàng thì bị Mạc Đăng Dung giết chết và giành ngôi báu lập ra nhà Mạc. Nhà
Minh muốn lợi dụng cơ hội Êy đem quân sang xâm chiếm nớc ta,báo thù lại
thất bại 100 năm về trớc,nên lấy lý do sang trị tội kẻ phản thần Mạc Đăng
Dung giết vua. Lo sợ quá nên Mạc Đăng Dung cùng 40 người tùy thuộc lên
cửa ải Nam Quan,buộc vải vào cổ,quỳ lết lạy tướng Minh là Cừu Loan và
Mạc Bá Ôn xin nhận tội,cống hiên vàng bạc và cắt năm động của Việt Nam
hiến cho giặc vua Minh. Đổi lại vua Minh cho Mạc Đăng Dung làm chức Đô
thống sứ,hàm nhị phẩm (không được làm An Nam Quốc vương như trước)
(Xem Việt Nam là thuộc triều Minh). Những cử chỉ giết vua,phản quốc,cắt
đất hại dân,quỳ lạy một tên tướng giặc không biết liêm sỉ,nhục nhã của dân
tộc đã khiến nhân dân oán vọng triều quan phản đối không chiụ hợp tác với
nhà Mạc.
Năm 1533,các triều quan do Nguyễn Kim đứng đầu đã tìm được con của
vua Lê Chiêu Thống là Lê Duy Ninh lập lên làm vua là vua Lê Trọng Tông,mở
đầu khôi phục nhà Lê Trung Hưng và bắt đầu mở cuộc tấn công chống lại nhà
Mạc. Ở Nghệ An trong giai đoạn này có ông Phan Cảnh Quang và em là Phan
Đức Quảng (đời thứ 8,kể từ Phan Vân) ở xã Hạ Thành. Ở làng Hòa Cường tức
Hòa Kiệt có ông Phan Hoàng Thanh cùng con là Phan Hoằng Tích (cũng đời
thứ 8,thuộc nhánh thứ) đều ra Thanh Hóa úng nghĩa với vua Lê.
Còng như bao người khác,Phan Cảnh Quang thao lời kiêu gọi của vua
Lê ra Thanh Hóa tòng quân ứng nghĩa. Ông có bắt được con voi sổ tàu,đợc
nhà vua khen thởng và giao chức các đội chỉ huy quân ngũ đánh giặc. Ông có
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
nhiều mưu trí,đánh thắng nhiều trận nên được phong cấp liên tiếp. Sau đó ông
được phong chức “Chỉ huy vệ cẩm Y với tước Trung Hầu tích”.
Năm 1592,lúc tiết chế Trịnh Tùng đánh thắng giặc,khôi phục lại thành
Thăng Long,thì ông Phan Cảnh Quang lại phò giá vua Lê ra đi từ Vạn Lại đến
Thăng Long,qua vùng mới giải phóng đầy nguy hiểm,kết quả đi một tháng an
toàn. Ngày 14 tháng 4 (âm lịch) năm 1593,vua Lê lên ngự triều lên chính
điện ở thành Thăng Long,trăm quan lại mừng hạ chiếu đại xá thiên hạ.
Tuy vậy các thế lực chống đối vẫn chưa yên,ông lại được vua Lê giao
chức tổng binh xứ Hưng Hóa,ông lại đem quân lên cùng Lại Thế Quý đánh
diệt ngụy đảng giặc có mưu đồ cầu cứu quân Minh,đánh tại châu Cẩm Hóa
(tức Bắc Cạn) phá tan thế lực của quân giặc. Do chiến thắng này,ông được
vua Lê phong tước Sùng quận công (sắc phong ngày 17/6 năm Quan Hưng
thứ 18 (1595)).
Tiếp đó,ngụy đảng lại tố cáo với nhà Minh là vua Lê không phải con
cháu nhà Lê mà họ Trịnh tranh chiếm. Vua Minh giao cho các thuộc quan ở
Lưỡng Quảng khám xét,nhưng bọn này tìm cách từ chối,không chịu gặp. Vua
Lê đợi mãi quá hạn phải về,bọn quan lại cho rằng vua lật lọng,tâu lên vua
Minh,vua Minh giao cho các phủ,huyện chuẩn bị lương thực,quân ngò để
sang hỏi tội vua Lê. Qua nhiều lần vua Lê sai triều quan đại diện lên ải Nam
Quan để biện minh nhưng đều không gặp. Nhất là Đỗ Uông,Nguyên Văn Giai
đầu năm 1597đi Quảng Tây(có sai bắc đại tướng quân đem quân đi phò
tá,nhưng khi đến Lạng Sơn thì bị Ngụy Đảng đe quân đến đánh,một quận
công chết tại trận,tướng sỹ,quân lính tan tác chạy về Thăng Long. Lạng Sơn
rối loạn,vua Lê phải điều cấp tốc Phan Cảnh Quang lên làm Bắc đô đốc,để
dẹp yên ngụy đảng vượt biên giới sang nước ta (Băc quân là khu vực quân sự
quan trọng bao gồm Lạng Sơn và Kinh Bắc trên tuyến đường từ ải Nam Quan
về Thăng Long),mét thời gian ngắn ông đã dẹp yên . Đến cuối tháng ba năm
Êy,vua Lê cùng một số triều quan cao cấp đem 5 vạn quân với cùng 7-8 viên
đô đốc lên Lạng Sơn do Phan Cảnh Quang đón tiếp,sắp xếp đóng quân nơi
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
hiểm yếu phò giá vua Lê và phái đoàn ngày 10/4/1597 sát biên giới cửa ải Hội
Khảm.
Trước lực lượng binh sỹ của ta hùng hậu và có chứng cớ rõ ràng,đại
diện nhà Minh ở Lưỡng Quảng phải thừa nhận vua Lê là chính thống. Trịnh
Tùng là kẻ bề tôi và báo cáo với vua Minh là như thế. Cuộc hôị khảm thắng
lợi,ông Phan Cảnh Quang được phong chính thức là “Bắc quân đô đốc”. Tiếp
đó,ông được vua Thần Tông truy phong thêm tước “thiếu bảo” trước chữ
vàng quận công. VÒ sau vua Lê Hiển Tông phong ông là “minh nghĩa uy
dũng đại vương(sắc ghi ngày 26/7 năm Cảnh Hưng thứ 44(1783)).
Đến 1600,Nguyễn Hoàng bày mưu mời Phan Ngạn,mượn cớ dùng
người giả danh sứ giả họ Trịnh đến giao lệnh phải trị tội Phan Ngạn và Ngô
Đình Nga,với cớ Êy Nguyễn Hoàng khuyên Ngạn và Nga chống lại họ
Trịnh(xem âm mưu ghi trong “Hoan Châu ký” của dòng họ Nguyễn Cảnh ).
Ngày 5 tháng 5 năm Êy, Phan Ngạn đột nhiên nổi lên đem quân đánh
Thăng Long, Nguyễn Hoàng xin Trịnh Tùng cho mình tự đem quân chống lại
Phan Ngạn, được Trịnh Tùng đồng ý. Thế là Nguyễn Hoàng đem quân theo
sông Hồng, đường biển trốn vào Thuận Hóa. Phan Ngạn mắc mưu Nguyễn
Hoàng, ra sức chiếm đóng thành Thăng Long, họ Trịnh phải rước vua Lê trốn
vào Thanh Hóa, không kịp đem theo lương thực.
Nhưng mét sự kiện đáng chú ý là con trai của Phan Cảnh Quang là
Phan Cảnh Huy,lúc đó làm chỉ huy vệ kim ngô hết sức phục vụ,phò giá vua
Lê được an toàn. Nên ngày mồng 10 tháng 5 năm Êy,lúc vào Thanh Hóa,vua
Lê phong cho ông Phan Cảnh Huy làm “Đặc tiến phụ quốc thượng tướng
quân Kim Ngô vệ đô chỉ huy sứ thị vệ toàn lễ hầu trụ quốc trung trật” ghi rõ
ngày:Thuận Đức nguyên niên,ngũ nguyệt,sơ thập nhật (năm 1600).
Tháng 8 năm Êy,chúa Trịnh đem quân ra khôi phục Thăng Long,Kế
quận công Phan Ngạn và em là Quỳnh quận công,mặc dầu do mắc mưu
Nguyễn Hoàng,nhưng vẫn mang tội chống lại triều đình nên bị cắt hết chức
tước. Anh em phải lẩn tránh,di cư nhiều nơi. Khi đánh giá về Phan Ngạn,mặc
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
dầu trước đây ông đã có công lớn trong việc giúp đỡ Lê – Trịnh chống
Mạc,nhưng hiện tại qua những hành động trên,muốn hay không thì Phan
Ngạn vẫn bị khép tội là phản nghịch của triều đình Và đi ngược lại với truyền
thống. Trung quân,ái quốc của dòng họ vốn đã có từ bao đời nay. Nhưng đó
chỉ là việc làm của một cá nhân bị dụ dỗ,mua chuộc.
Về phần họ Nguyễn,sau khi xây dựng cơ sở (1613),Nguyễn Hoàng sắp
mất gọi là Nguỹên Phúc Nguyên vào dặn dò “ Vùng đất Thuận Quảng vào tận
núi Bỉ Sơn (núi đá bia ở Phú Yên) là đất dụng võ,con cố gắng xây dựng cơ sở
làm cơ nghiệp muôn đời”. Từ đó,Nguyễn Phúc Nguyên ra sức thu nạp các
hiền sĩ,tướng tài như Đào Duy Từ,Nguyễn Hữu Dật,Nguyễn Hữu Tiến …,tập
luyện quân sỹ,chuẩn bị đối phó với vua Lê,chúa Trịnh.
Cuộc chiến diễn ra và kéo dài từ 1627-1672,qua bảy lần xung trận trong
thời gian đó con cháu họ Phan ở Đông Thành đã đứng về phía dòng chính
thống (vua Lê) để chống lại họ Nguyễn .
Như vậy,suốt thế kỷ XVI,XVII con cháu dòng họ Phan đã tham gia phù
Lê diệt,diệt Mạc,chống Nguyễn,nhiều lần làm tướng cao cấp được phong tước
công,tước hầu. Trong đó nổi bật nhất là hai vị được phong tước vương: Đó là
“Thiếu bảo sùng quận công minh nghĩa uy dũng đại vương Phan Cảnh
Quang”và “ trinh vũ đại vương Phan Công Tích”được lưu danh và được thờ
phụng đến ngày nay.
2.1.2. Thời Tây Sơn
30 năm (1771-1802) không phải là thời gian dài,nhưng phong trào nông
dân Tây Sơn và người anh hùng áo vải Quang Trung –Nguyễn Huệ đã làm nên
cả một sự nghiệp đáng tự hào. trong sự nghiệp to lớn đó,có sự đóng góp không
nhỏ của toàn dân Nghệ An nói chung và con cháu họ Phan nói riêng
Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở Tây Sơn do ba anh em
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo, nhờ sách lược khôn
khéo,nghĩa quân đã thu hút được sự ủng hộ và hưởng ứng của nhiều tầng lớp
nhân dân. Nghĩa quân lần lượt đánh đổ chính quyền Nguyễn và đánh tan quân
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
can thiệp Xiêm, với chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút,nghĩa quân quân Tây
Sơn đã khẳng định quyền ;àm chủ đối với đàng Trong .
Ở Đàng Ngoài,nhận lời cầu viện của Lê Chiêu Thống,nhà Thanh cho
quân kéo sang nước ta. Tháng 11 năm 1788(25 tháng 11năm Mậu Thân),
Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi lập tức ra
quân. Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), trên đường hành quân ra bắc Quang
Trung đã dừng chân tại Nghệ An để tuyển thêm binh lính.Chỉ trong vòng mấy
ngày mà Qung Trung đã triệu tập được 5 vạn quân,song ta có thể khẳng định
rằng Yên Thành không thể cung ứng đủ một số lượng quân sỹ như vậy.
Theo Bùi Dương lịch viết trong “Nghệ An ký”,số dân cả hai tỉnh Nghệ
An và Hà Tĩnh lúc bấy giờ có khoảng 125.000 người. Thế mà trong một thời
gian ngắn đã huy động được 5 vạn người gia nhập nghĩa quân. Đã được xem
là một kỳ tích tài năng thu phục lòng người của Nguyễn Huệ. Ở những vùng
gần nơi đóng quân của nghĩa quân như Nam Đàn,Nghi Léc,Hưng
Nguyên,Yên Thành ắt hẳn có nhiều trai tráng tham gia nghĩa quân hơn các
vùng khác.
Kể từ khi Quang Trung kéo quân ra Nghệ An đến khi đánh tan quân
xâm lược Mãn Thanh chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn. nhưng theo gia
phả họ Phan ở Hoa thành (Yên Thành ) cho biết,thời gian này con cháu trong
họ đã kéo về giúp vua Quang Trung. Tiêu biểu có Phan Cảnh Nho hay còn
gọi là Cảnh Cầu. Thời cuối đời Lê Trung Hưng,ông Phan cảnh Nho đậu phó
bảng làm quan hộ tụng ở Hải Dương,tiếp đó được vua triệu về triều giữ chức
“hàn lâm viện nhật giảng”dạy cho vua học. Tiếp sau đó ông được vua giao
xuống Hải Hưng quản trị 13 đạo quân thủy bộ. Nhưng Lê Chiêu Thống cầu
cứu quân Thanh sang đánh nước ta,thì ông sinh ra chán nản. Nhân lóc vua
Quang Trung kéo quân ra Tam Điệp,ông đã mang quân đến giỳp tạo điều kiện
cho đạo quân vua Quang Trung ra đánh chiếm Hải Dương được thuận lợi dễ
dàng.
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
VÒ sau,ông Cảnh Nho dạy học ở Mao Điều và chết ở đó. Đời vua
Thiệu trị,anh em ông Phan Bá Đam,Phan Thanh ra bốc mộ về chôn tại cồn
chùa Múi và xây lăng,đến nay đã dời lên nghĩa địa Hòn Cậy .
2.2. Thời cận và hiện đại
Nội dung của lịch sử từ 1858 đến cuối thế kỷ XX thật sù phong phú,đó
là lịch sử đấu tranh vừa bền bỉ,vừa kiên cường,bất khuất,vừa thông minh,sáng
tạo để chống lại các thế lực phản động. Đồng thời cũng là lịch sử của quá
trình tìm tòi chân lý cứu nước,từ xu hướng phong kiến,qua xu hướng dân chủ
tư sản,xu hướng vô sản để cuối cùng một chính Đảng vô sản ra đời,kết thúc
thời kỳ khủng hoảng vai trò lãnh đạo mở ra thời kỳ phát triển cách mạng Việt
Nam,dân tới cách mạng tháng 8 thành công năm 1945. Nhân dân ta đã đập tan
âm mưu xâm lược của thực dân Pháp,phát xít Nhật và bọn can thiệp Mỹ.
Trong tiến trình lịch sử đó,dòng họ Phan ở Đông Thành đã có những đóng
góp cụ thể qua từng giai đoạn như sau.
2.2.1. Cuối thế kỷ XIX
Giữa lúc chế độ phong kiến Việt Nam đang bứơc trên con đường suy
vong,thì các nước tư bản phương Tây thực hiện âm mưu xâm lược nước ta.
Ngày 1/9/1858,thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước tạị bán đảo Sơn Trà -
Đà Nẵng. Đứng trước kẻ thù mới với súng ống,tàu đồng,nhân dân ta sôi sục
lòng quyết tâm,căm thù đứng lên bảo vệ đất nước.
Năm 1884,bằng hiệp ước bán nước cuối cùng,nước Việt Nam phụ
thuộc hoàn toàn vào thục dân Pháp. tháng 7 năm 1885,kinh thành Huế thất
thủ. Ngay từ khi kẻ thù đặt chân lên nước ta,các sĩ phu yêu nước cùng nhân
dân nói chung và nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng đá nổi đạy chống thực dân
Pháp và triều đình Huế một cách mãnh liệt. Khi cả nước vang lên bản cáo
trạng của Hoàng Phan Thái (Nghi Lộc) và cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất (1870)
của Trần Tấn và Đăng Như Mai (Thanh Chương) thì nhân dân Yên Thành
cũng kịp thời đứng dậy ứng nghĩa. Hoạt động của cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất
lan ra cả Yên Thành,nhân dân nhiều làng như: Liên Trì,Mậu Long,Trụ
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
Pháp…đã tích cực tham gia tiếp tế quân lương ủng hộ nghĩa quân. dân làng
Liên Trì đã chặt tre vang,bốc bùn non bỏ lên mặt đường dựng lũy chiến đấu
từ cầu Thông vào làng để ngăn chặn bước tiến của quân thù.
Hòa mình vào không khí chung của đất nước,của nhân dân Yên
Thành,con cháu họ Phan cũng đã tham gia kháng chiến chống Pháp hết mình.
nhiều thanh niên trai tráng trong dòng họ đã tham gia tòng quân nhập ngũ.
Lòng căm thù không chỉ được thể hiện ở hành động cầm súng đứng dậy cầm
súng chiến đấu với kẻ thù mà còn được thể hiện ở thái độ bất hợp tác với
chúng qua việc làm cụ thể sau của ông Phan Văn Trứ,đời thứ 11,nhánh thứ
của họ Phan. Ông đậu võ cứ,khoa Giáp Tuất ở Thanh Hóa,được bổ dụng làm
đội trưởng đội thủy quân,với nhiệm vụ chuyên chở thóc gạo từ Thanh Hóa
vào kinh thành Huế,một lần năm 1883,thuyền của ông gặp tàu Pháp đánh vào
cửa Thuận An,chúng bắt ông phải đầu hàng. Ông đành phải nhượng bộ nhưng
rồi ban đêm khi trời tối,thuyền ông trốn thoát. Từ đó ông bỏ việc,không làm
quan nữa. tục gọi ông là “ cố đội” thời kỳ thuộc Pháp.
Cũng ở đời thứ 11,có ông Phan Đăng Đề đậu võ cứ cùng cùng lúc với
anh ở khoa Giáp Tuất (1874) ở Thanh Hóa. Sau đó làm chức “điển ty” giữ
kho lương ở Tĩnh Gia (Thanh Hóa ) nhưng bị loạn quân khởi nghĩa Tú
Phương nổi lên chống Pháp (1886),chiếm mất kho,ông bị đình chỉ công tác.
sau xem xét được miễn tội,có lệnh mời ông nhưng mượn cớ tuổi già về hưu
mà không làm quan thời thuộc Pháp nữa. Thái độ bất hợp tác với Pháp chính
là xuất phát từ lòng yêu nước thương dân.
Đặc biệt khi ngọn cờ Cần Vương tung bay trên núi Ấu Sơn (Hương
Sơn),thì phong trào đấu tranh của nhân dân Yên Thành cũng phát triển với
quy mô lớn,có tính chất liên kết với phong trào chống Pháp với cả Nghệ Tĩnh.
Yên Thành là căn cứ địa,là đại bản doanh,là trung tâm của cuộc khởi nghĩa
Nguyễn Xuân Ôn và Lê Bảo Nhã,hay còn gọi là khởi nghĩa Đồng Thông,mét
trong hai cuộc khởi nghĩa lớn của phong trào Cần Vương ở đất Nghệ Tĩnh.
Trên đất Yên Thành còn diễn ra dòn dã nhiều trận đánh ác liệt ở Cơn Vội
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
(Thịnh Thành),Đình Mõ (Hậu Thành ),Đồng Sợi (Liên Thành)nhưng tiêu biểu
nhất là trận là hai trận Trung Thành và Xóm Hố - Đồng Thông.
Trận Tràng Thành xẩy ra vào năm 1887,Tràng Thành nằm trên đường
38,cửa ngõ của căn cứ Đồng Thông,ở đây địch đã đóng 500 quân,có trang bị
liên thanh và súng ống,đạn dược để án ngữ con đường từ Đồng Thông xuống
và khống chế các vùng xung quanh. Nguyễn Xuân Ôn và bộ chỉ huy quyết
định nhổ cắn cứ này. Con em các dòng họ được huy động ở mức độ tối đa để
phục vụ cho trận đánh,hơn 1000 quân được huy động. Tuy chính sử chưa ghi
lại các sự kiện trên nhưng chúng ta có thể tin rằng con cháu họ Phan ở Tràng
Thành đã không làm ngơ trước cảnh quê hương bị giày xéo,đất nước bị xâm
lăng,sự góp sức của họ đã góp một phần làm nên chiến thắng Tràng Thành.
2.2.2. Đầu thế kỷ XX
Kế tục sự nghiệp của các văn thân sỹ phu yêu nước đầu thế kỷ XX,ánh
sáng của các bộ tân văn,tân thư lan tới,các sách của Lương KhảI Siêu,Khang
Hữu Vi,Đàm Tự Đồng …tràn vào,rồi khớ thế cả nước Trung Hoa sôi sục. Sau
cách mạng Tân Hợi (1911) còng vang vọng sang Việt Nam. Cuộc Duy Tân
Minh Trị (1868) ở Nhật Bản đã đưa nước Nhật tiến nhanh,tiến mạnh trên con
đường tư bản chủ nghĩa. Thành quả đó tạo nên sự ngưỡng mộ với Nhật Bản ở
những nhà yêu nước Việt Nam và ảo vọng về sự giúp đỡ của Nhật đối với
chúng ta trên cơ sở đồng chủng,đồng văn. Họ âm thầm bắt liên lạc với nhau
mà người tiêu biểu nhất là Phan Bội Châu. Ông là người hiểu biết sâu rộng và
có tấm lòng yêu nước,thương dân sâu sắc . ễng đã đi khắp nam bắc để thành
lập hội “Duy Tân” và “Việt Nam quang phục hội” để tập hợp lực lượng đánh
Pháp. Ông đã liên hệ với lực lượng còn lại của phong trào Cần Vương,tập hợp
lực lượng phong trào chống thuế ở Nghệ An là Chu Trạc.
Chu Trạc sinh năm 1856 tên thật là Phan Văn Chiểu,xóm Nương Che-
xã Tràng Thành,ông là người có chí khí,đậu cử nhân võ ở Thanh Hóa khoa thi
năm Kỷ Mão (1897). Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan,quê hương bị dày
xéo,ông không ra làm quan mà ở nhà mở cửa hàng bán lâm thổ sản ở chợ
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
Dinh,rồi liên lạc với Đội Quyên và những nhân vật quan trọng trong Phái Am
Xã của hội “Duy Tân”chủ trương sắm vũ khí đánh Pháp. Ông bí mật vận
động nhiều thanh niên yêu nước trong vùng vào tổ chức,riêng ở xã Tràng
Thành có 15 người,trong đó có ông Phan Văn Chiếu,đời thứ 12 của dòng họ
Phan ở Tràng Thành,con của Phan Văn Trứ .
Ngày 26 tháng 2 năm Mậu Thân (1908),Chu Trạc cùng với các cộng sự
của mình làm lễ tế cờ ra quân tại Nương Mạ Su,xóm Che,xã Tràng Thành
trong buổi lễ trang nghiêm,Chu Trạc đã thống thiết đọc lời hiệu triệu “Ai là
khách anh hùng xin hãy chung lưng đấu cật,nước mất còn chỉ ở lúc ni”.
Nhưng rồi cuộc khởi nghĩa đã không diễn ra như dự tính,do một số người
không từ bỏ được lợi Ých cá nhân,bá quay trở lại,làm vỡ kế hoạch đi mua vũ
khí của cả đoàn ở nước Xiêm,còn bộ phận ở nhà do thiêú cảnh giác để kẻ xấu
để biết kế hoạch,mật báo với Pháp. Vào đêm 10/4/1908,chúng bắt ông về
Vinh và kết án 13 năm tù,khi cuộc khởi nghĩa thất bại,ông Phan Văn Chiểu
chuyển sang làm đông y,chữa bệnh cứu người.
Trong thực tế,tình yêu thương dân nước được thể hiên bằng nhiều
cách,có người thì thể hiện bằng thái độ bất hợp tác với Pháp,với triều đình
Huế,từ bá chốn quan trường,nhung gấm để làm một người dân bình thường
như bao người dân bình thường khác,hay cú người thì quay về dạy học cho
con em trong xóm,mặc dù họ đều đậu đạt khoa cử và có tài. Đó chính là cách
thể hiện của của ông Phan Văn Đạm và ông Phan Văn Uông của dòng họ
Đông Thành.
Ông Phan Văn Đạm,đời thứ 16,thuộc nhánh trưởng của dòng họ Phan ở
Đông Thành,đậu tú tài khoa Nhâm Tý (1912) nhưng không ra làm quan,chỉ
đến năm 1921,ông được nhân dân cả huyện Đông Yên,bầu làm hội viên Hội
đồng tư vấn Trung Kỳ (1921-1925),nên ông được gọi là “Hội Đam”,về sau
năm 1943,được thưởng “ Hàn lâm cung phụng”.
Cũng vào đời thứ 16,có ông Phan Văn Uông đậu hai khóa tam trường
(1915-19180, ông giỏi cả van lẫn võ. Về văn ông mở trường dạy chữ nho cho
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
con cháu trong xã,về võ,ông tổ chức dạy võ cho một một số đảng viên Tân
Việt từ 9-11 giờ tối vào hè 1925,cho các học viên như Chu Văn Biên,Phan
Phúc Tường,Nguyễn Đức Nguyên (Hoài Thanh),đây là công việc bí mật thời
Pháp thuộc.
Nói về tấm lòng vì dân vì nước trong thời kỳ này còn phải kẻ đến nhân
vật Phan Khôi. Ông Phan Khôi (1906-1970) cũng là hậu duệ đời thứ 16 tính
từ thủy tổ Phan Vân. Đây là một chi họ thuộc nhánh thứ,định cư ở làng Bắc
An,Yên Nhân. Ông Phan Khôi học ở trường Quốc học ở Vinh,ông dạy học ở
trường tiểu học Pháp – Việt huyện Yên Thành. Năm 1924,ông tham gia nhóm
thanh niên yêu nước gồm các thầy cô giáo Trần Văn Tăng,Nguyễn Trọng
Đầm …,đấu tranh đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và dự lễ truy điệu cụ Phan Chu
Trinh nhõn dịp giỗ đầu của cụ nhưng bị lộ. Tri huyện Yên Thành đưa lính về
giải tán lễ truy điệu,ông cùng các thầy giáo Tăng,Đầm bị cách chức (30,70-
71). Ông vào Sài Gòn dạy tư để kiếm sống,thời kỳ này ông sống cùng với các
chiÕn sỹ cộng sản nhữ Hải Châu,Hải Triều …Từ 1926-1929,khi biết ông có
tư tưởng tiến bộ,không chịu khuất phục trước bộ máy cai trị của chính quyên
thực dân,nhiều lần bọn tay sai đón đường hành hung,ông phải rời Sài Gòn về
làm ruộng.
2.2.3.Giai đoạn 1930-1945
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngay 3/2/1930 là một sự kiện có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Đảng ra đời chấm dứt
sự khủng hoảng về đuường lối cách Việt Nam kéo dài từ thế kỷ XIX,đầu XX.
Kể từ đó Đảng đã lãnh đạo nhõn dân đấu tranh,trải qua nhiều thời kỳ khó
khăn,gian khổ đã giành được những thắng lợi này đến chiến thắng khác.
Trong phong trào cách mạng 1930-1931,với đỉnh cao là phong trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh,nhân dân cả nước đứng lên chống thực dân Pháp giành lại độc lập
cho nước nhà.
Mỗi người có một ví trí khác nhau trong xã hội,nên sự đóng góp của sự
nghiệp cách mạng là khác nhau. Người thì phương diện này người thì phương
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
diện khác. Điều quan trọng là hợp sức của đóng góp đó tạo nên thành công
của cách mạng. Trong giai đoạn này cách mạng này có sự đóng góp công sức
của nhiều cá nhân họ Phan,trong đó có ông PhanVõ,tuy sự đóng góp của ông
gián tiếp nhưng hết sức quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng.
Ông Phan Võ (1889-1962) từ nhỏ nổi tiếng là thần đồng hay chữ. Năm
14 tuổi ông đỗ thứ nhì trong kỳ thi thử ở huyện Yên Thành. Năm 20 tuổi
(1909) ông đỗ Giải Nguyên khoa thi cử nhân trường Nghệ An và sau này đậu
phó bảng trong cuộc thi đình ở Kinh thành Huế. Năm 1928-1931,ông được cử
làm viên ngoại rồi làm lang trung bộ lễ trong triều đình Huế. Năm 1932-1937
ông làm án sát tỉnh Hà Tĩnh. Thời kỳ sau cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930-
1931,Nghệ An và Hà Tĩnh là hai điểm nóng giữa cách mạng và thực dân. Ông
phải đảm đương một trách nhiệm rất nặng nề,nếu theo Pháp đàn áp cách mạng
thì phản bội lại dân tộc,đi trái với đạo lý làm người,nhưng nếu không theo
Pháp mà giúp đỡ cách mạng thì bị bọn Nam triều khép tội. Cuối cùng với tài
trí thông minh và đức độ hơn nguời,ông vẫn làm tròn trách nhiệm được
giao,đồng thời giúp đỡ những người cách mạng họat động trong phong trào
được giữ vững. Theo cuốn sách “Thành Sen 160 năm” do ủy ban nhân dân thị
xã Hà Tĩnh thừa nhận là một trong 6 viên quan có chính tích tốt trong sè quan
lại công tác tại Hà Tĩnh trong 160 năm lập tỉnh. Năm 1943,ông được nhà vua
phong hàm Thượng thư,sau đó ông nghỉ hưu và về quê trí sỹ (lúc đó ông 54
tuổi). Về làng Yên Nhân,ông làm thầy thuốc chữa bệnh cho nhân dân,vì thời
kỳ 1919-1925,ông đã học rất nhiều sách y. Thuốc của ông bán rẻ và hiệu
nghiệm,chữa bệnh khỏi cho nhiều người nên nổi tiếng trong một vùng,là thầy
thuốc giỏi,đức độ nên trong làng ai cũng kính mến. Năm 1946,ông tham gia
ban chấp hành Liên Việt huyện Yên Thành đồng thời làm hội trưởng hội bảo
trợ Trường trung học Lê Doãn Nhã hủyện Yên Thành. Năm 1956,trong cải
cách ruộng đất ông bị quy sai là địa chủ phải đi tù 4 tháng. Sau đó do không
có tội với cách mạng nên được tha. Ông Phan Ngọc đã đưa hai ông bà ra Hà
Nội. Đến Hà Nội ông được Bác Hồ mời đến yết kiến,Bác Hồ bổ nhiệm ông
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
làm giám đốc Vụ Đông Y Bé Y Tế nam1958,vì tuổi cao sức yếu lại bị bệnh
lao tái phát,ông xin nghỉ việc để dưỡng bệnh. Sau khi ra viện,ông có dịch
cuốn “thượng kinh ký sự” của Hải Thượng Lãn Ông và cùng với con là Phan
Ngọc dịch cuốn tiểu thuyết “Truyện Làng Nho” của Ngô Kinh Tử. Cuối 1962
ông mất ở bệnh viện Bạch Mai. Trong cuộc sống ông luôn giản dị,tiết kiệm
như bao người dân bình thường khác,ông luôn là tấm gương sáng cho con
cháu noi theo.
Con trường hợp ông Phan Khôi như đã đề cập ở trước thì lại khác. trước
sự khủng bố gắt gao của kể địch sau phong trào Xô Viết 1930-1931,năm 1933
ông vào Huế làm thư ký đánh máy cho Tòa Khâm. Thời gian này dồng chí
Phan Đăng Lưu từ Bắc vào Nam chuẩn bị khởi nghĩa Nam Kỳ đã ở trong gia
đình ông để tránh mật thám Pháp. Năm 1945,ông tham gia cướp chính quyền ở
Huế,làm chủ ban kháng chiên phường Trung Tính (Huế). Năm 1946,ông rời
Huế và về quê tham gia cách mạng. ĐÓ ghi nhận công lao của ông đối với sự
nghiệp cách mạng,nhà nước Việt Nam đã tặng thưởng ông huân chương kháng
chiên hạng ba và bằng khen do UBND tỉnh Nghệ An tặng năm 1962.
Như vậy trong chiÕn tranh,không nhất thiết là tất cả mọi người dân
đều phải đứng lên cầm sóng ra chiến trường để giết giặc,mặc dù vẫn biết rằng
đó là mặt trận quan trọng nhất có tính quyết định thành bại của cuộc chiến.
Nhưng đó không phải là tất cả,bởi vì kể thù tán ta trên mọi lĩnh vực,mọi mặt
trận. Do vậy,có những người không trực tiếp ra mặt trận mà dùng tài năng,học
vấn của mình truyền đạt cho con cháu lớp sau,động thái đó không ngoài mục
đích vì sự nghiệp cách mạng. Đó chính là trường hợp của ông Phan Lô
(1898-1949),đời thứ 16 của dòng họ Phan ở Đông Thành.
Là người thông minh học giỏi,học chữ nho do cha là Phan Quang dạy
sau đó theo học Pháp- Việt ở trường Quốc học Vinh. Đậu kỳ thi thành chung
năm 1917. Năm 1918-1928,ông dạy trường tiểu học Pháp – Việt huyện Yên
Thành. năm 1929-1932,chuyển về làm hiệu trưởng trưòng Pháp Việt huyện
Yên Thành. Năm 1933-1941,ông được bổ nhiệm làm giáo thụ ở Diễn
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử
Bài tập điều kiện Lịch sử Việt Nam
Châu(phụ trách giáo dục các huyện phía Bác Nghệ An như Quỳng Lưu,Yên
Thành,Diễn Châu,Đô Lương …). Năm 1942-1943,làm đốc học tỉnh Phú
Yên,năm 1944-1945 làm đốc học tỉnh Hà Tĩnh.
Những đóng góp của con cháu họ Phan ở Đông Thành trên nhiều
phương diện đã góp phần tạo nên thắng lợi vẻ vang của cách mạng tháng
Tám.
2.2.4. Giai đoạn 1945-1975
Cách mạng tháng Tám -1945 được ghi vào lịch sử dân téc ta như mét
trong những trang chói lọi nhất đã mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân
tộc,một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người dân Việ Nam. Đó là
thắng lợi của cuộc cách mạng đối với hai kẻ thù là Pháp và Nhật,là sự lật nhào
ngai vàng phong kiến ngót 1000 năm ở nước ta.
Song kẻ thù với dã tâm muốn bóp chết chính quyên còn non trẻ,làm
cho tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám ở vào tình thÕ ngàn cân treo
sợi tóc bởi phải đối phó với một lỳc ba loại giặc: “giặc đói,giặc dốt,giặc ngoại
xâm”,giặc nào cũng nguy hiểm. Điều đó đòi hỏi Đảng ta phải có đối sách cụ
thể,hợp lý để bảo vệ thành quả cách mạng vừa mới đạt được và đẩy nó lên
một tầm cao mới để tiếp tục phát triển và giành thắng lợi.
Mặc dù đã thất bại nhưng thực dân Pháp không dễ gì từ bỏ dã tâm xâm
lược nước ta. Ngày 23/9/1945,chúng nổ súng vào Nam Bộ và chính thức quay
lại xâm lược nước ta một lần nữa. Bằng những hiệp ước ký với Pháp,ta đã có
thời gian hòa hoãn cần thiết để chủ động bước vào cuộc chiến ngày
20/12/1946.
Như vậy,tận hưởng không khí hòa bình chẳng được baolâu thì ta lại
phải đương đầu với hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ kÐo dài và đầy
gian nan vất vả. Sau 30 năm đấu tranh,nước nhà thống nhất,non sông thu về
một mối. Mùa xuân năm1975,toàn dân tộc ngập tràn trong không khí tưng
bừng của ngày hội chiến thắng. Sự kiện đó đánh dấu một mốc trọng đại trong
Phan Thị Mai Phương Líp: K54B Lịch
sử