Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Ngăn ngừa công tác phòng chống buôn bán trẻ em ở xã phú lũng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.92 KB, 19 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nhất là từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, tình hình tội phạm buôn bán người xảy ra ngày càng phức tạp, nghiêm
trọng và có xu hướng gia tăng. Một bộ phận trẻ em bị buôn bán ở trong nước, chủ
yếu từ các vùng nông thôn, miền núi ra thành phố, thị xã để làm gái mại dâm; phần
lớn số còn lại bị buôn bán ra nước ngoài với nhiều hình thức và mục đích khác
nhau. Tệ nạn buôn bán trẻ em đã trở thành vấn đề nóng bỏng, nhức nhối ảnh hưởng
xấu đến đời sống sinh hoạt của xã hội, phong tục tập quán còn lạc hậu, bộn tội
phạm ngày càng tinh vi, cướp đi hạnh phúc của nhiều gia đình, làm tăng nguy cơ
lây nhiễm HIV/AIDS, tiềm ẩn những nhân tố xấu về an ninh quốc gia và trật tự xã
hội, ở trên trái đất này, không ít trong chúng ta bắt gặp những cảnh tượng hết sức
đau lòng; bố mẹ mất con; con cái không được sự chăm sóc của cha mẹ, anh mất
em… Các em nhỏ, chỉ ở độ tuổi ê a, vậy mà đã trở thành hàng hóa để trao đổi mua
bán, số lượng không nhỏ các em phải vật lội với cuộc sống hàng ngày vì không có
người thân, không ít cảnh các em nhỏ phải đi xin từng đồng tiền lẻ của những
người đi đường. Những tia nắng cuộc đời đã chiếu lên làn da non nớt của chúng,
sạm đen và dày hơn. Tự hỏi, trong cuộc sống còn bao nhiêu đứa trẻ như thế nữa, tại
sao chúng lại phải gánh trên vai số phận nghiệt ngã như vậy! Trong khi những đứa
trẻ đồng trang lứa thì đang sống trong bầu không khí đầy ắp tình thương của biết
bao người, còn các em đan lưu lạc ở những phương trời xa lạ, với bao tủi nhục cay
đắng bởi những con người không có trái tim, Chính vì những lý do trên mà em đã
chọn tiểu luận “ Ngăn ngừa công tác phòng chống buôn bán trẻ em ở xã Phú
Lũng” làm bài tình huống “Trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt" của mình. Nghiên
cứu vấn đề này em xin đưa ra vấn đề, nguyên nhân và các giải pháp khắc phục tình
trạng trên. Do khuôn khổ thời gian có hạn và là lần đầu
Bài viết còn nhiều thiếu sót. Kính mong sự góp ý từ phía giáo viên và các thầy cô
bộ môn.
Em xin chân thành cảm ơn!

PHẦN II: NỘI DUNG
1.Mô tả tình huống


Theo công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định: Trẻ em được xác định là
người dưới 18 tuổi trừ khi luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niêm sớm hơn.
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam: Điều 1 quy định: Trẻ
em được hiểu là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2004 thì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hiểu là trẻ em có hoàn cảnh không bình
thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và
hoà nhập với gia đình, cộng đồng. Từ định nghĩa này, Điều 40 đã quy định: "Trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ
rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em
nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất
độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình
dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật".
Nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt:
- Trẻ em lang thang là trẻ em rời bỏ gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và
nơi cư trú không ổn định; trẻ em cùng với gia đình đi lang thang.
- Trẻ em mồ côi là trẻ em dưới 16 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc bị bỏ rơi, bị
mất nguồn nuôi dưỡng và không còn người thân thích ruột thịt (Ông, bà nội ngoại;
bố mẹ nuôi hợp pháp, anh chị) để nương tựa.Trẻ em mồ côi còn được hiểu bao gồm
cả trẻ em dưới 16 tuổi chỉ mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại (mẹ hoặc cha)
mất tích theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để
nuôi dưỡng (như tàn tật nặng, đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại),
không có nguồn nuôi dưỡng và không có người thân thích để nương tựa.
- Trẻ em khuyết tật là trẻ em bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể
hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng
hoạt động, khiến cho sinh hoạt, học tập và lao động gặp nhiều khó khăn.

- Trẻ em lao động.
- Trẻ em phạm pháp.
- Trẻ nghiện ma túy.

- Trẻ em nghèo
Buôn bán người là các hành vi bao gồm: tuyển dụng, vận chuyển, che giấu hoặc
tiếp nhận người bằng cách sử dụng bạo lực hay bằng các hình thức khác như ép
buộc, bắt cóc, lừa gạt, bằng cách sử dụng quyền lực hay lạm dụng hoàn ảnh dễ bị
tổn thương bằng cách đưa hoặc nhận các khoản tiền hay lợi ích để đạt được sự
đồng ý một người có quyền kiểm soát người khác nhằm mục đích bóc lột.( Theo
công ước của Liên Hợp Quốc)
 Buôn bán trẻ em: Hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp luật
nào đưa ra định nghĩa chính thức thế nào là “ buôn bán phụ nữ và trẻ em”. Tuy
nhiên, từ những thông tin tìm hiểu về vấn đề này em xin đưa ra cách hiểu của mình
về buôn bán trẻ em.
Buôn bán trẻ em là hành vi mua và bán vì mục đích tư lợi , hay là việc chuyển
giao phụ nữ, trẻ em từ một người khác nhằm mục đích vụ lợi đổi lấy tiền hay lợi
ích vật chất khác
2.Phân tích nguyên nhân và hậu quả.
2.1 Nguyên nhân
Khi nghiên cứu tình hình buôn bán trẻ em tôi nhận thấy có rất nhiều nguyên
nhân khiến phụ nữ và trẻ em trở thành nạn nhân của vụ việc này. Sau đây tôi xin đề
cập tôi xin đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Ham lợi ích vật chất là yếu tố đầu tiên dẫn đến việc buôn bán phụ nữ và trẻ
em, do cả hai phía: kẻ buôn người và nạn nhân. Kẻ buôn người bất chấp pháp luật
và đạo lý bởi một “hình thức kinh doanh” không mất vốn mà lại thu được số lợi
nhuận quá hời. Nạn nhân, bị hấp dẫn bởi những “chiếc bánh vẽ” ngon lành về lợi
ích kinh tế mà bọn buôn người đưa ra, kết cục là sa vào bẫy của bọn chúng.

- Trình độ dân trí thấp, hạn chế trong việc tiếp cận thông tin, đặc biệt là
thông tin liên quan đến nạn buôn bán người… là những tồn tại phổ biến trong dân
cư vùng sâu vùng xa, thậm chí cả với những đô thị, thành phố lớn nhưng gia đình,
nhà trường chưa có sự quan tâm, giáo dục sát sao về vấn đề này. Nhiều vụ việc xảy
ra với những tình tiết đơn giản đến không ngờ mà nếu như một người có nhận thức,

hiểu biết về vấn đề này sẽ không bao giờ mắc phải. Trên thực tế, các nạn nhân vẫn
bị dỗ ngon, dỗ ngọt bởi các chiêu bài tìm việc làm nhàn hạ nhưng lại có thu nhập
cao. Họ dễ dàng theo đối tượng có khi chỉ quen biết sơ sơ đến những nơi xa lạ để
mong một sự đổi đời.
- Nguyên nhân khách quan
Đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhu cầu và xu hướng di dân tìm
việc làm và thu nhập, nó chứa đựng cả hai yếu tố nói trên. Đói nghèo và thất nghiệp
dẫn đến những ham hố lợi ích vật chất của nạn nhân và thất học dẫn đến sự hạn chế
về nhận thức, hiểu biết. Nạn nhân sống trong tình trạng nghèo đói, không có việc
làm, thiếu kiến thức và giáo dục là những điều kiện thuận lợi cho bọn buôn người
tiếp cận, lôi kéo, dụ dỗ.
- Nguyên nhân chủ quan
Đây là một nguyên nhân quan trọng. Không ít các gia đình mà bố mẹ chỉ biết
chu cấp vật chất đầy đủ cho con cái mà thiếu sự quan tâm, dạy dỗ. Nhiều trường
hợp con bỏ nhà đi mấy ngày bố mẹ mới biết. Những bậc phụ huynh này, có người
vì quá ham kiếm tiền hoặc mải mê với những thú vui ích kỷ mà quên mất rằng con
trẻ, nhất là trong hoàn cảnh xã hội phức tạp như ngày nay, rất cần có sự che chở,
yêu thương, quan tâm, dạy dỗ của bố mẹ. Nhưng cũng có những người vì cuộc
sống quá cơ cực, bần hàn, họ phải lăn lộn để mưu sinh nên không còn thời gian và
sức lực để chăm sóc con cái.
2.2, Hậu quả
Trong những năm gần đây, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, phát triển
kinh tế thị trường đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, làm chuyển biến mọi

mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, việc mở rộng giao
lưu giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng đã làm nảy
sinh những vấn đề mới trong đó có việc buôn bán người, đặmc biệt là buôn bán trẻ
em. Việt Nam được xác định là một trong những địa bàn trọng điểm về mua bán
người. Giới tội phạm lợi dụng mọi hoàn cảnh để đưa người đi di cư trái phép, môi
giới làm con nuôi, xuất khẩu lao động Thủ đoạn hoạt động của bọn chúng là lợi

dụng số trẻ em ở nông thôn nghèo có trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh kinh tế khó
khăn, thất nghiệp, thiếu việc làm bằng những lời đường mật, như hứa tìm việc
làm thích hợp nhẹ nhàng ở thành phố, khu đô thị với mức lương ổn định sau đó tìm
mọi cách để bán cho chủ lao động.
Những năm qua, đặc biệt gần đây, Nhà nước ta đã ban hành, sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện nhiều văn bản pháp luật về phòng chống nạn mua bán người, tạo nên
một khung pháp lý tương đối toàn diện như Hiến pháp, Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo
dục trẻ em, Bộ luật Lao động, Luật Bình đẳng Giới, Luật Hình sự, Pháp lệnh
Phòng, chống mại dâm, các nghị quyết, chỉ thị, nghị định, quyết định của Chính
phủ và các bộ ngành chức năng. Tuy nhiên vẫn còn thiếu một văn bản mang tính
pháp lý mạnh mẽ, do vậy Luật Phòng, chống mua bán người nếu được ban hành là
một cam kết pháp lý mạnh mẽ, vững chắc của Nhà nước ta đối với cuộc chiến mua
bán người đang diễn ra rất tinh vi, phức tạp hiện nay.
a. Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người gồm 7 chương 53 điều:
Chương II gồm 10 điều, từ Điều 8 đến Điều 17 với đầy đủ các nội dung cần thiết
nhằm ngăn ngừa nạn mua bán người như : Thông tin, giáo dục, truyền thông - Tư
vấn - Quản lý về an ninh, trật tự - Quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh, dịch
vụ - Lồng ghép nội dung phòng chống mua bán người vào các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, các chương trình phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội -
Phát hiện và tố giác tội phạm - Phát hiện tội phạm về mua bán người thông qua
hoạt động kiểm tra, thanh tra - Phát hiện, ngăn chặn tội phạm về mua bán người
thông qua hoạt động nghiệp vụ phòng, chống tội phạm – Giải quyết tin báo, tố giác

tội phạm về mua bán người hoặc kiến nghị khởi tố vụ án về mua bán người – Khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án về mua bán người
b. Các quyết định pháp luật mạng tính chất phòng ngừa:
*Hiến pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Điều 63: Quy định quyền bình đẳng nam - nữ, nghiêm cấm hành vi buôn
bán phụ nữ và trẻ em.
- Điều 65: Quy định quyền được chăm sóc và bảo vệ của trẻ em.

- Điều 71: Quy định quyền bất khả xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của công dân.
* Luật:
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2002 có nhiều chế định liên quan đến
phòng ngừa các điều kiện, nguyên nhân liên quan đến buôn bán trẻ em. Đó là các
chế định về kết hôn, nhận nuôi con nuôi, chăm sóc nuôi dưỡng con cái và cấp
dưỡng nuôi con nuôi khi cha mẹ ly hôn. Cụ thể:
+ Điều 67: Nghiêm cấm việc lợi dụng nuôi con nuôi.
+ Điều 77: Quy định chặt chẽ thủ tục cho và nhận con nuôi nếu cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thấy nghi ngờ mục đích, động cơ có thể không cho phép nhân
nuôi con nuôi.
- Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em(2004) nhấn mạnh đến việc bảo vệ trẻ em
khỏi các nguy cơ bị lạm dụng tình dục, sức lao động, bắt cóc, mua bán.
* Các chế tài hình sự, dân sự, hành chính
- Hình sự: Luật hình sự ban hành năm 1999 có 2 điều luật áp dụng đối với
hành vi mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em.
+ Điều 199: Tội mua bán phụ nữ.
. Hình phạt chính: Xử phạt giam giữ tối thiểu là 2 năm và tối đa là trung
thân.
. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền từ 5.000.000đ – 50.000.000đ hoặc phạt quản
chế từ 1 năm – 5 năm.

+ Điều 120: Tội mua bán, đánh tráo và chiếm đoạn trẻ em.
- Hình phạt chính: giam giữ tối thiểu là 3 năm đến trung thân.
- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm
các chức vụ, cấm hành nghề. Bị quản chế từ 1- 5 năm.
- Chế tài dân sự, hành chính:
+ Trong Luật dân sự không có quy định riêng về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại liên quan đến buôn bán người. Nhưng theo nguyên tắc chung về bồi
thường thiệt hại: Người nào xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự hoặc tài sản,

quyền lợi của người khác thì phải bồi thường.
Tuy vậy những người buôn bán người sẽ bị áp dụng các chế tài này để bồi
thường thiệt hại cho nạn nhân
+ Chế tài phạt hành chính quy định phạt cảnh cáo, phạt tiền, tước giấy phép
hành nghề, tịch thu phương tiện, trục xuất đối với người nước ngoài.
* Nhà nước ban hành các quy định về bồi thường, tái hòa nhập cộng đồng
cho các nạn nhân bị buôn bán.
- Quyết định về tiếp nhận và hồi hương cho nạn nhân bị buôn bán. Ban hành
tại Quyết định 132/2007/QĐ-TT ngày 30/11/2007 về phê duyệt các đề án của
chương trình.
- Quy định về tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị buôn bán:
+ Quy định tất cả phụ nữ, trẻ em bị buôn bán về địa phương đều được hưởng
các chế độ về hỗ trợ, giáo dục để ổn định cuộc sống và tái hòa nhập cộng đồng.
+ Trợ giúp đối tượng trong việc làm giấy chứng minh thư nhân dân, nhập hộ
khẩu, làm giấy khai sinh cho trẻ đi học và tùy từng đối tượng và khả năng hỗ trợ
của địa phương được xem xét hỗ trợ đất đai canh tác và làm nhà ở, Tùy khả năng
của địa phương mà tổ chức lớp dạy nghề, tạo việc làm cho đối tượng, hỗ trợ họ tiếp
cận các nguồn vốn vay.
Trợ cấp cho nạn nhân trở về kinh phí tái hòa nhập cộng đồng.
3. Xác định mục tiêu xử lý tình huống.

Vấn đề buôn bán phụ nữ trẻ em tại xã nói riêng, trên toàn huyện nói chung
hiện là nỗi nhức nhối đau xót chung của cả nhân loại. Chế độ nô lệ dã man buôn
bán phụ nữ và trẻ em.
Điều đau lòng nhất là Việt Nam hiện đang trở thành điểm nóng của tội phạm
mua bán phụ nữ và trẻ em. Vào tháng 6 năm 2005, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đưa
ra báo cáo rằng Việt Nam là một trong những nước cần chú ý vì có tình trạng buôn
bán phụ nữ và trẻ em Việt Nam sang Trung Quốc để làm thuê, làm công việc mại
dâm, trong năm vừa qua, đã có rất nhiều hội nghị tổ chức tuyền truyền để tìm cách
ngăn chặn nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em.

Trong mấy năm qua đã tích cực triển khai chương trình hành động này và kết
thúc giai đoạn I từ 2004-2006. Tuy nhiên, do phạm vi hoạt động của loại tội phạm
này không gói gọn trong một số Huyện giáp biên, mà dính líu tổ chức xuyên quốc
gia, cũng như tội phạm xuất phát và hầu hết nạn nhân có liên quan từ nhiều xã, cho
nên việc đánh giá tình hình tội phạm và nhận định công tác phòng chống tội phạm
mua bán phụ nữ và trẻ em phải trên phạm vi cả nước, trong đó có sự đóng góp của
các huyện và các xã, số trẻ em bị lừa bán ở lứa tuổi từ 10 đến 16 chiếm đa số ở các
huyện biên giới. So với năm 2005, số vụ buôn bán trẻ em của năm 2006 được phát
hiện nhiều hơn so với các năm khác.
Số trẻ em vắng mặt lâu ngày tại địa phương nghi đã bị bán, cho đến nay, theo
thống kê, có 19 trẻ em được đưa vào danh sách chính thức bị bán sang trung quốc
và 7 trẻ em vắng mặt lâu ngày tại địa phương bị nghi là đã bị bán. Như vậy trên 26
mảnh đời trẻ em Việt Nam đã ghi nhận là nạn nhân của tội ác buôn bán trẻ em, đã
bị vùi chôn nghiệt ngã trong những địa ngục trần gian mà những người có lương tri
không bao giờ có thể tưởng tượng được, Và trong đó bao nhiêu người hiện còn
đang sống với nỗi đọa đày xác thân bị vùi dập ngày đêm làm trò tiêu khiển và mang
lại lợi nhuận cho những loại người không còn nhân tính; bao nhiêu người đang rên
siết trong bệnh hoạn, cô đơn, trong nỗi niềm tuyệt vọng, và bao nhiêu người đã
chết dần mòn trong đớn đau tủi nhục….

Mặc dù phong trào phòng, chống tội phạm buôn bán trẻ em đã được thực
hiện rộng khắp trên phạm vi toàn quốc, nhất là trẻ em ở các vùng có nguy cơ cao đã
được nâng cao, song tình hình hoạt động của tội phạm buôn bán trẻ em vẫn diễn
biến phức tạp. Tính chất và qui mô hoạt động phạm tội có chiều hướng gia tăng, có
tổ chức chặt chẽ và xuyên quốc gia…Bọn tội phạm thường lợi dụng triệt để số trẻ
em ở các vùng nông thôn nghèo, có trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh kinh tế khó
khăn, hứa tìm việc làm thích hợp, nhẹ nhàng ở thành phố, thị xã với mức lương ổn
định, hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt … sau đó tìm mọi cách đưa qua biên giới
bán cho các chủ chứa hoặc các tổ chức tội phạm ở nước ngoài.
Một cách tổng quát, khi nói đến vấn đề buôn bán trẻ, ai cũng bức xúc nghĩ

ngay đến những kẻ tội phạm đã làm những hành vi tội ác vô nhân, và mong muốn
góp phần tìm những phương cách để tiêu diệt, để ngăn chặn nó, để chấm dứt những
bi kịch đau thương trong đó không chỉ nhân phẩm con người bị chà đạp mà cả tính
mạng con người cũng bị rẻ rúng, nhất là đối với trẻ em vô tội. Việc buôn bán trẻ em
đã xảy ra từ cuối những năm 80, nhưng việc này chỉ xảy ra lẻ tẻ ở một vài nơi mà
thôi, mà nguyên nhân của nó bắt nguồn từ sự mở cửa kinh tế, buôn bán dọc theo
biên giới Việt Nam và Trung Quốc. Tại các chợ biên giới do có rất nhiều người từ
Việt Nam sang để làm thuê, chuyển hàng…và những “dịch vụ vui chơi, giải trí” đã
hình thành.
Đó chính là đầu đến của những việc buôn bán trẻ em từ Việt Nam sang
Trung Quốc, Tệ nạn này càng ngày càng phát triển, nhất là Trẻ em Việt Nam bị đưa
ra trung quốc chủ yếu bằng đường bộ qua các tuyến đường biên giới. Tại khu vực
biên giới Trung Quốc, bọn tội phạm chủ yếu “xuất khẩu” người làm gái mại dâm
hay con nuôi, chúng đưa những em gái tuổi vị thành niên sang làm gái mại dâm,
hoặc làm điểm trung chuyển để mang sang nước thứ ba. Đa số các vụ buôn người
đều có “bàn tay” của các đường dây tội phạm xuyên quốc gia, mang lại cho chúng
lợi nhuận khổng lồ, Đau lòng nhất là tình trạng trẻ em bị mua bán để phục vụ tình

dục, Các nạn nhân thường bị bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động và phải đi ăn
xin.
Tại các xã biên giới, vấn đề này đang có chiều hướng gia tăng. Những phụ
nữ trẻ chưa chồng, trình độ học vấn thấp và hầu như không có thông tin đều là
những đối tượng có nguy cơ bị lừa gạt cao, Các nạn nhân thường bị lừa bằng tình
yêu, sang Trung Quốc làm thuê, Hành vi lừa gạt, câu móc của bọn tội phạm rất
tinh vi. Ngoài thủ đoạn dụ dỗ bắt cóc, mua chuộc bọn lừa đảo còn “sáng tạo” ra
những chiêu thức mới như qua hình thức du học, lao động xuất khẩu, du lịch, Nạn
nhân được một nhóm người đến giới thiệu, mời chào đi du học. Em gái này không
phải mất tiền để lo lót “thủ tục” mà còn bị bán cho một nhóm người ở Trung Quốc.
Đau lòng hơn khi một gia đình ở B2 mất cả 2 đứa cháu gái. Mọi chuyện bắt đầu khi
một nhóm người đến giới thiệu là đại diện của một công ty quản đông trung quốc đi

tuyển người đi làm việc trả lương cao. Nhưng một năm trời trôi qua, gia đình
không hề nhận được tin tức của những đứa trẻ này. Chẳng ai biết chúng ở đâu và
cũng chẳng biết công ty nào đã đưa cháu mình đi trung quốc Lo lắng và ân hận,
mọi người đều cứu cạnh khắp nơi, mong nhận được tin tức của con cháu mình.
Qua những tình hình đã nêu thì có thể kết luận, trong vấn đề buôn bán trẻ em tại
Việt Nam hiện nay, mánh lới lường gạt của bọn buôn người rất đa dạng, nhưng chủ
yếu gồm các hình thức: Dùng tiền bạc để lung lạc cha mẹ của nạn nhân. Môi giới
hôn nhân, hay du lịch. Giới thiệu việc làm có thu nhập cao.Lợi dụng tình cảm các
cô gái rồi gạt đem bán.Cưỡng ép dưới nhiều hình thức: cho mượn nợ, hăm dọa…
Bắt cóc: bằng thuốc gây mê rồi chuyển đi, Nạn nhân của những đường dây “buôn
người” này thường tập trung ở nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, các tỉnh
giáp biên giới. Những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm,
gặp cảnh “éo le” về tình cảm, thiếu hiểu biết xã hội, nhẹ dạ cả tin thường là đối
tượng bị chúng dụ dỗ. Với những lời hứa hẹn đường mật. Cũng có những có gái
trẻ, thích hưởng thụ, bị dụ dỗ đi du lịch, tham quan… và rơi vào cảnh ngộ bị bán.
Đau đớn hơn, có những nạn nhân bị chính những người thân của mình lừa gạt đem

đi bán… Và cả những trường hợp vì nhiều lý do, các cô gái tự nguyện chọn lựa con
đường “bán thân” để mong đổi đời theo sự suy nghĩ hạn hẹp của mình, không
lường hết được những sự nguy hiểm, khổ đau cùng cực sẽ xảy ra mà cuối cùng vẫn
không đạt được mục đích kiếm tiền, trái lại còn mất cả tương lai và mạng sống.
Chính vì thế khi đối diện với thực tế, họ không chịu nổi phải tìm cách trốn thoát;
hoặc là trở thành tội phạm buôn bán dẫn đưa người khác đi vào con đường đau khổ
mà mình đã từng là nạn nhân. Đó chẳng qua là tình trạng chung của mọi loại tội
phạm trong xã hội, đã biết là tội lỗi nhưng vẫn nhắm mắt đưa chân.
Những địa điểm nóng nhất, thường xuyên diễn ra các “phi vụ buôn người”
tập trung tại các xã có biên giới giáp với Trung Quốc.
Những địa phương này, có địa hình hiểm trở, nhiều đường mòn, tạo điều kiện cho
những kẻ “buôn người” đưa người qua biên giới trái phép, mà lực lượng biên
phòng và công an rất khó kiểm soát, Sau khi đưa qua biên giới bằng nhiều ngả

đường, họ bị bán, và “sang tay” qua nhiều ông chủ, trải qua nhiều quốc gia, rồi bị
đẩy vào những ổ chứa mại dâm, hoặc bị đưa sâu vào trong lãnh thổ, bán cho những
người có nhu cầu đoạn đẩy phụ nữ, trẻ em hoặc gia đình họ vào con đường sa ngã,
bị lệ thuộc như cho sử dụng ma túy, và sau đó khống chế, cưỡng ép làm theo ý
chúng. Khi nghiên cứu vấn đề buôn bán trẻ em tôi nhận thấy một hiện thực đáng
buồn rằng những người có chức có quyền, những người hoạt động xã hội lại là
những kẻ nhẫn tâm đưa các em mồ côi, có hoàn cảnh đặc điệt đi bán, Cơ quan chức
năng xác định, lãnh đạo trung tâm đã cấu kết với nhiều thành phần trong xã hội,
làm giả hồ sơ trẻ em để bán ra nước ngoài.
Chứng minh tôi chưa bao giờ bỏ thời gian để suy nghĩ về sức mạnh của đồng
tiền vì đối với tôi tiên chỉ là phương tiện sống, nhưng cho tới lúc này tôi thạt sự
cảm thấy rùng mình khi nghĩ tới chúng, tiền có thể cho bạn một cuộc sống no đủ và
cũng có thể cướp đi sinh mạng của rất nhiều con người. Ví dụ một trong những vụ
án táo tợn, manh động và gây nhức nhối dư luận nhất là đường dây chuyên bắt cóc
trẻ em ở xã Phú lũng, huyện Yên Minh. Đến thời điểm này, cơ quan công an đã bắt

được những đối tượng do Ông thào Dũng Sò, quốc tịch Trung Quốc cầm đầu. Để
thực hiện đến cùng ý đồ bắt cóc trẻ em, chúng không từ cả thủ đoạn sát hại những
người có ý định ngăn cản, chống đối. Đường dây buôn bán, bắt cóc trẻ em của thào
Dũng Sò có mối quan hệ chặt chẽ với những đối tượng xấu người Việt Nam sinh
sống ở vùng giáp biên Yên Minh - Trung Quốc. Trước mỗi vụ, các đối tượng đều tổ
chức thám thính, sau đó theo đường tiểu ngạch vượt biên vào giữa đêm khuya. Có
vụ án, chúng đã tàn sát người lớn, cướp trẻ em mang qua biên giới. Khi đã hoàn
thành dã tâm, chúng mang “hàng” đi xa biên giới vài nghìn kilômét mới bán tiếp
cho đường dây khác. Thào Dũng Sò thường chỉ đạo đồng bọn mỗi lần hành động sẽ
chia làm nhiều nhóm tấn công các mục tiêu khác nhau.
Điển hình là vụ án xảy ra tại thôn Xín Chải, Na Pa - huyện Yên Minh. Lợi
dụng đêm khuya, 4 đối tượng bịt kín mặt xông vào nhà anh Thào Nỏ Páo, 26 tuổi,
Sùng Thị Say 25 tuổi, dùng gậy đánh trọng thương vợ chồng anh Páo, cướp đi 2 bé
trai là Thào Mí Mua, 4 tuổi, và Thào Mí Vàng 3 tuổi.

4. Xây dựng, phân tích các phương án xử lý tình huông và lựa chọn
phương án tối ưu để giải quyết tình huống
4.1. Xây dựng, phân tích các phương án xử lý tình huống
Trong những năm qua, chúng ta đã đẩy mạnh việc phòng ngừa, đấu tranh
nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tội phạm buôn bán phụ nữ trẻ em, gắn liền với
công tác phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội. Tại Hội nghị triển khai
chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn
2007-2010, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đã nêu rõ nguy cơ về tình trạng
buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay, đồng thời đề nghị các cấp chính
quyền và các ngành chức năng tăng cường phối hợp để thực hiện tốt chương trình
này trong 3 năm tới. Phó Thủ tướng cũng đề nghị 2 ngành Công an và Bộ đội biên
phòng tăng cường công tác điều tra khảo sát , cập nhật, bổ sung đầy đủ thông tin
vào dữ liệu có liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm buôn bán
phụ nữ, trẻ em ở địa phương và tập trung điều tra, khám phá các vụ án phức tạp

liên quan đến nhiều đối tượng xuyên quốc gia thông qua việc tổ chức các đợt cao
điểm tấn công tội phạm trên dọc các tuyến biên giới. Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ
Công an, cơ quan được giao thường trực Ban Chỉ đạo 130CP, cho rằng cần thực
hiện tốt 2 biện pháp chính: đó là đẩy mạnh công tác truyền thông và đấu tranh trấn
áp tội phạm. Thượng tướng Lê Thế Tiệm nhấn mạnh, từ nay đến 2010, đây là giai
đoạn quyết liệt, Thủ tướng sẽ chỉ thị các cấp, các ngành tập trung triển khai đồng
bộ quyết liệt hơn, trước hết tập trung công tác truyền thông mạnh mẽ để nâng cao ý
thức cảnh giác của người dân trước bọn tội phạm dụ dỗ, lừa phỉnh phụ nữ, trẻ em
đem bán ở nước ngoài. Một số văn bản pháp luật chưa được hoàn thiện, các cơ
quan chức năng sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung trình Quốc hội thông qua Luật về
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em nhằm tạo một hành lang pháp lý cho công
tác đấu tranh có hiệu quả.Để giải quyết tình trạng này, Chính phủ Việt Nam đã có
Quyết định 130 với 4 đề án phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán người
qua biên giới. Theo đó đề án phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ
nữ, trẻ em do BộCông an và Bộ Tư lệnh Biên phòng chủ công thực hiện. Đề án

tuyên truyền, giáo dục cộng đồng về phòng chống tội phạm do Trung ương Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chủ trì.
Việc tiếp nhận những nạn nhân là phụ nữ, trẻ em từ nước ngoài trở về do Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội đảm nhiệm. Công tác xây dựng, hoàn thiện hệ
thống pháp luật liên quan đến việc phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán
phụ nữ, trẻ em do Bộ Tư pháp chủ trì.Ngoài ra hai bộ Tài chính, Kế hoạch và Đầu
tư cũng có trách nhiệm thực hiện những công việc liên quan.
Cùng với lực lượng chức năng, các cấp, các ngành và các hội đoàn thể đã
vào cuộc một cách tích cực phòng chống loại hinh tội phạm nguy hiểm này, bộ đội
biên phòng cùng cơ quan công an tăng cường lực lượng giám sát tại các cửa khẩu
tiếp giáp biên giới… và các đường mòn sang biên giới. Bằng nhiều biện pháp
nghiệp vụ mỗi năm đã phát hiện, điều tra làm rõ nhiều đường dây buôn bán phụ nữ
và trẻ em với số lượng đối tượng phạm tội khá lớn và giải cứu được cho hàng chục

nạn nhân bị buôn bán trở về, phòng chống buôn bán người là việc làm khó khăn để
đấu tranh có hiệu quả, toàn hệ thống các đồn vận động quần chúng trên cơ sở 4
cùng, tận dụng mọi nguồn tin của quần chúng trong đấu tranh chống buôn người,
qua đó quần chúng nhân dân dọc tuyến biên giới đã cung cấp cho bộ đội biên
phòng hàng trăm nguồn tin, có hàng chục nguồn tin liên quan trực tiếp đến buôn
bán phụ nữ , trẻ em . Ngoài ra bộ đội biên phòng cùng cán bộ phụ nữ ở các cơ sở ra
sức tuyên truyền đến các làng bản biên giới, cung cấp nhận dạng những thủ đoạn
của bọn buôn người để nhân dân hiểu, cảnh giác trước những thủ đoạn như: thuê
bán hàng mời du lịch, nhận con nuôi… vẽ ra viễn cảnh bên kia biên giới, thậm chí
lừa, ép các cô gái có hoàn cảnh khó khăn sang biên giới rồi bán cho vào nhà chứa.
- Các báo cáo cho thấy một số xã là những khu vực “nguồn” chính của tội
phạm buôn bán người sang trung quốc, Phụ nữ ở các khu vực này cũng bị bọn môi
giới hôn nhân tiếp cận để lừa bán sang trung quốc.
- Các huyện miền núi phía Bắc như Yên Minh, Đồng văn, Mẻo vàn, Quản
bạ, là những điểm nóng của buôn bán trẻ em.
Từ việc xác nhận những điểm có nguy cơ Đảng và nhà nước đã tăng cường

kiểm tra sát sao và tuyên truyền trong các cấp ủy chính quyền, Hội phụ nữ các cấp
đã chủ động xây dựng triển khai kế hoạch tập trung tuyên truyền ở những địa bàn
trọng điểm; duy trì tốt các câu lạc bộ như câu lạc bộ “ phòng chống buôn bán phụ
nữ trẻ em” , “ bạn giúp bạn” , “ tư vấn truyền thông pháp luật cho phụ nữ”…với nội
dung sinh hoạt phong phú, các nội dung về phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ
em được truyền tải rất đa dạng . Về công tác tiếp nhận nạn nhân, các Sở Lao động
thương binh và xã hội ở các xã có nạn nhân đã chủ động phối hợp với các ngành
chức năng chuẩn bị tốt cơ sở vật chất và các điều kiện khác giúp các nạn nhân bị
lừa bán trở về đoàn tụ gia đình, tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống…
Từ công tác tuyên truyền, đấu tranh trấn áp tội phạm, tiếp nhận nạn nhân, thi
hành chính sách pháp luật và hợp tác quốc tế, có thể nói, công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm ở nước ta đã từng bước phát huy được sức mạnh tổng hợp và phần

nào hạn chế tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên ,nguy cơ trở thành
nạn nhân của tội phạm buôn bán người đối với chị em phụ nữ biên giới là rất lớn và
luôn rình rập họ hàng ngày hàng giờ.Để ngăn chặn triệt để nạn buôn bán người cần
4.2. Lựa chọn phương pháp tối ưu để giải quyết tình huống.
Không thể phủ nhận trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có rất
nhiều nỗ lực và hiện vẫn đang tích cực tiếp tục đề ra những giải pháp nhằm ngăn
chận nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em, nhưng thành thật mà nói, vẫn chưa đạt hiệu quả
cao, trong khi tình hình tội phạm đang có xu hướng phát triển, cụ thể là riêng tại
Campuchia, qua khảo sát, trong số khoảng hơn 18.000 người phục vụ trong lĩnh
vực tình dục, trong số đó có 66% là người Khmer, 33% là người Việt Nam và 1%
là người các nước khác; và sắp tới với chiều hướng mở rộng, trẻ em, phụ nữ có thể
bị đưa sang các nước châu Á, châu Âu, Hoa Kỳ để bán các cơ quan nội tạng, làm
gái mại dâm… thì thời Việt Nam có thể là điểm trung chuyển của loại tội phạm
này. Bọn tội phạm sẽ đưa các đối tượng phụ nữ, trẻ em từ Campuchia, Lào… sang
Việt Nam sau đó chuyển tiếp sang các nước khác.
Để ngăn chặn thực trạng trên cần:
Các cấp ủy, Bộ, ngành, địa phương cần nhận thức rõ công tác phòng chống

buôn bán phụ nữ, trẻ em là nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội quan trọng và cần huy
động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để ngăn chặn, đẩy lùi và xóa bỏ loại tội
phạm này.
Xây dựng và hoàn thiện sớm hệ thống pháp luật về phòng, chống buôn bán
người một cách thống nhất và đồng bộ, trong đó ưu tiên xây dựng Luật Phòng
chống buôn bán người để sớm trình Quốc hội phê duyệt.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành chức năng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác
tuyên truyền, làm cho người dân, nhất là các đối tượng phụ nữ, trẻ em hiểu được
các âm mưu, thủ đoạn của các đối tượng buôn bán người để phòng ngừa, tránh tình
trạng bị rủ rê, lôi kéo và trở thành nạn nhân của nạn buôn bán người. Khi đã phát
hiện các đối tượng, đường dây buôn bán người cần chủ động triệt phá; xử lý

nghiêm minh trước pháp luật nhằm nâng cao tính răn đe. Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội phối hợp cùng các Bộ, ngành hữu quan triển khai xây dựng các cơ
chế, chính sách phù hợp tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán sớm tái hòa nhập
cộng đồng; ổn định cuộc sống; tránh tâm lý mặc cảm…
Pháp luật của Việt Nam cần hoàn thiện để phù hợp hơn nữa với các quy định của Công
ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về
buôn bán người. Ngoài ra Việt Nam còn cần ký kết thêm các hiệp đinh song phương với
các quốc gia trong khu vực. Phương thức thực hiện loại tội phạm này là có tổ chức, chính
vì vậy việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam mà đặc biệt là các quy định trong Bộ luật hình
sự về phòng, chống hoạt động phạm tội có tổ chức là cần thiết và cấp bách trong tình hình
mới của Việt Nam.
Một số kinh nghiệm đáng quan tâm của các nước như năm 2009, Bộ Công an
Trung Quốc đã xây dựng kho lưu trữ dữ liệu ADN của trẻ em cả nước, để có thể
nhanh chóng xác minh thân phận của trẻ em bị buôn bán. Được biết đây là kho dữ
liệu ADN trẻ em đầu tiên được xây dựng trên thế giới. Bộ Công an chỉ thị toàn bộ
cơ quan công an cấp dưới, nếu nhận được tin trình báo trẻ em bị mất tích, bị bắt cóc
hoặc bị buôn bán, phải lập tức tiến hành điều tra. Kho dữ liệu sẽ lấy máu từ cha, mẹ
của nạn nhân bị bắt cóc, bị buôn bán hoặc mất tích để xác định số liệu ADN, tiện so

sánh với số liệu ADN của nạn nhân.
5. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã được lựa chọn
Những địa phương này chưa xác định phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em
là một nhiệm vụ quan trọng và yêu cầu có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cấp
ngành, chính quyền, gia đình, lực lượng công an…, dẫn đến việc thiếu các chương
trình, kế hoạch cụ thể.
- Công tác tuyên truyền còn dàn trải, chưa đủ sức nặng:
Công tác tuyên truyền nhiều khi còn mang tính phong trào, thời vụ; công tác giáo
dục, phổ biến pháp luật còn yếu. Công tác phòng ngừa, đấu tranh đạt kết quả thấp,
chưa tương xứng với các giải pháp đề ra.

- Công tác xác minh, tiếp nhận, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân
bị buôn bán từ nước ngoài trở về còn lúng túng. Các nạn nhân trở về được với gia
đình, địa phương là một may mắn lớn của họ, song khi niềm vui vừa qua đi là nỗi
lo đã ập đến. Họ sẽ làm gì vượt qua những mặc cảm, sự kỳ thị, sẽ làm gì để sinh
sống, để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu.

PHẦN III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trẻ em là những đối tượng dễ bị tổn thương bởi nạn buôn bán người, xét cả
về sức khỏe và tâm lý họ khó có thể hồi phục nếu trở thành nạn nhân của bọn buôn
người. Bởi vậy xã hội cần quan tâm nhiều tới đối tượng này. Khép lại bài viết này
em mong muốn, trên khắp mọi miền tổ quốc sẽ không còn những trường hợp trẻ
em vì nghèo khổ, không hiểu biết…vô tình trở thành nạn nhân của buôn bán người.
Tất cả những em nhỏ đều được vui chơi, học hành và có một tuổi thơ êm đềm.
2. kiến nghị
- Kiến nghị cấp ủy chính địa phương nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội phạm, và nơi cư trú không ổn định, trẻ em lang thang.
Cuối cùng em xin cảm ơn
.

.

MỤC LỤC
PHẦN I MỞ ĐẦU
PHẦN II NỘI DUNG
1 Mô tả tình huống
2 Phân tích nguyên và hiểu quả
2.1 Nguyên nhân
2.2 Hậu quả
3 Xác định mục tiêu xử lý tình huống
4 Xây dựng, phân tích các phương án xử lý tình huống và lựa
chọn phương án tối ưu để giải quyết tình huống
4.1 Xây dựng, phân tích các phương ãn]r lý tình huống
4.2 Lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết tình huống
5 Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã được lựa chọn
PHẦN III Kết luận và kiến nghị
1 Kết luận
2 Kiến nghị


×