Học viện Báo chí – Tuyên truyền
Khoa Phát thanh – Truyền hình
***
BÀI TẬP HỌC TRÌNH I
MÔN: NHẬP MÔN BÁO MẠNG
MỐI QUAN HỆ GIỮA
TRUYỀN HÌNH VÀ BÁO MẠNG
Nhóm thực hiện: Nhóm 5
1. Quách Thị Quỳnh Diệu
2. Lê Sơn Hà
3. Đào Thị Ngân Hà
4. Lý Thị Liên Hà
5. Ngụy Thị PhươngMỐI QUAN HỆ GIỮA
TRUYỀN HÌNH VÀ BÁO MẠNG
Giữa truyền hình và báo mạng tổn tại các mối quan hệ:
- Báo mạng cạnh tranh với truyền hình, trong đó thể hiện ở 3 mặt: cạnh tranh
thông tin, cạnh tranh công chúng và cạnh tranh về quảng cáo.
- Báo mạng tạo hỗ trợ truyền hình về thông tin và quảng bá
A – QUAN HỆ CẠNH TRANH
1. Báo mạng cạnh tranh với truyền hình về đưa thông tin:
Ưu thế đầu tiên của báo điện tử chính là khả năng cập nhật thông tin
nhanh nhạy, cùng với sự phong phú, đa dạng của các thông tin.
Với cùng một thông tin như nhau, nếu là báo hình hoặc báo nói thì phải đợi
đến giờ phát sóng của các bản tin, hay với báo in thì phải chờ công đoạn kiểm
duyệt thông tin, in báo, sau đó phải đợi đến tận ngày phát hành thì thông tin mới
được đến với tay bạn đọc. Trong khi đó, với báo mạng bạn chỉ cần một cái nhấp
chuột, tất cả những thông tin nóng hổi nhất sẽ luôn được cập nhật, gần như cùng
một lúc với sự kiện diễn ra. Hơn nữa, người ta có thể đưa tin trên báo mạng điện tử
bằng bất cứ cách nào: bằng chữ viết, bằng âm thanh, bằng hình ảnh. Sự linh hoạt
đó khiến cho công chúng tiếp cận được với thông tin bằng con đường ngắn nhất và
phù hợp nhất. Trong khi truyền hình bị bó gọn trong âm thanh và hình ảnh, và vì
vậy, thứ nhất: có những thông tin mà truyền hình không thể tiếp cận, thứ hai:
muốn phát được lên sóng phải qua biên tập kỹ lưỡng. Lại một lần nữa, truyền hình
chậm chân hơn báo mạng trong việc đưa tin tức. Cái mà người đọc cần chính là sự
nhanh nhạy trong các thông tin, và báo mạng đã đáp ứng được nhu cầu đó của các
độc giả. Báo điện tử đã tham gia vào đời sống xã hội với tư cách như một cơ quan
đưa tin chuyên nghiệp.
Bên cạnh đó, những thông tin mà báo mạng đưa ra đều được trải rộng trên
mọi lĩnh vực, từ kinh tế – chính trị đến lĩnh vực văn hóa – xã hội hay thể thao, thời
tiết, người đọc có thể tùy chọn theo từng mục đề mà mình thích để đọc báo. Lượng
thông tin mà báo mạng đưa ra không hề thua kém những loại hình báo chí khác về
sự đa dạng, phong phú. Để đối phó với sự đe dọa này của báo mạng, truyền hình đã
tìm cách sản xuất thêm các chương trình mới với sự chuyên biệt về nội dung, tăng
khả năng lựa chọn cho người xem truyền hình.
Mặc dù vậy, trên một số lĩnh vực, truyền hình vẫn khẳng định được thế
mạnh không thể thay thế được của nó. Với sự phát triển của kỹ thuật, những người
làm truyền hình ngày càng thuận lợi hơn khi sản xuất, phát sóng các chương trình
truyền hình trực tiếp
2. Cạnh tranh công chúng giữa truyền hình và báo mạng:
Truyền hình xuất hiện từ đầu thế kỉ XX, và phát triển với một tốc độ như vũ
bão nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Với những ưu thế của mình
truyền hình đã khẳng định được sự vượt trội so với các phương tiện truyền thông
khác. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của báo mạng điện tử thì truyền hình đang phải
đối mặt với rất nhiều thách thức. Một trong những thách thức lớn đối với truyền
hình đó là sự cạnh tranh về độc giả.
Trước đây truyền hình luôn thu hút được nhiều công chúng với nhiều ưu thế:
Thứ nhất là kỹ thuật truyền tín hiệu bằng hình ảnh và âm thanh đến với người
xem, thị giác, thính giác của con người được tác động bởi những hình ảnh chuyển
động và những âm thanh sống động trên màn hình. Điều này khiến cho người xem
như chứng sống trong không gian đó và có mức đột tin cậy cao hơn so với các
phương tiện khác.
Thứ hai: Có khả năng tác động vào tâm lí của người xem thông qua những hình
ảnh và cách dẫn dắt của người dẫn chương trình.
Thứ ba: Tính thời sự
Tính thời sự của truyền hình là ở sự kết hợp giữa hai yếu tố âm thanh và hình ảnh
làm cho người ta thấy tính chân thực của sự kiện, làm cho người xem như đang
đựơc tham gia vào sự kiện ấy. Ví dụ như những chương trình truyền hình trực tiếp,
và những chương trình cầu truyền hình.
Thứ tư: Tính tương tác cao mang tính ưu việt hơn so với báo mạng vì người xem
có thể nhìn thấy được cả hình ảnh của người mà mình đặt câu hỏi, quyên góp, ủng
hộ…
Hạn chế của truyền hình: khả năng lưu trữ thông tin kém và thông tin nhanh
khiến người ta rất chóng quên.
Báo mạng điện tử ra đời đã ứng dụng được những thành tựu tiến bộ của
khoa học – kĩ thuật hiện đại. Nếu như hạn chế của báo truyền hình là khả năng lưu
trữ thông tin kém và thông tin nhanh khiến người xem mau quên thì báo mạng điện
tử đã khắc phục được những hạn chế đó. Chính vì điều này, nên báo mạng điện tử
ra đời đã thu hút một lượng công chúng rất lớn.
Khả năng lưu trữ thông tin là vô tận. Người đọc có thể dễ dàng tìm kiếm
những thông tin cần thiết, sau đó lưu trữ các thông tin đó phục vụ cho mục đích cá
nhân.
Với một chương trình truyền hình người xem phải theo dõi một quá trình
mới đánh giá được chương trình hay hoặc dở thì với một thông tin báo mạng,
người đọc dễ dàng nhận ra thông tin mình có muốn theo dõi hay không chỉ qua
dòng chữ đầu tiên. Với những ưu việt của báo mạng điện tử đã khiến cho loại hình
báo chí này lên ngôi, đồng thời đẩy các ngành báo chí khác rơi vào khủng hoảng
(truyền hình cũng không ngoại lệ).
Với báo hình, tại Mỹ số người xem truyền hình đã giảm 2,5tr chỉ trong vòng
từ năm 2006->2008. Tất nhiên, con số này còn quá nhỏ so với tổng số người xem
truyền hình, nhưng ngay cả những người còn tìm đến với màn hình TV thì thời
lượng xem mỗi ngày cũng giảm đáng kể.
Sự sụt giảm về tỷ lệ xem truyền hình còn lớn hơn trong thanh niên. Tại châu
Âu, một nghiên cứu từ năm 2005 của Hiệp hội Quảng cáo Tương tác châu Âu đã
cho thấy một nửa trong nhóm trẻ từ 15 đến 24 tuổi bớt thời gian xem truyền hình
để quay sang web. Một nghiên cứu từng đăng trên tờ The Guardian của Anh hồi
năm 2007 nổi bật với tiêu đề “Giới trẻ tắt TV để lướt web.” Tình trạng “tắt TV” ở
Mỹ thì khiến cho độ tuổi trung bình của khán giả truyền hình hiện tăng lên tới 50
tuổi. Ở Việt Nam, thói quen xem TV của người Việt vẫn tiếp tục được duy trì ở
mức cao với 98,3% số người được hỏi cho biết TV là phương tiện truyền thông
được ưa chuộng nhất của họ.
Từ số liệu trên cho thấy, truyền hình thế giới đang có xu hướng giảm về tỷ lệ người
xem, trong khi truyền hình tại Việt Nam vẫn chiếm một số lượng rất đông công
chúng. Nguyên nhân của sự khác nhau này chính là bắt nguồn từ việc thu phí các
chương trình truyền hình.
So với tiếp nhận thông tin miễn phí (không phải trả phí đọc tin tức) qua
mạng Internet, người xem truyền hình có thể phải trả một phí khá cao và ngày càng
tăng để được theo dõi các chương trình. Truyền hình trả phí trên thế giới đã xuất
hiện với sự ra đời của truyền hình cáp. Truyền hình cáp CATV (Community
Access Television) bắt đầu hình thành từ những năm 1948 tại Pennsylvania -Mỹ.
Đây là khu vực miền núi nơi sóng mặt đất không thể bao phủ tới được. Để cung
cấp tín hiệu cho các khu vực thung lũng thì John Walson đã nghĩ ra giải pháp đặt
các bộ antena trên các đỉnh núi cao, sau đó tín hiệu được đưa đến vào bộ lưu trữ và
truyền đến các hộ gia đình thông qua hệ thống khuếch đại và cáp đồng trục. Đây có
thể coi là hệ thống cáp đầu tiên trên thế giới. Để xem được các chương trình này
người dân bắt buộc phải trả cho nhà cung cấp khoảng 2 đô la trên một tháng hoặc
là 100 đô la trọn gói. Sau đó, sự kiện đánh dấu sự phát triển vượt bậc của
truyền hình trả tiền là sự phát triển của truyền hình vệ tinh và các chương
trình truyền hình trả tiền. Đầu những năm 1970 truyền hình vệ tinh bắt đầu xuất
hiện, tuy nhiên khởi nguồn của sự phát triển này bắt đầu từ những năm 1957 khi
Nga phóng thành công tên lửa Sputnik I. Cùng với sự phát triển của công nghệ vụ
trụ thì tới năm 1976 chương trình truyền hình đầu tiên đã ứng dụng công nghệ vệ
tinh để quảng bá tín hiệu tới người xem. Truyền hình trả tiền bắt đầu xuất hiện
tháng 10/1972 khi Service Electric cung cấp chương trình HBO (Home Box
Office) trên mạng cáp ở Wilkes-Barre, Pennsylvania. Đây là chương trình truyền
hình trả tiền đầu tiên trên thế giới thành công khi áp dụng trên mạng truyền hình
cáp. Mặc dù trong buổi tối đầu tiên chỉ có vài trăm người xem nhưng HBO vẫn
được đánh giá sẽ trở thành dịch vụ truyền hình trả tiền lớn nhất thế giới. Với sự
thành công của HBO đã mở đường cho sự phát triển các chương trình truyền hình
trả tiền truyền hình sau này.
Còn ở Việt Nam, Truyền hình có thu phí bắt đầu xuất hiện từ năm 1993, với
sự ra đời của Công ty Truyền hình cáp Saigontourist (SCTV – liên doanh giữa Đài
Truyền hình Việt Nam và Tổng công ty Du lịch Sài Gòn). Và đến ngày
01/11/2004, VCTV mới triển khai truyền hình số vệ tinh DTH và chính thức phát
sóng trên phạm vi toàn quốc. Vậy là lịch sử truyền hình thu phí ở nước ta còn chưa
đầy 20 năm, so với 63 năm truyền hình trả phí trên thế giới (mà điển hình là Mỹ)
thì truyền hình thu phí Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu phát triển. Gần đây sự
phát triển được đánh dấu bằng sự ra đời của hàng loạt các hệ truyền hình trả phí tư
nhân mới: K+, MyTV. Theo đà thương mại hóa, trong tương lai chắc chắn truyền
hình Việt Nam sẽ gặp phải những khó khăn tương tự như với truyền hình thế giới
Trong tương lai gần báo mạng điện tử lại ngày càng phát triển với những ưu
thế của nó khẳng định tính vượt trội và sự cạnh tranh với các loại hình báo chí
khác. Theo dự án nghiên cứu của Net index về tỷ lệ người sử dụng Internet tại 4
thành phố: Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM và Cần Thơ. Kết quả cho thấy: Đọc tin tức
vẫn là hoạt động trực tuyến phổ biến nhất, chiếm 97%, tiếp theo là truy cập vào các
cổng thông tin điện tử với tỷ lệ 96% người tham gia. Số người truy cập vào mạng
xã hội tăng mạnh từ 41% ( 2010) lên 55% (2011), đặc biệt giới trẻ chiếm tỷ lệ cao
nhất. Nhóm tuổi 15-19 chiếm 73% người tham gia, trong khi đó chỉ chiếm 18% là
trong nhóm tuổi 40- 54.
Tất cả những lý do trên đòi hỏi truyền hình cần phải có một sự cải tiến đáng
kể để có thể giữ được vị trí trong lòng của công chúng. Hiện nay, truyền hình đang
có xu hướng xã hội hóa (xã hội hóa về quảng cáo và sản xuất chương trình truyền
hình…).
3. Cạnh tranh về quảng cáo trên truyền hình và báo mạng:
Quảng cáo trực tuyến ra đời - cũng như các loại hình quảng cáo khác, quảng
cáo trên mạng nhằm cung cấp thông tin, đẩy nhanh tiến độ giao dịch giữa người
mua và người bán. Nhưng quảng cáo trên Web nói chung, trên báo mạng nói riêng,
khác hẳn quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, nó giúp người
tiêu dùng có thể tương tác với quảng cáo. Khách hàng có thể nhấn vào quảng
cáo để lấy thông tin hoặc mua sản phẩm cùng mẫu mã trên quảng cáo đó, thậm chí
họ còn có thể mua cả sản phẩm từ các quảng cáo online trên Website.
Nếu so sánh giữa quảng cáo trên truyền hình và quảng cáo trên báo mạng, ta
có thể thấy nhiều điểm quảng cáo trực tuyến thu hút các nhà quảng cáo và thương
mại hơn:
Đề mục Báo mạng Truyền hình
Chi phí quảng
cáo (phụ lục 1)
Chi phí thấp
Chi phí rất cao, có thể là:
150.000.000VND/phút
Thời gian
quảng cáo
Thời gian quảng cáo dài: Tính
theo tuần, tháng, quý, năm
Thời gian quảng cáo ngắn:
Chỉ tính theo phút, giây
Phạm vi quảng
cáo
Toàn thế giới nơi có kết nối
Internet.
Toàn quốc nơi có phủ sóng
truyền hình.
Người xem
quảng cáo
Tập trung, đúng đối tượng
Phân tán, số lượng đông,
nhưng phần nhiều không quan
tâm đến quảng cáo vì họ
không có nhu cầu, họ xem để
giải trí.
Thời điểm xem
quảng cáo
Bất kỳ thời điểm nào trong ngày,
truy cập vào website là thấy
quảng cáo
Cố định tại thời điểm phát
sóng, theo chương trình lên
lịch trước
Tính chủ động
khi xem quảng
cáo
Xem quảng cáo tự nguyện và
chủ động, khả năng giao dịch
thành công sẽ cao
Xem quảng cáo bị động, có
thể gây phản cảm, khán giả
thường chuyển kênh khi đến
quảng cáo
Lượng thông
tin truyền tải
Thông tin về sản phẩm, dịch vụ,
thương hiệu, năng lực truyền tải
nhiều, không giới hạn
Thông tin bị giới hạn do thời
gian và chi phí
Hình thức
truyền tải thông
tin
Phong phú: Bài viết, hình ảnh,
video clip, âm thanh, đường link,
file đính kèm, có thể gửi catalog
Hạn chế: Hình ảnh, âm thanh
Hình thức liên
hệ ngoài điện
thoại, Fax và
liên hệ trực tiếp
Có thêm các phương thức liên hệ
qua email, tin nhắn riêng, Yahoo
Messenger, Voice chat
Không có
Xu hướng mới
Chuyển sang làm việc trên máy
tính và mạng Internet nhiều hơn
Mạng Internet đang dần thay
thế truyền hình, xu hướng
quảng cáo cũng như vậy
Hậu quảng cáo
Thông tin vẫn có thể được lưu lại
lâu dài và dễ dàng tìm thấy bởi
Google
Thông tin không được phát lại
trừ khi ký hợp đồng và thanh
toán chi phí quảng cáo mới
Thực tế, cơ quan dự báo Magna Global đưa ra con số 12,2% dự đoán về tốc độ
tăng trưởng doanh thu từ quảng cáo trực tuyến trong năm 2013. Trong báo cáo
cũng chỉ ra:
- Quảng cáo trên video, trên TV sẽ vẫn tiếp tục thống trị trong thế giới truyền
thông mặc dù mảng quảng cáo trực tuyến có tốc độ tăng trưởng khá nhanh.
Doanh thu từ quảng cáo qua TV sẽ chiếm khoảng 40% tổng doanh thu của
toàn ngành và sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 7,5% cho đến hết
năm 2016.
- Doanh thu từ quảng cáo trực tuyến sẽ vượt qua mảng báo in và trở thành lĩnh
vực thu hút chi tiêu quảng cáo lớn thứ 2 vào năm 2013 với doanh thu đạt
khoảng 117 tỷ USD.
(Magna Global là cơ quan thuộc tập đoàn tư vấn đầu tư IPG, chuyên theo dõi và
nghiên cứu chiến lược trong lĩnh vực truyền thông, đưa ra các dự báo ngắn hạn và
dài hạn.)
Nhìn vào đó ta thấy rằng, lĩnh vực truyền hình đối mặt với một tương lai còn
tồi tệ hơn báo in. Nhắc lại rằng, bởi ảnh hưởng của thương mại hóa trong đó tác
động lên cả lĩnh vực báo chí, nguồn thu từ quảng cáo chiếm một tỷ lệ rất lớn so với
các nguồn thu khác của báo chí. Điều đó cũng đúng cả ở Việt Nam, khi báo chí
đang dần tách khỏi bao cấp của Nhà nước để tự nuôi sống mình. Với đà này, các
nhà dự báo chỉ ra rằng: trong 5 đến 10 năm nữa, lĩnh vực truyền hình sẽ trong tình
trạng tương tự như báo in hiện nay. Điều này đặt ra sức ép rất lớn, buộc truyền
hình nếu muốn tồn tại phải tìm ra cách thay đổi, thu hút quảng cáo quay trở lại với
mình.
“Nhiều người nghĩ rằng nghĩ rằng lĩnh vực truyền hình sẽ còn bị giáng một
đòn mạnh hơn của báo in, bởi nội dung quảng cáo video số ở một đẳng cấp cao
hơn hẳn. Nói cách khác, nếu ai nắm được quyền phân phối qua internet và áp dụng
nó vào việc phân phối video, thì ngay cả bầu trời cũng trở thành chật h•p đối với
họ. Các công ty truyền hình không thể làm được việc đó vì nó sẽ thu h•p việc kinh
doanh của họ, như những gì web đã làm đối với các tờ báo. Nhưng nếu họ cố gắng
đi ngược lại xu hướng chung và trốn tránh web, điều đó sẽ còn giết chết họ nhanh
chóng hơn.” Điều này đưa đến một xu hướng mới: Truyền hình trực tuyến.
B – QUAN HỆ HỖ TRỢ
1. Báo mạng đem lại cơ hội quảng bá cho truyền hình:
Internet đặt ra những thách thức cạnh tranh song cũng mang đến những cơ
hội cho các đài phát thanh truyền hình. Các nghiên cứu cho thấy, có một số người
vừa vào Internet vừa xem TV cùng một lúc. Nắm bắt nhu cầu đó, không ít đài
truyền hình đã lập ra những trang điện tử và phát lại những chương trình truyền
hình đã lên sóng trên đó.
Trên thế giới, nhiều hãng truyền hình lớn đã đẩy các chương trình trên đài
truyền hình lên trang điện tử của đài truyền hình đó. Có thể kể đến truyền hình
CNN của Mỹ. Hầu hết các tin được đăng trên cnn.com đều dưới dạng video. Dưới
đây là chuyên mục Video trên trang này.
Là một kênh truyền hình chuyên về tin tức nên những thông tin được đăng
trên cnn.com cũng đều là tin tức. Mỗi tin là một video và cứ mỗi bản tin kết thúc là
lại tự động đến một bản tin khác. Và ở góc phải màn hình chính là các bản tin tiếp
sau đó. Đi kèm với tên của bản tin là thời lượng của bản tin ấy.
Ở Việt Nam, các đài truyền hình cũng đã có hình thức phát lại chương trình
đã lên sóng lên trang điện tử của Đài. Điển hình là Đài truyền hình Việt Nam.
Trong chuyên mục VTV Online là nơi lưu trữ và phát lại gần như đầy đủ các
chương trình truyền hình của đài.
Trên chuyên trang này, VTV lưu trữ đầy đủ các chương vào các chuyên mục khác
nhau. Đó là các chuyên mục:
- Thời sự
- Phim tài liệu
- Game show
- Talk show
- Ca nhạc
- Thể thao
- Công nghệ
- Dạy học trên truyền hình
- Clip hài.
Cách sắp xếp này giúp khán giả dễ dàng lựa chọn thông tin, chương trình mà họ
quan tâm. Trong đó chương trình Thời sự luôn được đặt ở vị trí đầu tiên khi khán
giả click chuột vào chuyên trang VTV Online. Bởi lẽ đây là một chương trình có
sức thu hút rất lớn và gần như đã trở thành thương hiệu của Đài truyền hình Việt
Nam.
Vtc.com.vn cũng là một trang web phát sóng trực tiếp các chương trình
truyền hình của truyền hình Việt Nam, truyền hình Kỹ thuật số.
Giao diện trên của vtc.com.vn cho thấy, trang báo mạng này cho đăng trực tuyến
các chương trình trên truyền hình, giúp người xem thuận tiện trong việc theo dõi
chương trình ở mọi lúc mọi nơi.
Tuy nhiên cách quảng bá cho truyền hình dưới hình thức này ở các đài phát
thanh truyền hình các tỉnh còn yếu. Trên trang điện tử của các đài này còn nghèo
nàn về nội dung và không có sự hấp dẫn đối với người xem. Có những tỉnh đã đưa
chuyên mục Truyền hình online trên trang nhất nhưng khi click chuột vào thì
không tìm thấy trang yêu cầu. Có thể ví dụ ra đây trang điện tử của Đài Phát thanh
- Truyền hình Bắc Giang
Chuyên mục Truyền hình online đã bắt đầu xuất hiện trên trang chủ nhưng
khi người xem click chuột vào thì không thấy hiện ra kết quả. Điều này cho thấy ở
các đài địa phương việc quảng bá truyền hình lên báo mạng còn khá yếu. Tuy
nhiên sự xuất hiện của chuyên mục Truyền hình online cũng đã cho thấy, sự quảng
bá truyền hình trên báo mạng chỉ là việc sớm chiều của các đài truyền hình địa
phương. Và điều này sẽ trở thành điều tất yếu trong sự phát triển chung của truyền
hình.
Cũng là đài truyền hình địa phương nhưng có những đài đã bắt đầu quảng bá
chương trình truyền hình trên trang mạng. Có thể kể đến trang điện tử của Đài Phát
thanh - Truyền hình Bình Dương và Đài Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên.
Các clip của các chương trình khác cũng được đăng ở các vị trí khác nhau trên trang điện tử
của hai tờ báo này.
Truyền hình có thể quảng cáo cho các chương trình của mình với những tin tức và
thông tin về lịch phát sóng trực tuyến. Cách làm này sẽ giúp người xem tiện theo
dõi lịch phát sóng chương trình và chủ động trong việc lựa chọn chương trình cá
nhân muốn xem. Hơn nữa, khi đăng lịch phát sóng các chương trình cũng là một
cách để quảng bá về các chương trình truyền hình.
Có một số tờ báo mạng điện tử đã kết hợp với các đài truyền hình và đăng lịch phát
sóng của các đài này. Có thể kể đến vtc.com.vn:
Lịch phát sóng của một số kênh truyền hình được đăng trên trang vtc.com.vn.
Ngoài ra, Đài Trung ương và Địa phương cũng đăng lịch phát sóng của đài mình.
Ví dụ: Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh Truyền hình Bắc Giang, Đài
Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên, Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Dương,
Đài Phát thanh - Truyền hình Hải Dương
Lịch phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam được đăng trên trang vtv.com
Lịch phát sóng chương trình truyền hình Hải Dương được đăng trên trang điện tử của Đài PT –
TH Hải Dương.
Cùng là đăng lịch phát sóng của đài truyền hình nhưng cách làm của Đài truyền
hình Việt Nam tạo sự thuận lợi cho bạn đọc khi tiếp nhận thông tin hơn so với một
số đài tỉnh. Bởi cách đăng của Truyền hình Việt Nam rành mạch và tạo sự chủ
động cho người xem. Trong khi đó cách đăng của đài Phát thanh - Truyền hình Hải
Dương lại theo hình thức chạy chữ chậm. Điều này tạo cảm giác khó chịu cho
người theo dõi và biến họ thành những người bị động.
Đăng lại các chương trình truyền hình, phát trực tuyến và đăng lịch phát sóng các
chương trình truyền hình lên trang mạng là các hình thức quảng bá của các đài
truyền hình Trung ương và địa phương.Tuy chưa phổ biến và phá triển mạnh ở cá
địa phương do điều kiện trang thiết bị, cơ sở vật chất nhưng đây là một xu hướng
tất yếu của truyền hình để tồn tại, phát triển và cạnh tranh với các loại hình báo chí
khác.
2. Báo mạng cung cấp hình ảnh (video) cho truyền hình:
Trong quá trình thu thập thông tin, có rất nhiều trường hợp phóng viên không
thể có mặt đúng lúc diễn ra sự kiện, sự việc để đưa tin tới công chúng, nhất là
những sự việc xảy ra bất ngờ. Trong tình huống đó, việc nhiều loại hình báo chí
vào cuộc chỉ sau khi đã tiếp nhận, tham khảo thông tin đó từ một loại hình báo chí
khác là chuyện bình thường.
Giữa truyền hình và báo mạng cũng đôi khi nảy sinh mối quan hệ như vậy. Với
đặc tính đa phương tiện, báo mạng cho phép đưa thông tin bằng nhiều con đường
khác nhau, trong đó có đưa tin bằng hình ảnh động (video) – giống với cách của
truyền hình. Vì vậy, trên lý thuyết, truyền hình có thể lấy video từ báo mạng và sử
dụng như nguồn tư liệu để tạo thành sản phẩm truyền hình, khi hai bên có thỏa
thuận.
Thực tế khảo sát trên báo mạng ở Việt Nam cho thấy, hầu hết các trang đều xây
dựng cho mình một mục riêng chuyên đăng tải các video clip do phóng viên của
tòa soạn thực hiện:
Mục Video của VnExpress
Mục Clip của Laodong, có cả những clip do độc giả quay và gửi đến tòa soạn
báo mạng
Không những thế, một vài trang báo mạng đã thực sự đầu tư, và có hẳn một phụ
trang dành cho các video clip được tổ chức rất chuyên nghiệp
Phụ trang Truyền hình của Vietnamnet, được tổ chức thành các chuyên mục: “Mỗi
ngày một chuyện”, “Đẹp 7 ngày”, “Du lịch”, “Sao không sáng”… Với cách sản
xuất ngày càng chuyên nghiệp hơn
Tuy nhiên tình trạng này diễn ra không nhiều. Do hạn chế về tốc độ đường
truyền, độ phân giải cho file video thông thường trên nhiều tờ báo mạng điện tử
Việt Nam là 320x240 pixel, độ nén 416 kb/s cho chất lượng hình ảnh ở mức trung
bình. Nếu so với yêu cầu của hình ảnh dùng cho truyền hình thì còn có khoảng
cách quá xa. Để vượt được truyền hình, phần chất lượng hình ảnh video trên báo
mạng điện tử còn cần phải cải thiện nhiều, ít nhất phải ngang bằng với truyền hình
phát sóng analog.
PHỤ LỤC
GIÁ QUẢNG CÁO TRÊN ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM.