Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích hoạt động kinh doanh của HSBC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.81 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM
MÔN TÀI TRỢ NGOẠI THƯƠNG
VÀ TÍN DỤNG QUỐC TẾ
LỚP T03
NHÓM 10
GVHD: THẦY HỒ TRUNG BỬU
LỜI NÓI ĐẦU
Các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt nam luôn là một bộ phận quan trọng trong
hệ thống ngân hàng Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi nước ta đang tăng
cường hội nhập với thế giới. Trong đó phải kể đến tập đoàn HSBC, một trong những tổ
chức dịch vụ tài chính và ngân hàng lớn nhất trên thế giới với các chi nhánh tại châu Âu,
châu Á Thái Bình Dương, châu Mỹ, Trung Đông và châu Phi. HSBC định vị thương hiệu
của mình thông qua thông điệp "Ngân hàng toàn cầu am hiểu địa phương". Với trụ sở
chính tại Luân Đôn, HSBC có văn phòng tại 87 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tổng giá trị tài
sản của tập đoàn là 2.691 tỉ đô la Mỹ tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2011.
Trong bài phân tích này, nhóm chúng tôi xin trình bày một cách khái quát về hoạt động
của ngân hàng HSBC ở thị trường Mỹ và Việt Nam trong những năm gần đây.
NHÓM THỰC HIỆN
1. MÔI TRƯỜNG KINH DOANH VÀ ĐẶC THÙ HOẠT ĐỘNG CỦA HSBC
TẠI THỊ TRƯỜNG MỸ
1.1. MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
1.1.1. YẾU TỐ PHÁP LUẬT
Hoạt động của HSBC tại Mỹ bị chi phối bởi rất nhiều luật, đạo luật và các quy định
khác nhau.
HSBC USA Inc được thành lập theo Luật của tiểu bang Maryland năm 1973 và hoạt
động tuân theo “By-Laws of HSBC USA INC”.
Ngân hàng HSBC Mỹ, NA(HSBC Bank USA, National Association) là công ty con
chính của HSBC USA Inc, trụ sở chính nằm ở McLean, bang Virginia và văn phòng hoạt
động chính đặt tại thành phố NewYork, và hơn 470 chi nhánh ngân hàng trên khắp nước
Mỹ. Ngân hàng HSBC Mỹ phải tuân theo điều lệ của Luật ngân hàng nước Mỹ.
Ngoài ra còn rất nhiều đạo luật và các quy định, cả trong nước và ngoài nước Mỹ như:


Đạo luật tham nhũng nước ngoài, Các quy định của các định chế tài chính, Đạo luật kiểm
soát lãi suất, Đạo luật Gramm-Leach-Bliley(1999), Đạo luật Truth-in-Lending, Đạo luật tái
đầu tư công (the Community Reinvestment Act of 1977), Luật yêu nước Mỹ (The USA
Patriot Act), Đạo luật báo cáo tín dụng trung thực (The Fair Credit Reporting Act), Luật bí
mật ngân hàng (the Bank Secrecy Act) và Luật cho vay nặng lãi ở liên bang và các tiểu
bang khác nhau. Ngoài ra, còn có các luật và các quy định áp dụng chung, chẳng hạn như:
Luật chứng khoán (1933), The Bank Holding Company Act of 1956, The Securities
Exchange Act of 1934, the Credit Card Accountability Responsibility and Disclosure Act of
2009.
Cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2010 đã dẫn đến những thay đổi lớn trong hệ thống
pháp luật Mỹ. Ngày 21 tháng 7 năm 2010, Tổng thống Obama đã ký chính thức thông qua
Đạo luật Cải cách tài chính phố Wall và Bảo vệ người tiêu dùng (the “Dodd-Frank Wall
Street Reform and Consumer Protection Act” gọi tắt là Đạo luật Dodd-Frank). Đạo luật đã
đề cập và điều chỉnh đến hầu hết các vấn đề trọng yếu của thị trường tài chính tại Mỹ, bao
gồm cấu trúc hệ thống giám sát, mối quan hệ của các cơ quan giám sát, các trung gian tài
chính, sản phẩm dịch vụ tài chính và bảo vệ người gửi tiền, người sử dụng dịch vụ tài
chính… và thành lập “Quy tắc Volcker” để giới hạn các hoạt động giao dịch độc quyền của
các ngân hàng lớn. Đạo luật đã tác động mạnh mẽ và toàn diện đến HSBC USA Inc, buộc
ngân hàng này phải thận trọng hơn trong các hoạt động kinh doanh của mình.
Mới đây, cơ quan Tài chính Nhà đất Liên bang Mỹ (FHFA) ngày 2/9 ra thông báo cho
biết sẽ phát đơn kiện 17 ngân hàng lớn, trong đó có HSBC. FHFA cho rằng các ngân hàng
lớn đã vi phạm luật chứng khoán liên bang và luật chung trong việc bán các chứng khoán
đảm bảo bằng tài sản thế chấp, vì đã gộp các khoản thế chấp và bán cho các nhà đầu tư
trong đó có cả các công ty bảo đảm thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac trong vụ bong
bóng bất động sản.
1.1.2. YẾU TỔ KINH TẾ
Kinh tế Mỹ đang vượt qua giai đoạn khó khăn và có những dấu hiệu cho thấy nền kinh
tế lớn nhất thế giới sẽ đạt tốc độ tăng trưởng tích cực trong năm 2011. Kết thúc năm tài
khóa 2010, GDP của Mỹ là 14.700 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 2,9% , mức tăng cao nhất
trong 5 năm gần đây. Chi tiêu của các hộ gia đình, lĩnh vực chiếm 70% nền kinh tế, có mức

tăng trưởng 4,4% so với cùng kỳ năm 2009, là mức tăng cao nhất kể từ quý 1/2006. Chi
tiêu nhiều đồng nghĩa với tín dụng tiêu dùng tăng, là cơ hội cho các ngân hàng với mạng
lưới rộng khắp. Đồng thời nhiều công ty sẽ mạnh bạo hơn trong vay vốn để sản xuất, tuy
nhiên, ngân hàng phải duyệt hồ sơ chặt chẽ hạn chế những khoản nợ xấu làm ảnh hưởng
nguồn vốn.
Theo thống kê, có hơn 8 triệu người Mỹ mất việc làm trong cuộc suy thoái kinh tế kéo
dài từ cuối năm 2007 đến giữa năm 2009. Mặc dù năm 2010 tình hình có tốt hơn nhưng tỷ
lệ thất nghiệp ở Mỹ vẫn cao. Điều này cho thấy những bất ổn còn tồn tại trong nền kinh tế,
tiêu dùng tăng chủ yếu nhờ gói kích cầu của Chính phủ. Về lâu dài khi tác dụng của kích
cầu giảm đi, rất có thể kinh tế lại rơi vào suy thoái.
Nền kinh tế Mỹ có nhiều khởi sắc nhưng không đồng nghĩa mọi ngân hàng đều kinh
doanh thuận lợi. Trong năm 2010, một số ngân hàng lớn của Mỹ đã hồi phục sau khi nhận
được tiền hỗ trợ của chính phủ và bắt đầu làm ăn có lãi, phần lớn nhờ vào chính sách lãi
suất gần bằng 0% do Cục Dự trữ Liên bang (FED) áp dụng. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng
nhỏ sụp đổ do không huy động được thêm vốn, song lại phải đương đầu với khoản lỗ ngày
càng nhiều do khách hàng không trả được tiền vay. Các ngân hàng bị đóng cửa trong năm
2010 có tổng giá trị tài sản vượt 92 tỷ USD khiến quỹ bảo hiểm tiền gửi của FDIC giảm
gần 26 tỷ USD. Số lượng ngân hàng đóng cửa lên đến con số kỷ lục là 157. HSBC ở Mỹ
tuy công bố lợi nhuận sau thuế đạt 1564 triệu USD nhưng cũng đối mặt với nhiều khó
khăn.
1.1.3. YẾU TỐ CÔNG NGHỆ
Công nghệ ngân hàng tại Mỹ đã được áp từ rất lâu và ngày càng phát triển mạnh mẽ, mở ra
nhiều hướng mới đa dạng và phong phú. Điển hình như ở New York, một hệ thống ngân
hàng công nghệ cao của Citigroup tại đó khách hàng có thể tiếp xúc trực tiếp với dịch vụ
khách hàng 24/24h thông qua một cửa sổ video chat và 6 màn hình tương tác hoạt động
bằng cảm ứng. Từ những khu vực giao dịch truyền thống, Citigroup đã phát triển hệ thống
giao dịch trực tuyến có thể kết nối qua điện thoại và máy tính. Tại ngân hàng này, bạn có
thể tiến hành mọi giao dịch của mình mà không cần một thứ giấy tờ gì.
1.1.4. YẾU TỐ VĂN HÓA – XÃ HỘI
Mỹ là một quốc gia phát triển với ngành ngân hàng xuất hiện từ rất sớm. Các dịch vụ ngân

hàng đã trở nên rất quen thuộc với người dân. Giới doanh nhân Mỹ chú trọng đẩy mạnh
đầu tư, không để nguồn vốn nhàn rỗi. Nền văn hóa Mỹ cũng là nền văn hóa tiêu dùng, sẵn
sàng chi mạnh tay cho các nhu cầu, kể cả không thiết yếu. Mức thu nhập cao và hệ thống
quản lý thông tin hiện đại phục vụ thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các dịch vụ ngân hàng.
Một người dân Mỹ có công ăn việc làm ổn định có thể mua trả góp bất cứ thứ gì, kể cả nhà
cửa, xe hơi. Thẻ tín dụng trở thành vật bất ly thân của hầu hết mỗi người.
1.2. ĐẶC THÙ KINH DOANH
1.2.1. CÁC LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
Thị trường của HSBC tại Mỹ chia làm năm mảng rõ rệt. Đó là: dịch vụ tài chính cá
nhân, dịch vụ ngân hàng thương mại, dịch vụ thị trường và ngân hàng toàn cầu, private
banking và các dịch vụ khác.
Dịch vụ tài chính cá nhân
Kể từ năm 2011, HSBC tại Mỹ đã đổi tên dịch vụ tài chính cá nhân (Personal Financial
Services) thành mảng kinh doanh Ngân hàng bán lẻ và quản lý tài sản ("RBWM"). Chiến
lược chủ yếu của HSBC về mảng này gồm:
- HSBC Premier, dịch vụ ngân hàng toàn cầu của HSBC cung cấp cho khách hàng có nhu
cầu giao dịch quốc tế thông qua mạng lưới toàn cầu của HSBC cùng với một phí bảo hiểm
và đội ngũ tư vấn chuyên nghiệp.
- Tạo mối quan hệ bền vững với khách hàng dựa trên uy tín và sự lớn mạnh của ngân hàng
cùng sản phẩm đa dạng. Ngân hàng bán lẻ và quản lý tài sản ("RBWM") cung cấp nhiều
dịch vụ gồm cho vay cá nhân, thẻ tín dụng, tiền gửi và dịch vụ quản lý tài sản chẳng hạn
như các quỹ tương hỗ, đầu tư và bảo hiểm.
Trong năm 2011, HSBC tiếp tục tập trung nguồn lực theo hướng mở rộng các dịch vụ
HSBC Premier, cung cấp cho khách hàng một dịch vụ xuyên suốt toàn cầu. Ngoài ra ngân
hàng cũng chú trọng cho vay để mua nhà ở theo chương trình tài trợ của Chính phủ.
Dịch vụ ngân hàng thương mại (CMB)
Phân khúc ngân hàng thương mại phục vụ ba nhóm khách hàng, chủ yếu hướng tới thị
trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngân hàng kinh doanh và bất động sản thương mại.
Chiến lược kinh doanh của HSBC trong phân khúc này là dẫn đầu về lĩnh vực ngân hàng
quốc tế tại các thị trường mục tiêu. Tại Mỹ, CMB hướng đến các công ty có nhu cầu ngày

càng tăng về nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Với kinh
nghiệm và mạng lưới chi nhánh toàn cầu; CMB cung cấp các sản phẩm và dịch vụ, hỗ trợ
và tư vấn cho các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô trong và ngoài nước Mỹ, đa dạng
hóa các loại hình kinh doanh. CMB đưa ra các giải pháp tài chính linh hoạt nhằm giải
quyết nhu cầu thiếu hụt tiền mặt của các doanh nghiệp và áp dụng chương trình cho vay
SBA (Small Business Administration) đối với các doanh nghiệp nhỏ, mới phát triển, có ít
tài sản thế chấp nhưng phải có bảo lãnh Chính phủ.
Hiện nay, việc kinh doanh bất động sản thương mại chủ yếu tập trung vào chất lượng
giao dịch và quản lý danh mục vốn đầu tư. Theo báo cáo quý 2/2011 của HSBC USA, do
thu nhập hoạt động giảm, chi phí cho vay thấp hơn và chi phí hoạt động tăng làm lợi nhuận
trước thuế của phân khúc CMB giảm 74 triệu USD (chiếm 30,3%).
Dịch vụ thị trường và ngân hàng toàn cầu

×