Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Hoạt động chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm hình sự của kiểm sát viên”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.14 KB, 28 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề tài: “ Hoạt động chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm
hình sự của Kiểm sát viên”
Địa điểm thực tập: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN LỘC HÀ
Sinh viên thực hiện: Hồ Văn Đức
MSSV: 1055021984
Lớp: 51B3 Chính trị – Luật
Vinh, tháng 4 năm 2014
1
MỤC LỤC
A. Mở đầu: 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Mục đích nghiên cứu đề tài: 6
3. Phạm vi nghiên cứu 6
4. Phương pháp nghiên cứu 6
5. Bố cục đề tài 6
B. Nội dung báo cáo 7
Chương I: Nghiên cứu hồ sơ vụ án 7
1.1. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án 7
1.2. Nghiên cứu các thủ tục tố tụng của hồ sơ vụ án 11
1.3. Xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, gặp bị cáo, thủ tục rút gọn và
nghiên cứu hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát cấp trên tiến hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra 12
1.4. Trường hợp tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung 13
1.5. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử của tòa án 15
1.5.1. Kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử 15
1.5.2. Kiểm sát việc áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp


ngăn chặn 16
1.5.3. Kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử 16
1.5.4. Kiểm sát việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án 17
1.5.5. Kiểm sát việc giao quyết định của tòa án…………………… 18
Chương II: Báo cáo với lãnh đạo viện
2.1. Nội dung báo cáo……………………………………………………18
2.1.1 Về hình thức……………………………………………………… 18
2.1.2 Về nội dung……………………………………………………… 18
2.1.3 Đề xuất áp dụng pháp luật…………………………………………19
2
2.1.4 Đề xuất đường lối giải quyết vụ án……………………………… 19
2.2 Rút truy tố trước khi mở phiên tòa………………………………… 21
Chương III: Xây dựng đề cương xét hỏi, luận tội, tranh luận tại phiên tòa… 22
3.1.Xây dựng đề cương xét hỏi………………………………………… 22
3.2. Xây dựng bản thảo luận tội………………………………………….23
3.3. Cơ cấu của luận tội…………………… ……………………… 24
Chương IV: Dự kiến những vấn đề cần tranh luận tại phiên tòa…………….27
C. Kết luận …………………………………………………………………… 28
D. Tài liệu tham khảo …………………………………………………………33
3
A. M U
1. Lớ do chn ti:
Vin kim sỏt nhõn dõn (VKSND) núi chung, VKSND huyn Lc H núi
riờng cú chc nng thc hnh quyn cụng t v kim sỏt cỏc hot ng t phỏp
trờn a bn theo quy nh ca Hin phỏp v phỏp lut. VKSND huyn Lc H
cú tr s t xó Thch Bng - huyn Lc H tnh H Tnh, vi c cu t chc
gm 1 Vin trng, 2 phú vin trng v 09 cỏn b, Kim sỏt viờn cụng tỏc ti
cỏc b phn nghip v nh: Hỡnh s; dõn s; thi hnh ỏn hỡnh s, thi hnh ỏn dõn
s, vn phũng, khiu t
Viện KSND huyện Lộc Hà đợc thành lập tháng 3/2007( quyết định số: 09/

QĐ- VKS TC ngày 16/3/2007 của Viện KSND Tối cao).Đến tháng 8/2007 mới
chính thức đợc các liên ngành cấp tỉnh giao nhiệm vụ thực hiện các hoạt động
theo chức năng, nhiệm vụ. Trong phm vi chc nng ca mỡnh, VKSND huyn
Lc H cú nhim v gúp phn bo v phỏp ch xó hi ch ngha, bo v ch
xó hi ch ngha v quyn lm ch ca nhõn dõn, bo v ti sn ca Nh nc,
ca tp th, bo v tớnh mng, sc kho, ti sn, t do, danh d v nhõn phm
ca cụng dõn, bo m mi hnh vi xõm phm li ớch ca Nh nc, ca tp
th, quyn v li ớch hp phỏp ca cụng dõn u phi c x lý theo phỏp lut.
Trong nhng nm qua tỡnh hỡnh phm ti trờn a bn huyn Lc H din bin
ht sc phc tp; cỏc loi ti phm v xõm phm quyn s hu; sc khe, ti
phm v ma tỳy din ra thng xuyờn v cú chiu hng gia tng ũi hi liờn
ngnh t phỏp huyn Lc H cn cú s phi hp cht ch gii quyt tt nhim
v ca mỡnh, bo v trt t an ton xó hi.
Chc nng, nhim v ca VKSND huyn Lc H c thc hin thụng qua
nhng cụng tỏc sau õy:
1. Thc hnh quyn cụng t v kim sỏt vic tuõn theo phỏp lut trong
vic iu tra cỏc v ỏn hỡnh s ca cỏc c quan iu tra thuc Cụng an huyn v
cỏc c quan khỏc c giao nhim v tin hnh mt s hot ng iu tra nh:
B i Biờn phũng, Hi quan, Kim lõm trờn a bn huyn;
4
2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc xét xử các vụ án hình sự của Toà án nhân dân huyện;
3. Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật của Toà
án nhân dân huyện; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án,
quyết định của Toà án nhân dân huyện; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
4. VKSND huyện có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời các khiếu
nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các
hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật. Có trách

nhiệm tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội phạm do các cơ quan, tổ chức, đơn vị
vũ trang nhân dân và cá nhân chuyển đến. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng khác của huyện có trách nhiệm phối hợp
với VKSND huyện trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND huyện có quyền ra
quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật
về các văn bản đó. VKSND huyện có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan Toà
án, Công an, Thanh tra, Tư pháp, các cơ quan khác của Nhà nước, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các đơn vị vũ trang nhân
dân ở địa phương để phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời,
nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp;
tuyên truyền, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.
Với điều kiện là một huyện mới thành lập vẫn còn đó những khó khăn nhất
định. Tuy nhiên tập thể cán bộ Viện kiểm sát huyện Lộc Hà đã cùng nhau cố
gắng thực hiện tốt trách nhiệm được giao được các cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương và Viện kiểm sát cấp trên đánh giá cao.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
5
- Nắm vững những công việc mà một Kiểm sát viên phải thực hiện khi
chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm hình sự.
- Nâng cao năng lực và kỹ năng luận tội, tranh luận, nâng cao trách nhiệm
cá nhân trong việc nghiên cứu hồ sơ, báo cáo án và chuẩn bị cho hoạt động tranh
tụng tại phiên tòa.
3. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian : Báo cáo tiến hành nghiên cứu hoạt động chuẩn bị tham
gia phiên tòa sơ thẩm hình sự của các Kiểm sát viên trong Viện kiểm sát huyện
lộc hà.
- Về thời gian: Báo cáo phân tích công việc chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ
thẩm hình sự của các Kiểm sát viên trong giai đoạn 2007-2010.

- Về nội dung: Nghiên cứu các hoạt động của một Kiểm sát viên khi tham
gia phiên tòa sơ thẩm hình sự, đảm bảo chất lượng công việc của một Kiểm sát
viên khi tham gia phiên tòa với tư cách là người thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên tòa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
5. Bố cuc bài báo cáo:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề báo
cáo gồm có 4 chương:
CHƯƠNG I: Nghiên cứu hồ sơ vụ án
CHƯƠNG II: Báo cáo án với Lãnh đạo viện
CHƯƠNG III: Xây dựng đề cương xét hỏi, dự thảo luận tội, tranh luận tại
phiên tòa
CHƯƠNG IV: Dự kiến những vấn đề cần tranh luận tại phiên tòa
B. NỘI DUNG BÁO CÁO
Chương I: Nghiên cứu hồ sơ vụ án.
1.1.Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án.
6
Nghiên cứu hồ sơ vụ án là nhiệm vụ trọng tâm của Kiểm sát viên khi
được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự. Việc nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm vững nội dung vụ án sẽ bảo đảm cho Kiểm
sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa.
Nếu không nắm vững hồ sơ, không nắm vững được các chứng cứ buộc tội
các tình tiết có liên quan đến vụ án thì khi luận tội và tranh luận không buộc tội
được bị cáo hoặc buộc tội bị cáo một cách gượng ép, kém thuyết phục.Không
nghiên cứu kỹ hồ sơ trước khi tham gia phiên tòa là việc làm thiếu trách nhiệm
và thường dẫn đến tình trạng lúng túng, bị động.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án đòi hỏi Kiểm sát viên phải có phương pháp
nghiên cứu một cách khoa học, có thể sử dụng những phương pháp như: Phương
pháp toàn diện; phương pháp hệ thống lôgic; phương pháp so sánh tổng hợp;

phương pháp trích cứu hồ sơ Những phương pháp này đòi hỏi các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, không được phiến diện, chủ
quan. Phải biết hệ thống các tài liệu chứng cứ để chứng minh sự kiện phạm tội.
Trên cơ sở đó so sánh tổng hợp, xác định các tình tiết khách quan của vụ án, loại
trừ những tình tiết không lôgic, mâu thuẫn.
Khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên phải ghi chép, trích cứu những tài
liệu quan trọng được sử dụng làm chứng cứ buộc tội. Đối với những lời khai của
bị can, bị hại, người làm chứng phải lược ghi những nội dung chính; việc ghi
chép này giúp Kiểm sát viên tham gia phiên toà trực tiếp nghiên cứu toàn bộ hồ
sơ của vụ án để nắm vững: nội dung vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo; các
chứng cứ buộc tội, gỡ tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
các yêu cầu về bồi thường thiệt hại hoặc trách nhiệm dân sự (nếu có) trong vụ
án; phân tích đánh giá tổng hợp vụ án; áp dụng các điều, khoản của Bộ luật hình
sự, Bộ luật dân sự để chuẩn bị thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại
phiên toà.
Việc ghi chép này giúp Kiểm sát viên củng cố và nắm chắc thêm nội dung
của vụ án và là cơ sở đấu tranh với bị cáo khi họ có thái độ khai báo không
7
thành khẩn, quanh co chối tội tại phiên tòa. Tài liệu ghi chép, cần phải sắp xếp
khoa học theo từng tập, có viện dẫn bút lục trong hồ sơ để dễ tìm khi cần thiết.
Tránh tình trạng không ghi chép, chỉ sao chụp (photocoppy) lại các văn bản lời
khai, vì như vậy sẽ dẫn đến thiếu chủ động, lúng túng; nhất là khi gặp bị cáo
hoặc luật sư đưa ra những lý lẽ trái ngược với lời buộc tội của Kiểm sát viên.
Đối với những chứng cứ quan trọng như Biên bản khám nghiệm hiện trường, kết
luận giám định v.v cần phải sao chép, photocoppy đẻ sử dụng tại phiên tòa, vì
những tài liệu này khi viện dẫn cần phải chính xác.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đẻ chuẩn bị cho việc thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử, Kiểm sát hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải trích cứu đầy đủ,
trung thực lời khai của bị can, của những người tham gia tố tụng và các tài liệu,
chứng cứ liên quan đến vụ án. Kiểm sát viên phải nghiên cứu toàn diện vụ án.

Các tài liệu, chứng cứ (buộc tội hoặc gỡ tội) đều có mối quan hệ hữu cơ với
nhau. Do vậy, không thể xem xét các tài liệu một cách biệt lập, tách rời.
Kiểm sát viên cần phân loại tài liệu theo tập (nhóm) hợp lý phù hợp với
chủ đề nghiên cứu theo một trật tự nhất định. Kiểm sát viên cần hệ thống các tài
liệu, chứng cứ chứng minh các sự kiện phạm tội, qua đó bằng hoạt động tư duy
có thể dựng lại được toàn bộ vụ án diễn ra trong thực tiễn. Thông thường có thể
phân thành các tập: Tập về thủ tục tố tụng; tập về kết quả khám nghiệm; tập về ý
kiến của những nhà chuyên môn, kỹ thuật; tập về biên bản ghi lời khai; các tài
liệu kết thúc điều tra; các tài liệu về nhân thân bị can; các tài liệu về thu giữ vật
chứng, kê biên…
Hồ sơ vụ án gồm nhiều tài liệu như các tài liệu về lời khai của bị can,
người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi v.v. trong đó có tài liệu mâu thuẫn với nhau như các lời khai của
người làm chứng mâu thuẫn với các lời khai của bị can hoặc lời khai của bị can
mâu thuẫn với các tài liệu khác như biên bản khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi v.v Khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Kiểm sát
viên cần đối chiếu, so sánh để loại trừ những nội dung không hợp lý, chắt lọc
các nội dung hợp lý để phân tích, đánh giá một cách tổng hợp về các tình tiết
8
của vụ án. Điều đó đòi hỏi Kiểm sát viên không những nghiên cứu một cách
toàn diện, mà còn phải so sánh, tổng hợp để xác định các tình tiết có thực của vụ
án, loại trừ những tình tiết không có thực của vụ án.
Kiểm sát viên có thể kiểm tra các tài liệu, chứng cứ trong các trường hợp
cần thiết, nhằm xác định rõ các mâu thuẫn mà qua nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát
viên đã phát hiện được. Để có quan điểm đánh giá chính xác về vụ án và trên cơ
sở đó có biện pháp xử lý vụ án đúng với các quy định của pháp luật, Kiểm sát
viên cần tổng hợp, phân tích, đánh giá về vụ án. Khi tổng hợp đánh giá cần chú
ý các nội dung sau:
- Đánh giá khái quát về thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm, diễn biến
hành vi phạm tội của các bị can, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của của

hành vi phạm tội. Trên cơ sở hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra và các tài liệu
khác, Kiểm sát viên cần tổng hợp, đánh giá, phân tích toàn bộ vụ án, tiến hành
hệ thống các chứng cứ buộc tội và các chứng cứ gỡ tội.
- Các chứng cứ buộc tội gồm có lời khai nhận tội của bị can, lời khai
người làm chứng về các tình tiết liên quan đến hành vi của bị can, nhân thân bị
can, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng, giám định chuyên môn, giám định
pháp y, kết quả xác minh của Cơ quan điều tra và của Kiểm sát viên… có giá trị
chứng minh hành vi của bị can là hành vi phạm tội. Đây là các căn cứ hết sức
quan trọng khẳng định tính có căn cứ của hành vi phạm tội của bị can, đồng
thời, đây là cơ sở pháp lý để Kiểm sát viên tiến hành tranh luận, đối đáp với bị
cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.
- Các chứng cứ gỡ tội là các chứng cứ chứng minh bị can không phạm tội
hoặc phạm tội nhẹ hơn so với tội phạm đã bị khởi tố, điều tra. Ngoài ra, chứng
cứ gỡ tội còn thể hiện các tài liệu đã thu thập có nhiều mâu thuẫn, nhưng không
được giải quyết, như các lời khai của bị can, người làm chứng mâu thuẫn với
nhau, hoặc lời khai đó không phù hợp với hiện trường. Kiểm sát viên phải hệ
thống và nắm chắc các mâu thuẫn này để giải quyết.
9
- Kiểm sát viên phải tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để khẳng
định các nội dung cơ bản như: Vụ án có bao nhiêu bị can hành vi của các bị can
phạm tội gì, cần áp dụng điểm, khoản, điều nào của BLHS, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, các chứng cứ buộc tội, các chứng cứ gỡ tội. Trên cơ sở đó, đề
xuất xử lý vụ án theo theo quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS.
- Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử những vụ án trọng
điểm, phức tạp của Viện kiểm sát cấp huyện, thì Viện kiểm sát cấp huyện phải
thông báo cho Viện kiểm sát cấp tỉnh; những vụ án trọng điểm, phức tạp của
Viện kiểm sát cấp tỉnh thì Viện kiểm sát cấp tỉnh phải báo cáo Vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự hoặc Viện thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm khu vực biết để cử Kiểm sát viên theo dõi,
nghiên cứu nắm vững hồ sơ vụ án nhằm phục vụ cho công tác thực hành quyền

công tố và kiểm sát xét xử.
- Khi cần thiết Kiểm sát viên đến xem xét tại chỗ đối với những vật chứng
không thể đưa đến phiên toà được; xem xét nơi xảy ra tội phạm hoặc những địa
điểm khác có liên quan đến vụ án; gặp bị cáo để hỏi cung đối với những trường
hợp: Vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất, vụ án có bị cáo mà Kiểm sát viên đề nghị xử phạt tù chung
thân hoặc tử hình, lời khai của các bị cáo trong vụ án có mâu thuẫn, bị cáo kêu
oan hoặc những trường hợp Viện kiểm sát thấy cần thiết.
- Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện tổ
chức thực nghiệm điều tra bằng cách cho dựng lại hiện trường diễn lại hành vi,
tình huống. Khi thấy cần có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để chuẩn bị cho việc thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử,Kiểm sát viên phải đặc biệt chú ý phát hiện những thiếu sót,
những mâu thuẫn trong các lời khai, các tài liệu buộc tội, gỡ tội đẻ có biện pháp
khắc phục kịp thời. Đối với những vụ án có bị can là người chưa thành niên
phạm tội, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, có bị can bị truy tố về
tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình,cần kiểm tra xem Cơ quan
10
điều tra, Viện kiểm sát đã yêu cầu Đoàn luật sư hoặc Uỷ ban mặt trận tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử người bào chữa cho bị can hay
chưa? Nếu trong giai đoạn điều tra, kiểm sát điều tra chưa có người bào chữa
cho bị can thì Kiểm sát viên phải báo cáo Lãnh đạo Viện xem xét quyết định
khắc phục ngay.
1.2. Nghiên cứu các thủ tục tố tụng của hồ sơ vụ án.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nghiên cứu, kiểm
tra thủ tục giao nhận hồ sơ vụ án và vật chứng của vụ án, kiểm tra các quyết
định tố tụng, hành vi tố tụng, các tài liệu về thân nhân bị can. Kiểm tra tính hợp
pháp của các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, tính có căn cứ và hợp pháp của
các quyết định và hành vi này.
Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ các tài liệu chứng cứ của hồ sơ vụ án

như bản kiết luận điều tra; biên bản hỏi cung bị can; lời khai của những người
tham gia tố tụng; biên bản đối chất, nhận dạng; biên bản khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi; biên bản thực nghiệm điều tra; biên bản khám xét,
thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm; nghiên cứu các kết
luận giám định; các quyết định xử lý vụ án của Cơ quan điều tra; nghiên cứu giải
quyết định khiếu nại, tố cáo, các dư luận xã hội về vụ án.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra phải được đánh số theo
trật tự nhất định. Từng trang tài liệu trong các hồ sơ này phải được đóng dấu bút
lục của Cơ quan điều tra và kèm theo bản kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài
liệu và lưu trong hồ sơ vụ án. Kiểm sát viên phải kiểm tra từng trang, tập hồ sơ,
đối chiếu với bảng kê tài liệu có trong hồ sơ để quyết định nhận hay không nhận
hồ sơ. Nếu phát hiện hồ sơ thiếu bút lục thì phải trả hồ sơ để yêu cầu cơ quan
điều tra khắc phục. Nếu đủ và đúng thì nhận và vào sổ thụ lý và ghi ngày nhận hồ
sơ vào bìa hồ sơ.
1.3. Xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, gặp bị cáo, thủ tục rút gọn và
nghiên cứu hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát cấp trên tiến hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra.
11
Đối với những vụ án phức tạp, cần phải phúc cung bị can, hoặc hỏi lại
người làm chứng, bi hại, hoặc cần phải xem xét hiện trường nơi xảy ra vụ án,
xem xét lại vật chứng, dấu vết, Kiểm sát viên cần chủ động kiểm tra kỹ lưỡng
trước khi tham gia phiên tòa.
Để chuẩn bị thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa,
Kiểm sát viên có thể đến xem xét tại chỗ đối với những vật chứng không thể đưa
đến phiên tòa được, xem xét nơi xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm có liên
quan đến vụ án; phúc cung đối với bị cáo trong trường hợp có bị cáo là người
chưa thành niên, bị cáo có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, bị cáo dự kiến
đề nghị hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, bị cáo kêu oan, bị cáo có lời khai
còn nhiều mâu thuẫn
Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên báo cáo Lãnh Đạo Viện cho tổ chức

dựng lại hiện trường, đối chất, vẽ sơ đồ hiện trường; tất cả mọi hoạt đọng của
Kiểm sát viên phải được lập thành biên bản theo quy định tại Điều 95
BLTTHS.
Đối với những vụ án điều tra, truy tố theo thủ tục rút gọn, trong khi nghiên
cứu hồ sơ Kiểm sát viên cần chú ý kiểm sát những căn cứ cho phép để áp dụng
thủ tục rút gọn và thời hạn điều tra – truy tố - xét xử đối với vụ án được áp dụng
theo thủ tục rút gọn.
Nếu phát hiện thấy không có đủ căn cứ như đã quy định thì Kiểm sát viên
phải kịp thời báo cáo với lãnh đạo viện đẻ có ý kiến với Tòa án không xét xử
theo thủ tục rút gọn mà tiến hành xử theo thủ tục chung.
Đối với những vụ án do Viện kiểm sát cấp trên ủy quyền thực hàn quyền
công tố và kiểm sát xét xử, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cần lưu ý: Nếu có quan
điểm truy tố khác với quan điểm của Viện kiểm sát cấp trên (tội danh, điều luật
áp dụng, diện truy tố ) thì Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo với Lanh Đạo
Viện kiểm sát cấp mình để báo cáo lên Viện kiển sát cấp trên xem xét quyết định.
Cần chú ý đảm bảo thời hạn hồ sơ ở Viện kiểm sát. Thời hạn giao cáo trạng
1.4. Trường hợp Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung.
12
Khi Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu
kỹ các nội dung Toà án yêu cầu điều tra bổ sung, xác định căn cứ Toà án trả lại
hồ sơ để điều tra bổ sung. Xem xét lại các tài liệu có trong hồ sơ để xác định
những yêu cầu của Toà án đã được phản ánh trong hồ sơ như thế nào? Các yêu
cầu đó đã đúng với tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quy định của BLHS,
BLTTHS hay không?
Kiểm sát viên cần kiểm tra tính hợp pháp của quyết định trả hồ sơ điều tra
bổ sung. Căn cứ Điều 179 BLTTHS thì Thẩm quyền ban hành quyết định trả hồ
sơ phải là Thẩm phán chủ toạ phiên toà; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
phải nêu rõ thuộc trường hợp cụ thể nào quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều
179 BLTTHS và những vấn đề cụ thể cần điều trả bổ sung.
Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung

của Tòa án, nếu xác định việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là
không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện về nội dung quyết định
trả hồ sơ; phân tích sự thiếu căn cứ và không hợp pháp của quyết định này
(chứng minh bằng hồ sơ vụ án và các quy định của BLTTHS) hoặc xác định rõ
các yêu cầu của Toà án là không thể thực hiện được hoặc xác định rõ vấn đề Toà
án yêu cầu hoàn toàn có thể làm rõ tại phiên toà và Kiểm sát viên đề xuất hướng
giải quyết là: Chuyển lại hồ sơ cho Toà án, tiếp tục đề nghị truy tố. Nếu lãnh đạo
đồng ý thì Kiểm sát viên lập văn bản trả lời Toà án, trong đó nêu rõ lý do giữ
nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra xét xử
theo quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTHS.
Nếu xác định việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là có căn cứ
thì Kiểm sát viên phải báo cáo với lãnh đạo Viện hoặc lãnh đạo đơn vị nghiệp vụ,
đồng thời đề xuất rõ hướng bổ sung chứng cứ theo yêu cầu của Toà án theo một
trong những cách sau đây:
- Nếu những yêu cầu điều tra bổ sung không quá phức tạp và Viện kiểm
sát có thể tiến hành được theo quy định của BLTTHS, Quy chế nghiệp vụ của
ngành thì Kiểm sát viên đề xuất không phải trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra mà
13
Viện kiểm sát tự mình bổ sung chứng cứ. Nếu Lãnh đạo viện đồng ý với phương
án này thì Kiểm sát viên phải lập kế hoạch cụ thể để tiến hành việc bổ sung
chứng cứ và thông qua Lãnh đạo đơn vị phê duyệt (cần thiết thì xin ý kiến chỉ
đạo của lãnh đạo Viện).
- Nếu các yêu cầu điều tra bổ sung quá phức tạp thì Kiểm sát viên đề xuất
với Lãnh đạo viện trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra tiến hành việc điều tra bổ
sung. Trong văn bản trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra cũng phải nêu rõ lý do,
những yêu cầu điều tra bổ sung cụ thể; thời hạn thực hiện.
- Sau khi có kết quả điều tra bổ sung (do Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều
tra thực hiện), Kiểm sát viên phải xem xét kỹ các tài liệu này và đánh giá với hệ
thống tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án xem đã đầy đủ, chính xác chưa?
Có đúng với yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án không?.

- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung
quyết định truy tố trước đây hoặc việc điều tra bổ sung không thể tiến hành theo
yêu cầu của Toà án thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo Viện để ban hành văn
bản trả lời Toà án và giữ nguyên quan điểm truy tố.
- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung làm thay đổi nội dung quyết
định truy tố, cụ thể như:
+ Thay đổi về tội danh hoặc xác định có đồng phạm khác thì Kiểm sát viên
phải đề xuất với lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan điều tra thay đổi quyết định khởi
tố vụ án, khởi tố bị can hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Sau khi hoàn thành việc điều tra bổ sung, Kiểm sát viên phải lập lại bản cáo trạng
phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mới thu thập được.
+ Trường hợp thay đổi về điểm, khoản, áp dụng của điều luật thì Kiểm
sát viên yêu cầu Cơ quan điều tra kết luận điều tra bổ sung sau đó lập cáo trạng
truy tố theo điểm, khoản mới
- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung dẫn đến việc phải đình chỉ
điều tra theo quy định của BLHS và BLTTHS thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh
đạo Viện quyết định. Trường hợp đình chỉ điều tra toàn bộ vụ án thì phải thông
14
báo cho Toà án biết còn việc đình chỉ điều tra đối với một hay nhiều bị can trong
số các bị can của vụ án) thì phải tiếp tục lập cáo trạng để truy tố các bị can còn
lại. Việc thay đổi nội dung quyết định truy tố đều phải thông báo cho bị can,
những người tham gia tố tụng.
- Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra và giao cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm
sát xét xử sơ thẩm nếu phát hiện có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Kiểm
sát viên báo cáo Lãnh đạo viện có ý kiến trao đổi với Tòa án cùng cấp để làm rõ
những vấn đề điều tra bổ sung trước khi báo cáo với Viện kiểm sát cấp trên xem
xét, quyết định.
1.5. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử của Toà án.
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án về thẩm

quyền xét xử; về việc chuyển vụ án; về thời hạn chuẩn bị xét xử; về việc ra các
quyết định: Quyết định áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết
định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và việc
giao các quyết định này theo Điều 182 BLTTHS.
Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì báo cáo lãnh đạo Viện kiến nghị,
yêu cầu Toà án khắc phục hoặc kháng nghị theo các quy định của BLTTHS.
Kiểm sát viên phải căn cứ vào tính chất của từng vụ án và yêu cầu phục vụ
nhiệm vụ chính trị của địa phương báo cáo lãnh đạo Viện để chủ động phối hợp
với Toà án tổ chức phiên toà xét xử cho thiết thực, phù hợp với thực tế nhằm
tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân.
1.5.1. Kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử.
Kiểm sát viên phải kiểm sát thời hạn ban hành một trong những quyết định
sau đây của Thẩm phán chủ toạ phiên toà: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết
định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án.
Các quyết định này đều phải được Thẩm phán chủ toạ phiên toà đưa ra
trong thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS. Thời hạn chuẩn bị
15
xét xử đã được Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn cụ thể tại mục 1.2
Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004. Nếu quá thời hạn theo quy
định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS mà Thẩm phán chưa ban hành một trong
những quyết định trên thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Thẩm phán chuyển ngay
cho Viện kiểm sát quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.
1.5.2. Kiểm sát việc áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
Đối với các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn
thì Kiểm sát viên phải kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định này với các yêu
cầu sau:
+ Căn cứ Điều 177 BLTTHS thì việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện
pháp ngăn chặn tạm giam phải do Chánh án hoặc Phó Chánh án thực hiện; các
biện pháp ngăn chặn khác do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà thực

hiện.
+ Thời hạn tam giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị
xét xử quy định tại Điều 176 BLTTHS và tại Mục 2.2 Nghị quyết số
04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Đối
với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết,
nếu xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Tòa án ra
lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Kiểm sát viên phải phát hiện và
kiến nghị kịp thời các trường hợp để quá hạn tạm giam của Toà án.
1.5.3. Kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Kiểm sát nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ các nội
dung theo Điều 178 BLTTHS. Trong đó chú ý đến:
+ Thành phần Hội đồng xét xử, danh sách những người tham gia tố tụng
được triệu tập đến phiên toà.
+ Sự tham gia phiên toà của người giám hộ cho người chưa thành niên;
luật sư; người bào chữa trong các vụ án theo quy định của điểm a, điểm b khoản
2 Điều 57 BLTTHS.
16
+ Sự tham gia của những người mà lời khai của họ có giá trị chứng minh
tại phiên toà, như nhân chứng, bị hại nếu những người đó vắng mặt thì sẽ gây
khó khăn cho việc xác định sự thật của vụ án. Nếu thấy nội dung quyết định đưa
vụ án ra xét xử chưa đầy đủ hoặc chưa đúng thì phải kiến nghị ngay với Toà án
để bổ sung.
+ Kiểm sát việc giao quyết định này cho Viện kiểm sát, bị cáo, người đại
diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất 10 ngày trước khi mở phiên
toà. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử phải kiểm sát thời hạn mở phiên
toà theo quyết định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS.
1.5.4. Kiểm sát việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án
Kiểm sát viên phải xác định tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết
định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, cụ thể là:
+ Đối với quyết định tạm đình chỉ vụ án cần kiểm tra thẩm quyền ra quyết

định và căn cứ để tạm đình chỉ theo quy định tại Điều 160 BLTTHS; xác định rõ
các yêu cầu: Sau khi Toà án tạm đình chỉ phải thực hiện các hoạt động tố tụng
theo quy định của tố tụng hình sự như: Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo
với trường hợp không rõ bị cáo ở đâu; ra quyết định bắt buộc chữa bệnh khi bị
cáo bị bệnh tâm thần…
+ Đối với quyết định đình chỉ vụ án: Cần kiểm sát các căn cứ mà Toà án
đình chỉ theo đúng theo quy định tại Điều 180 BLTTHS. Chú ý là Toà án chỉ
được đình chỉ theo một trong các căn cứ sau: Khoản 1 Điều 105 BLTTHS (người
có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà); các căn cứ theo các
điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 107 BLTTHS; khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định
truy tố trước khi mở phiên toà.
+ Nếu phát hiện thấy việc đình chỉ, tạm đình chỉ không đúng thì Kiểm sát
viên báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét quyết định việc kháng nghị phúc thẩm.
1.5.5. Kiểm sát việc giao quyết định của Toà án:
Kiểm sát viên kiểm sát việc giao quyết định của Tòa án theo quy định tại
Điều 182 BLTTHS;
17
Để kiểm sát việc Toà án giao các quyết định thì Kiểm sát viên sau khi
nhận được các quyết định này cần yêu cầu Toà án gửi cho những người khác
theo quy định, thông qua hoạt động kiểm sát phần thủ tục tại phiên toà hoặc
khiếu nại của người bào chữa, bị can, bị cáo để phát hiện các vi phạm của Thẩm
phán, Thư ký trong việc giao các quyết định để có kiến nghị kịp thời với Chánh
án.
Chương 2: Báo cáo án với lãnh đạo viện.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 36 Bộ luật TTHS, thì việc truy tố bị can trước
Toà án do Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định. Vì vậy, trước khi tham gia
phiên toà xét xử Kiểm sát viên và lãnh đạo đơn vị phải báo cáo lãnh đạo Viện về
việc giải quyết vụ án.
2.1. Nội dung báo cáo.
2.1.1. Về hình thức.

Văn bản báo cáo án phải ghi rõ ngày, tháng, năm báo cáo án, người báo
cáo án phải ký tên, nêu ý kiến của Kiểm sát viên là lãnh đạo đơn vị (Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao là lãnh đạo Vụ, ở Viện Kiểm sát tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương là lãnh đạo cấp Phòng). Văn bản báo cáo án phải được lưu giữ trong
hồ sơ kiểm sát vụ án. Bản báo án phải ghi rõ lý lịch bị can: họ, tên, ngày, tháng,
năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, thành phần xã hội,
quan hệ gia đình, những đặc điểm cơ bản thuộc về nhân thân như tiền án, tiền sự
của bị can, ngày bị tạm giữ, tạm giam (nếu có). Ngoài ra, báo cáo cũng ghi đầy
đủ về các thông tin của người bị hại, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp.
2.1.2. Về nội dung.
Báo cáo án phải nêu tóm tắt nội dung vụ án, cụ thể là: thời gian, địa điểm,
hoàn cảnh nơi phạm tội. Diễn biến của hành vi phạm tội. Ai là người thực hiện
hành vi phạm tội? vụ án do một hay nhiều người thực hiện, có đồng phạm không,
vai trò trách nhiệm từng người trong vụ án; tính chất lỗi của từng người tham
gia? mục đích và động cơ phạm tội của từng người? tính chất và mức độ thiệt
18
hại? Báo cáo cần phân tích và viện dẫn đầy đủ các chứng cứ buộc tội và chứng
cứ gỡ tội. Cụ thể là, lời khai nhận tội hoặc chối tội của bị can, lời khai của người
bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Kiểm sát viên
phải báo cáo đầy đủ các lời khai (kể cả lời khai do cơ quan điều tra thu thập và
các lời khai do Viện kiểm sát thu thập) để lãnh đạo viện có đầy đủ các thông tin
trước khi quyết định phương hướng xử lý vụ án. Báo cáo cụ thể biên bản khám
nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi; các vật chứng thu thập được,
những dấu vết, tài liệu thu thập được có ý nghĩa chứng minh hoặc phủ nhận hành
vi phạm tội. Kết luận giám định về những vấn đề xác định sự thật vụ án (giám
định tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, giá trị tài sản, tỷ lệ thương tật, tốc độ xe
cơ giới, vật liệu nổ, vũ khí, tiền giả, séc giả, ma tuý, tài chính ). Báo cáo cần nêu
rõ những điểm khác nhau và những mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ đã thu
thập được. Khi báo cáo Kiểm sát viên có thể đọc văn bản đã được chuẩn bị, sau

đó, trình bày thêm trên sơ đồ hiện trường, máy chiếu
2.1.3. Đề xuất áp dụng pháp luật.
Báo cáo cần đối chiếu giữa hành vi phạm tội của bị can với các quy định
của BLHS để xác định rõ hành vi của bị can phạm tội gì, theo điều, khoản nào
của BLHS. Ngoài quy định của BLHS, Kiểm sát viên cần căn cứ vào các văn bản
pháp luật khác để viện dẫn áp dụng đối với bị can, nhất là trong các trường hợp
điều luật quy định về tội phạm của BLHS lại dưới dạng quy định cần viện dẫn
các văn bản pháp luật khác. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần nghiên cứu các văn bản
quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật như các
thông tư liên tịch, các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao hướng dẫn về những nội dung có liên quan.
2.1.4. Đề xuất đường lối giải quyết vụ án.
Để cho việc đề xuất có căn cứ, ngoài việc nêu những căn cứ chứng minh bị
can phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS, báo cáo án cần xác định rõ
những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo (Điều 46, 48 BLHS), trong đó, cần phân biệt rõ những tình tiết có tính chất
19
tăng nặng hoặc giảm nhẹ chung đối với tất cả các bị can, bị cáo trong vụ án có
đồng phạm (phạm tội có tổ chức, phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, phạm tội
chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. . .) và các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ chỉ gắn liền với từng bị can, bị cáo như tái phạm, tái phạm nguy hiểm,
phạm tội nhiều lần, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, tự thú, thật thà khai báo,
tố giác tội phạm, lập công chuộc tội, người phạm tội là người già, phụ nữ có thai,
người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần . . . Trong trường hợp vụ án vừa
có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ thì báo cáo án phải đánh giá toàn
diện trên tất cả các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để xác định ảnh hưởng của
các tình tiết tăng nặng hay các tình tiết giảm nhẹ lớn hơn. Trên cơ sở đó, đề xuất
hướng xử lý đối với bị can, bị cáo, đồng thời cũng cần xác định rõ bị can, bị cáo
có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự hay không? Việc giải quyết phần dân sự
trong vụ án hình sự (nếu có) thế nào ?

Báo cáo vụ án cũng cần đề cập đến các tình tiết mà qua nghiên cứu hồ sơ
Kiểm sát viên thấy khác với kết luận điều tra, những nội dung mà Viện kiểm sát
yêu cầu điều tra, nhưng quá trình điều tra chưa được làm rõ. Đối với các nội
dung mà cơ quan điều tra chưa làm rõ thì Kiểm sát viên cũng cần nêu rõ các
phương pháp cần tiến hành, như cần xác minh thêm vấn đề gì ? Ai xác minh và
thời gian tiến hành ? Đối với các vấn đề cần thay đổi nội dung các tình tiết của
vụ án so với bản kết luận điều tra hoặc thay đổi diện truy tố cũng cần báo cáo với
lãnh đạo Viện.
Đối với các bị can kêu oan, những vấn đề mà dư luận xã hội đề cập đến
các tình tiết của vụ án như điều tra không khách quan, bỏ lọt tội phạm thì Kiểm
sát viên cần báo cáo đầy đủ với Lãnh đạo Viện.
Khi báo cáo án, các Kiểm sát viên trực tiếp trả lời các câu hỏi của Lãnh
đạo viện. Những vấn đề nào chưa trả lời được thì ghi chép lại nghiên cứu trả lời
sau. Kiểm sát viên phải ghi chép ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo viện. Những vụ án
được đưa ra Uỷ ban kiểm sát xin ý kiến hoặc thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên thì
ý kiến chỉ đạo hoặc văn bản thỉnh thị và trả lời thỉnh thị cần phải được lưu lại
trong hồ sơ kiểm sát (không để vào hồ sơ chính). Đối với những vụ án phức tạp,
20
quan trọng cần phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của các ngành, Kiểm sát viên phải báo
cáo, đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát cấp mình họp trù bị với Toà án.
2.2. Rút truy tố trước khi mở phiên toà.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Nếu Kiểm sát viên thấy có một trong những
căn cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm
hình sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69
của BLHS, thì phải báo cáo lãnh đạo Viện xem xét quyết định rút quyết định truy
tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.
Báo cáo đề xuất của kiểm sát viên với Lãnh đạo viện kiểm sát về việc rút
quyết định truy tố phải được thể hiện bằng văn bản trình bày rõ ràng các yêu cầu:
Tóm tắt nội dung quyết định truy tố, căn cứ để rút quyết định truy tố; quan điểm
đề xuất của Kiểm sát viên (rút toàn bộ; hay rút một phần, cụ thể rút vấn đề gì với

ai, lý do, hướng giải quyết tiếp theo của vụ án là gì ).
Đề xuất của Kiểm sát viên rút quyết định truy tố phải được lãnh đạo trực
tiếp chỉ đạo có ý kiến cụ thể, sau đó báo cáo với Viện trưởng xem xét quyết định
cuối cùng. Với những vụ án phức tạp về đánh giá chứng cứ, vướng mắc về quan
điểm giải quyết thì phải báo cáo VKSND cấp tỉnh cho ý kiến chỉ đạo đối với
những vụ án do Viện kiểm sát cấp trên uỷ quyền cho Viện kiểm sát cấp dưới thực
hành quyền công tố, nếu Viện kiểm sát uỷ quyền có tài liệu là căn cứ rút quyết
định truy tố thì trình tự làm như trên và ban hành quyết định rút quyết định truy
tố, sau đó chuyển văn bản cho Viện kiểm sát được uỷ quyền để chuyển cho Toà
án đang thụ lý hồ sơ vụ án thực hiện các bước tiếp theo quy định của BLTTHS.
Nếu Viện kiểm sát được uỷ quyền thấy có căn cứ để rút quyết định truy tố
thì phải làm văn bản báo cáo Viện kiểm sát cấp trên đã uỷ quyền, nêu rõ lý do,
quan điểm (kèm theo tài liệu làm căn cứ rút quyết định truy tố) để Viện kiểm sát
đã uỷ quyền xem xét quyết định việc rút quyết định truy tố.
Chương III: Xây dựng đề cương xét hỏi, luận tội, tranh luận tại phiên Tòa.
3.1. Xây dựng đề cương xét hỏi.
21
Trước khi tham gia phiên toà, Kiểm sát viên phải dự thảo đề cương xét hỏi
và những nội dung cần làm rõ tại phiên toà như: Hỏi về hành vi phạm tội, thời
gian, địa điểm, động cơ, mục đích, hậu quả, công cụ, phương tiện phạm tội, thủ
đoạn phạm tội…
Dự kiến những tình huống, diễn biến có thể xảy ra tại phiên toà như thái
độ tâm lý của bị cáo, khả năng phản cung của bị cáo, thay đổi lời khai của những
người tham gia tố tụng. Dự kiến những tài liệu, chứng cứ đưa ra để đấu tranh với
bị cáo, trích đọc lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, dự kiến đối chất tại
phiên toà để giải quyết các mâu thuẫn…
Chuẩn bị những câu hỏi đối với người làm chứng, người bị hại, người
giám định và những người tham gia tố tụng khác. Phải dự kiến đầy đủ nội dung
cần hỏi đối với từng đối tượng. Ví dụ, đối với người bị hại cần phải hỏi kỹ về yêu
cầu bồi thường thiệt hại, yêu cầu xử lý đối với bị cáo và các tình tiết của vụ án

mà họ có thể biết được. Đối với người làm chứng cần chú ý hỏi về những tình
tiết của vụ án mà họ biết, về quan hệ của họ với bị can, bị cáo, đối với người
giám định, chủ yếu nêu những câu hỏi về những căn cứ khoa học về kết luận
giám định.v.v
Dự kiến những vấn đề mà người bào chữa hoặc bị cáo quan tâm để đặt ra
những câu hỏi làm sáng tỏ …
Nội dung các câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, không đặt các câu
hỏi mớm cung, dụ cung .v.v.
3.2. Xây dựng dự thảo luận tội.
Bản dự thảo luận tội phải đảm bảo các yêu cầu.
Những nội dung của bản luận tội phải được chứng minh bằng các chứng
cứ thu thập đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Các tình tiết, chứng cứ nêu trong bản luận
tội là có thực và được thể hiện tại các bút lục của hồ sơ vụ án. Các căn cứ áp
dụng cũng phải được bảo đảm đúng với các điểm, khoản, điều mà Kiểm sát viên
trích dẫn.
22
Việc mô tả hành vi phạm tội, phân tích đánh giá chứng cứ, phân tích vai
trò trách nhiệm của bị cáo gắn liền với việc viện dẫn chứng cứ để chứng minh
phải chính xác, lôgíc. Việc đề xuất đường lối xử lý phải trên cơ sở phân tích đánh
giá chứng cứ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nhân thân người phạm tội, vai
trò trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời, xem xét đối chiếu với các quy định của pháp
luật hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan để cân nhắc lựa chọn
điều, khoản của BLHS để đề xuất Toà án áp dụng pháp luật xử lý chính xác, phù
hợp với tính chất mức độ, hậu quả ao hành vi phạm tội gây ra.
Bản luận tội phải thể hiện được tính đấu tranh và tính thuyết phục cao:
Bản luận tội phải thể hiện được sự phê phán và lên án trước dư luận về hành vi
phạm tội của bị cáo, có tác dụng răn đe, phòng ngừa; đồng thời có căn cứ, có lý,
có tình.
Bản luận tội phải xác định được nguyên nhân và điều kiện phạm tội, thông

qua đó, tuyên truyền giáo dục pháp luật, góp phần đấu tranh chông và phòng
ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật.
Bản luận tội phải bám sát các nội dung truy tố. Nội dung của bản luận tội
phải bám sát nội dung truy tố của bản cáo trạng. Bản cáo trạng truy tố những
hành vi phạm tội nào, bị can nào thì nội dung của bản luận tội phải phân tích,
đánh giá kết luận về hành vi phạm tội đó và bị can đó, không được bỏ sót vấn đề
nào.
Bản luận tội phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại
phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
3.3. Cơ cấu của luận tội.
Gồm 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận.
- Phần mở đầu:
Phần này mang tính chất vào đề và được bắt đầu bằng câu: "Thưa Hội
đồng xét xử", tiếp đó Kiểm sát viên tự giới thiệu về mình là đại diện Viện kiểm
23
sát… thực hành quyền công tố tại phiên toà sơ thẩm xét xử về hình sự vụ án (nêu
tên vụ án). Sau đó nêu mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, tầm quan trọng của việc xét
xử vụ án.
- Phần nội dung:
Đây là phần trọng tâm và quan trọng nhất, đòi hỏi Kiểm sát viên phải
nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, phải chuẩn bị kỹ lưỡng, khách quan, đầy đủ và có sức
thuyết phục cao, nhất là khi xét xử các vụ án nghiêm trọng và phức tạp hoặc các
vụ án được tổ chức xét xử lưu động có đông người tham dự.
Phần này gồm những vấn đề sau:
Phân tích đánh giá chứng cứ:
Trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, Kiểm sát viên
cần đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ để xác định được sự thật của vụ án;
xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội; hành vi phạm tội đã diễn ra như
thế nào, nêu chứng cứ chứng minh (lời khai, kết quả giám định, các chứng từ…

có nêu bút lục, nêu đúng hành vi phạm tội và viện dẫn chứng cứ chứng minh.
Sau khi chứng minh toàn bộ hành vi phạm tội, lưu ý cả hậu quả của tội phạm, ý
thức chủ quan). Nếu có lời bào chữa của bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác thì phải lập luận, bác bỏ hoặc chấp nhận và viện dẫn chứng
cứ chứng minh. Từ đó, Kiểm sát viên đánh giá tổng hợp, kết luận về sự việc
phạm tôi, người phạm tội và viện dẫn các chứng cứ để chứng minh tội phạm như:
Các biên bản khám nghiệm, kiểm tra, thu giữ vật chứng, giám định pháp y, sổ
sách, chứng từ, lời khai của bị cáo, người bị hại, người liên quan, nhân chứng…
trước Cơ quan điều tra và tại phiên tòa (có phân tích, đánh giá những mâu thuẫn
để kết luận đúng, sai rõ ràng). Trên cơ sở đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án,
Kiểm sát viên sẽ khẳng định nội dung truy tố của bản cáo trạng là hoàn toàn
đúng hoặc có vấn đề gì cần thay đổi như: Rút quyết định truy tố, thay đổi tội
danh, khung hình phạt nhẹ hơn… Đối với những vấn đề, tình tiết mới phát hiện
tại phiên tòa có thể làm thay đổi nội dung, tính chất của vụ án, nếu chưa được
24
thẩm tra đầy đủ, chưa có đủ căn cứ thì không thể kết luận mà phải đề nghị hoãn
phiên tòa để điều tra xác minh.
+Khi phân tích đánh giá chứng cứ đối với vụ án có bị cáo phạm nhiều tội,
thì phải tuân theo quy định đi từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng đến tội phạm ít nghiêm trọng. Có thể xếp
thành nhóm tội phạm có liên quan chặt chẽ với nhau để cùng phân tích đánh giá
như: Tội giết người và cướp tài sản, tội đưa hối lộ và nhận hối lộ Cần tránh
việc sao chép nội dung của bản cáo trạng vào nội dung luận tội.
+ Phân tích đánh giá tình chất, mức độ tội phạm, vai trò, vị trí, trách nhiệm
của bị cáo (hoặc từng bị cáo):
+ Trên cơ sở đánh giá chứng cứ để phân tích đánh giá chung tính chất,
mức độ của vụ án, tính chất hành vi và thủ đoạn phạm tội, xem xét mục đích và
động cơ phạm tội, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra; phân tích các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo; xác định nguyên
nhân, điều kiện, hoàn cảnh… phạm tội.

+ Đánh giá, xác định vai trò, trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án theo
trật tự: Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tọi phạm ít nghiêm trọng. Cần sắp xếp các bị cáo theo thứ tự về
vai trò trong vụ án như trong cáo trạng. Đối với từng bị cáo cũng phải phân tích
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng đối với họ.
+ Khi phân tích, xác định vai trò, trách nhiệm của bị cáo nào xong thì kết
luận bị cáo đã phạm tội gì, tội đó được quy định tại điều, khoản, điểm nào của
BLHS.
+ Nêu những thiếu sót sơ hở, vi phạm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội
và nguyên nhân điều kiện tội phạm phát sinh, từ đó có kiến nghị với các cơ quan,
đơn vị rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp xử lý, sửa chữa.
Đề nghị xử lý.
+ Trên cơ sở đánh giá, phân tích tính chất, mức độ hậu quả của vụ án, mục
đích và động cơ phạm tội, thủ đoạn thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng,
25

×