Tải bản đầy đủ (.ppt) (41 trang)

BÀI TẬP MÔN HỌC THAY ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC Các mô hình khoa học phức hợp của sự thay đổi tổ chức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 41 trang )

Nhóm 12:
Nhóm 12:
1. Phạm Bá Minh Lộc
1. Phạm Bá Minh Lộc
2. Phạm Anh Tuấn (1973)
2. Phạm Anh Tuấn (1973)
3. Nguyễn Ngọc Quỳnh Như
3. Nguyễn Ngọc Quỳnh Như
4. Nguyễn Diệu Nguyên Khanh
4. Nguyễn Diệu Nguyên Khanh
GVHD:
GVHD:
TS. Nguyễn Hữu Lam
TS. Nguyễn Hữu Lam
ThS. Trần Hồng Hải
ThS. Trần Hồng Hải
NỘI DUNG
NỘI DUNG
1. Định nghĩa khoa học phức hợp
2. Các mô hình khoa học phức hợp của sự thay đổi và đổi
mới tổ chức:
a. Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp
(CAS - Complex Adaptive System Model)
b. Mô hình điện toán (Computation Model)
c. Mô hình năng động (Dynamical Model)
d. Mô hình tự tổ chức (Self-Organizing Model)
3. Những thách thức trong tương lai
1. Định nghĩa khoa học phức hợp:

Khoa học phức hợp là từ dùng để mô tả một nhóm rất rộng và
đa dạng về quan niệm, mô hình và phép ẩn dụ phục vụ cho các


thuộc tính mang tính hệ thống và năng động của các hệ thống có
sự sống. Chẳng hạn như việc tự tái tạo, sự hình thành trật tự từ
quyền lực, sự tự tổ chức, đồng tiến hóa với môi trường, tính phi
tuyến tính, sự nổi trội và các khao khát riêng tư, các chuẩn mực,
biểu hiện, cũng như thực tại của con người.

Các mô hình khoa học phức hợp chính đều trực tiếp kết hợp với
chiều thời gian.
2. Các mô hình khoa học phức hợp của sự thay đổi
và đổi mới tổ chức:
Mô hình hệ thống thích
ứng phức hợp (CAS)
Mô hình điện toán
Mô hình năng động
Mô hình tự tổ chức
2. Các mô hình khoa học phức hợp của sự thay đổi
và đổi mới tổ chức:
Mô hình hệ thống
thích ứng phức hợp
(CAS)
Mô hình điện toán
Mô hình năng động
Mô hình tự tổ chức
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (1)

Các mô hình hệ thống thích ứng phức hợp là các mô hình mô
phỏng. Ở đó, các chủ thể nắm giữ các quy định về hoạt động, quy
định làm thế nào chúng tương tác với môi trường, bao gồm nguồn
lực và các chủ thể khác. Các chủ thể thường là không đồng nhất, và
chúng học được cách cải thiện sự phù hợp của mình qua thời gian.

Các nhà lý thuyết tổ chức thường hay liên hệ thuật ngữ phức hợp
với việc mô tả những hoạt động đang diễn ra bên trong tổ chức.
Chẳng hạn như một công ty với nhiều chuyên gia thì phức tạp hơn
công ty có ít chuyên gia (Khandwalla, 1977). Đối với trường hợp
CAS, sự phức hợp liên quan tới cách thức mà hệ thống ứng xử với
cấu trúc nội tại của nó; hành vi tổng hợp của hệ thống thì không thể
dự đoán được và cũng không thể dựa trên thành phần của nó mà
hiểu hay làm giảm đi các hành vi được.

Sự phức hợp của CAS liên quan tới cách thức mà hệ thống ứng
xử với cấu trúc nội tại của nó; hành vi tổng hợp của hệ thống
thì không thể dự đoán được và cũng không thể dựa trên thành
phần của nó mà hiểu hay làm giảm đi các hành vi được.

Một hệ thống phức hợp có tính thích ứng nếu nó tự thay đổi
bằng cách dùng các tiến trình phi cách mạng theo thời gian sẽ
nhanh hơn so với tiến hóa sinh học theo thời gian. Ví dụ về một
CAS bao gồm nền kinh tế, hệ thống giao thông, và văn hóa.
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (2)

Các yếu tố cơ bản của CAS là các chủ thể. Chủ thể là các đơn vị bán
độc lập (semi-autonomous) mà nó đang tìm cách tối đa hóa mức độ
phù hợp bằng cách tiến hóa theo thời gian. Các chủ thể lướt qua môi
trường của nó (cả nội bộ lẫn bên ngoài hệ thống) và giải thích những
cái nhìn tổng quát thông qua các giản đồ. Các chủ thể có thể đại diện
cho cá thể hoặc nhóm, phòng ban hay cả công ty.

Các giản đồ là các mẫu tư duy (nằm trong mô hình điện toán, các
mẫu điện toán) xác định thực tế được diễn giải như thế nào và đâu là
các phản hồi tương ứng với các chiều hướng có trước. Những giản

đồ này thường tiến hóa từ những giản đồ nhỏ hơn, cơ bản hơn
(Holland, 1995).
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (3)
Các yếu tố thành phần của CAS
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (4)

Các chủ thể được giả định là có giới hạn hợp lý và có thể là giới
hạn truy cập thông tin trong hệ thống, và các giản đồ có thể
khác nhau giữa các chủ thể bởi khí chất cá nhân trong cách mỗi
người đưa ra quyết định như thế nào (March, 1994). Trong một
chủ thể, nhiều giản đồ mâu thuẫn nhau vẫn có thể tồn tại, đối lập
nhau thông qua quy trình tuyển chọn – thực hiện – cách ly.
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (5)

Sự phù hợp của chủ thể thường được mô hình hóa như là một
yếu tố phức tạp bao gồm nhiều nhân tố nội bộ và toàn cục. Các
chủ thể không phù hợp có nhiều khả năng tạo ra sự thay đổi
trong giản đồ. Tối ưu hóa sự phù hợp nội tại cho phép sự đa
dạng hóa và tính đặc trưng; tối ưu hóa toàn cục của mức độ
phù hợp giúp tăng cường tính nhất quán trong CAS như là một
hệ thống và dẫn đến việc lưu giữ dài hạn.

Giản đồ cũng xác định một chủ thể tương tác với các chủ thể
khác cả trong và ngoài hệ thống như thế nào. Tương tác giữa
các chủ thể liên quan đến việc trao đổi thông tin và/hoặc các
nguồn lực, thông qua các tuyến kết nối.
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (6)

Nhà nghiên cứu sử dụng mô hình CAS phải ghi rõ những gì bên
trong so với bên ngoài hệ thống, hoặc ranh giới của hệ thống. Trong

vài trường hợp, các ranh giới có thể là hiển nhiên, như ranh giới
pháp lý của một công ty. Vài trường hợp khác thì ranh giới được cụ
thể hóa theo các câu hỏi nghiên cứu. Vì hệ thống có thể phân rã, nên
ranh giới có thể tồn tại và được mô tả ở nhiều quy mô khác nhau,
dẫn đến hành vi chồng lắp. Cuối cùng, lẽ tồn tại của hệ thống được
xác định bởi các giả định về tồn tại. Chẳng hạn như một mô phỏng
của công ty kinh doanh sử dụng các tiêu chí kinh tế trong các chức
năng tạo sự phù hợp cho chủ thể. Trong khi đó, một mô phỏng công
ty phi lợi nhuận thì sử dụng các tiêu chí về sự vị tha.
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (7)
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (8)
Thay đổi xảy
ra trong hệ
thống thích
ứng phức
hợp
Ví dụ của mô hình CAS trong thay đổi tổ chức

Chủ thể là các cá nhân tự tổ chức trong công ty bằng cách xem xét sự phù
hợp của riêng họ. Trước tiên, mỗi chủ thể được chỉ định tham số “thu
nhập – giải trí” và tham số này xác định lượng thời gian cần thiết cho
công việc (tạo thu nhập) so với thời gian giải trí (khoảng thời gian làm
việc không hiệu quả); nếu sự phân công này thực hiện ngẫu nhiên thì tính
đồng nhất của chủ thể được duy trì.

Tại các khoảng thời gian ngẫu nhiên, các chủ thể sẽ xem xét vị trí hiện tại
và cả (a) việc duy trì mức nỗ lực hiện tại, (b) tăng giảm nỗ lực hiện tại, (c)
làm công ty mới (solo), hoặc (d) chuyển đổi 2 người trong công ty.

Cái mà công ty nhận được từ những nỗ lực tổng hợp của thành viên dựa

vào số thành viên, nỗ lực cá nhân của thành viên, và bất cứ việc cùng
nhau nỗ lực nào (ví dụ tăng doanh thu). Lợi nhuận cho cá nhân được chia
đều cho tất cả các công ty tham gia.
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (9)

Khi công ty trở nên to lớn, sự đóng góp của một cá thể trở nên nhỏ
bé so với sự đóng góp của toàn bộ tổ chức, và điều này tạo ra
“những người ăn theo”

Khi việc ăn theo trở nên phổ biến, năng suất của công ty giảm
xuống và đa số những người muốn “làm việc” thì lại bỏ qua
những công ty khác, làm cho công ty bị suy yếu.

Trong khi điều kiện cân bằng tồn tại trong lý thuyết có thể dẫn đến
trạng thái tĩnh, luôn có trạng thái bất ổn năng động, đủ để làm cho
điều kiện cân bằng không bao giờ xuất hiện.

Lịch sử của bất kì công ty nào cũng luôn nổi bật và có đường lối
rõ ràng.

Ở mức độ tổng hợp, quy mô công ty, sự tăng trưởng và tỷ lệ thất
bại cũng giống như số liệu thực tế.
a) Mô hình hệ thống thích ứng phức hợp - CAS (10)

Các mô hình điện toán là các mô hình mô phỏng. Trong đó, các
thành phần của một hệ thống đồng tiến hóa theo thời gian. Các
phần đó có thể là chủ thể hay đơn thuần chỉ là một nhân tố của
một chỉnh thể thống nhất. Thay đổi được thúc đẩy bằng các tương
tác không theo mục đích luận, dựa trên tương tác cục bộ giữa các
thành phần. Các cơ chế bên trong các nguyên lý có xu hướng là

đơn giản. Các nguyên lý chính yếu là toán học và khoa học máy
tính. Tương tự như các mô hình CAS, mô hình điện toán cũng
được sử dụng theo hình thức diễn dịch.
b) Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức (1)
b) Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức (2)
Mô hình tế bào tự động – CA (1)

Một mô hình CA đã nhận được nhiều sự chú ý ở cả hai ngành
khoa học vật lý và xã hội là mô hình “cồn cát” (“sandpile”) của
Bak (1996).

Trong lý thuyết về tổ chức, người ta thường cho rằng nếu chúng
ta quan sát một sự thay đổi nhỏ, nó cũng phải bắt nguồn từ các
nguyên nhân có cường độ nhỏ; nếu chúng ta quan sát một sự thay
đổi lớn thì nó cũng phải xuất phát từ nguyên nhân có cường độ
lớn. Đây cũng có thể là trường hợp mà chúng ta nghiên cứu
nhưng cũng có thể là không.
b) Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức (3)

Trong các hệ thống phức hợp, cường độ của nguyên nhân và
hiệu ứng có thể không liên quan - sự thay đổi lớn có thể không
có tác động, và thay đổi nhỏ có thể có tác động rất lớn. Hành vi
khác thường này có thể gây ra sự hiểu biết sai lệch. Nó cũng có
thể bị ảnh hưởng, vì nó có thể gây ra sự thay đổi hệ thống thông
qua những hành động đơn giản, cục bộ.
Mô hình tế bào tự động – CA (2)
b) Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức (4)

Mô hình cồn cát (sandpile) của Bak cho thấy rằng khi hệ thống
đang ở tại ngưỡng trạng thái tự tổ chức, các hiệu ứng có thể xuất

hiện thông qua một hệ thống và một sự thay đổi nhỏ của một yếu
tố trong hệ thống có thể dẫn đến thay đổi cả hệ thống.

Ngưỡng trạng thái tự tổ chức xuất hiện khi các yếu tố của hệ thống
được kết nối với nhau như thể là có mối liên hệ lâu dài giữa bất kỳ
hai yếu tố nào của hệ thống. Trong trạng thái như vậy, cường độ
ảnh hưởng của sự thay đổi nhỏ có thể dẫn đến một sự đảo ngược
quy luật sức mạnh - sự thay đổi nhỏ thường dẫn đến tác động nhỏ,
nhưng đôi khi chúng có thể dẫn đến tác động rất lớn.
Mô hình tế bào tự động – CA (3)
b) Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức (5)

Bak (1996) mô tả một “cồn cát tổ chức” (‘‘organizational sandpile’’) trong
đó có thông tin đi vào văn phòng kinh doanh mỗi lần một thông tin. Khi
người lao động tích lũy thông tin vượt quá một ngưỡng quan trọng, chúng
tạo ra một hành động mà sau đó trở thành một thông tin cho người lao động
khác mà họ kết nối đến. Nếu người lao động được kết nối theo cách mà toàn
bộ hệ thống được tự tổ chức một cách nghiêm ngặt, thì sau đó hàng loạt các
hoạt động xuất hiện theo những qui mô khác nhau, số lượng các hoạt động
phát sinh là nhờ vào một thông tin đi vào hệ thống.

Hầu hết, số lượng các hoạt động này có qui mô nhỏ, nhưng đôi khi một
thông tin có thể tạo ra một loạt các hoạt động thông qua việc đặt ra các
ngưỡng quan trọng. Các quá trình này có xu hướng không ổn định hoặc có
thể quay trở lại trạng thái cũ, khi số lượng hoạt động có qui mô vừa hoặc rất
lớn thì quá trình này không có xu hướng quay trở lại trạng thái cũ mà
thường xuất hiện theo thời gian.
Mô hình tế bào tự động – CA (4)
b) Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức (6)


Kauffman xác định đồ thị hình sin này sử dụng hai tham số: tham
số n chỉ số lượng các yếu tố trong hệ thống (tính thứ nguyên của
cấu hình), và tham số k chỉ tính chất liên kết trong hệ thống.
Chúng tôi giới hạn cuộc thảo luận này trong phạm vi liên quan
tới tham số k mà thôi. Khi k thấp so với n, hệ thống có đồ thị
hình sin dao động ít với một đỉnh đơn. Khi k=0, điều đó có nghĩa
là tối ưu hóa từng yếu tố riêng biệt của hệ thống có thể tối ưu hóa
được sự phù hợp của hệ thống; không cần phải xem xét đến sự
tương tác lẫn nhau nữa.
Mô hình đồ thị hình Sin (1)
b) Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức (6)

Khi k tăng lên, sự phù hợp của hệ thống không chỉ phụ thuộc vào
từng thành phần mà còn phụ thuộc vào sự tương tác và phối hợp
giữa chúng. Ví dụ như xem xét một tổ chức y tế. Nếu thay đổi
trách nhiệm của điều dưỡng, phải thay đổi luôn công việc của kỹ
thuật viên và bác sĩ. Không thể nào đưa vào một dịch vụ mới mà
không thay đổi mức độ bảo hiểm. Khi k là giá trị trung gian, đồ
thị hình sin lên xuống thoai thoải với vài đỉnh đồ thị. Khi k lớn
(lên đến n-1), đồ thị biến thiên nhiều hơn. Giá trị của k cũng có
thể được cho là liên quan đến loại nối kết có trong hệ thống
(Weick, 1979). Giá trị 0 tương ứng với không kết nối, giá trị trung
gian của k tương ứng với kết nối lỏng lẻo, giá trị cao của k tương
ứng với kết nối chặt chẽ. Hệ thống với giá trị k cao được xem là
hệ thống thống nhất.
Mô hình đồ thị hình Sin (2)
b) Mô hình điện toán của sự thay đổi tổ chức (6)

Mô hình năng động là các mô hình toán học điều tiết cách thức,
và thường là cả nguyên nhân vì sao, các biến số chúng ta quan

sát được trong các hệ thống phức hợp thay đổi theo thời gian.
Các biến này có hoặc không đại diện cho các cấu trúc cấp cao
hơn. Tương tác giữa các biến có thể tuyến tính hoặc phi tuyến,
rời rạc hoặc liên tục. Cái nguyên lý chủ chốt là toán học và thống
kê. Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng mô hình năng động theo
phương pháp quy nạp bằng cách thực hiện mô hình hóa dữ liệu
thực nghiệm và sau đó lý luận bằng cách quan sát các mô thức,
hoặc diễn giải mô thức theo cách tương tự như sử dụng mô hình
vi tính hóa.
c) Mô hình năng động (1)

Như lời của Heraclitus nói, bạn không bao giờ tắm trên cùng một
dòng sông. Ở cấp độ vi mô, vị trí của từng phân tử nước luôn
luôn thay đổi, và cấu trúc tổng thể chính xác của chúng không
bao giờ giống nhau tại những điểm thời gian khác nhau. Mặc dù
vậy, cấu trúc của dòng sông dù được khoanh vùng theo 3 hướng
của nó vẫn thể hiện sự thay đổi theo thời gian. Cơ thể con người
cũng vậy. Trong khi hàng triệu tế bào trong cơ thể chúng ta chết
đi và được thay thế mỗi ngày, người khác vẫn nhận ra chúng ta
bởi vì hình thể của chúng ta vẫn giữ y nguyên.
c) Mô hình năng động (2)

×