Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP THIÊN NHIÊN TẠI vườn quốc gia Tràm Chim

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.81 MB, 40 trang )

Báo cáo thực tập thiên nhiên

Chúng em những sinh viên lớp Sư phạm sinh K4 xin được cảm ơn:
 Ban giám hiệu trường Đại học Thủ Dầu Một
 Quý thầy cô trong khoa Khoa học tự nhiên
 Đặc biệt là cô Thân Thị Diệp Nga, thầy Nguyễn Bá Tư cùng các
thầy giảng dạy bô môn Sinh học đã tận tình hướng dẫn chúng
em trong chuyến thực tập thiên nhiên vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Trang
Phần I: Đặt vấn đề 3
Trang 1
Báo cáo thực tập thiên nhiên
Phần II: Nội dung 4
I/ Đa dạng hệ sinh thái thực vật ở vườn quốc gia Tràm Chim. 4
1/ Quần xã Sen – Súng 4
2/ Quần xã Tràm 10
3/ Quần xã Mồm mốc 13
4/ Quần xã Năng 16
5/ Quần xã Cỏ ống 21
6/ Quần xã Lúa ma 23
II/ Du lịch sinh thái 27
1/ Định nghĩa 27
2/ Thực trạng phát triển du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia (VQG)
Tràm Chim 27
3/ Du lịch sinh thái tác động tích cực đến môi trường 31
4/ Du lịch tác động tiêu cực đến môi trường 32
5/ Để phát triển du lịch sinh thái cần làm các công việc sau 33
Phần III: Kết luận 37
Tài liệu tham khảo 38


Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Được đi du lịch khắp đất nước Việt Nam là niềm mơ ước của rất nhiều
người, trong đó có chúng tôi và các bạn. Nước Việt Nam ta được mệnh danh
là “rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”. Dọc theo miền đất nước có rất nhiều
Trang 2
Báo cáo thực tập thiên nhiên
cảnh đẹp hùng vĩ, rất nhiều khu du lịch, khu dự trữ sinh quyển, Vườn Quốc
Gia…
Về miền đất Bắc ta được hòa mình vào Cát Bà ngắm nhìn những dãy núi
đá vôi hùng vĩ với hệ động thực vật mang đậm nét vùng khí hậu cận nhiệt
đới gió mùa. Đến miền Trung ta sẽ lạc vào cõi mê hồn của động Phong Nha
Kẻ Bàng, về miền Nam ta như lạc vào chốn thần tiên cùng với rừng quốc gia
Cát Tiên, với miền sông nước U Minh…và trong số đó một địa danh mà
chúng ta không thể bỏ qua đó là vườn quốc gia Tràm Chim.
Và may mắn làm sao trong chuyến thực tập thiên nhiên, lớp Sư phạm Sinh
K4 chúng tôi được đến với Tràm Chim – Đồng Tháp. Chúng tôi thật ngỡ
ngàng trước sự đa dạng của hệ sinh thái động thực vật nơi đây. Qua chuyến
đi này chúng tôi đã thu thập và bổ sung được nhiều kiến thức bổ ích phục vụ
cho việc học tập cũng như giảng dạy sau này. Chính vì sự yêu thích bộ môn
chuyên ngành cùng với niềm đam mê du lịch mà nhóm chúng tôi đã chọn đề
tài: “ Đa dạng hệ thực vật ở Tràm Chim – Nguy cơ từ du lịch sinh thái” làm
bài báo cáo thu hoạch trong chuyến đi thực tế thiên nhiên này. Qua bài báo
cáo này nhóm chúng tôi hy vọng sẽ cung cấp một số hiểu biết cơ bản về
Vườn quốc gia Tràm Chim cùng với những định hướng phát triển du lịch
sinh thái bền vững.
Phần II: NỘI DUNG
I/ ĐA DẠNG HỆ SINH THÁI THỰC VẬT Ở VƯỜN QUỐC
GIA TRÀM CHIM:
Trang 3
Báo cáo thực tập thiên nhiên

Với các yếu tố tự nhiên: trầm tích, địa mạo, và đặc tính đất khá đa dạng, từ
đất xám, phát triển trên nền trầm tích cổ Pleistocen, đến những nhóm đất phù
sa mới và đất phèn phát triển trên trầm tích trẻ Holocen đã góp phần làm đa
dạng các quần xã thực vật tự nhiên. Kết quả khảo sát từ 2005–2006 ghi nhận
được ở Vườn Quốc gia Tràm Chim - huyện Tam Nông - tỉnh Đồng Tháp có
130 loài thực vật, phân bố đơn thuần cũng như xen kẻ với nhau tạo thành 6
quần xã thực vật đặc trưng: Sen-súng, lúa ma, mồm mốc, cỏ ống, năng, tràm
1/ Quần xã Sen-Súng:
Hội đoàn sen – súng (Nelumbium nelumbo – Nymphaea spp.) chủ yếu trên
các vùng đầm lầy ngập nước quanh năm, dọc theo khu trũng thấp của dòng
sông cổ, chiếm diện tích khoảng 158 ha.
Những loài chim thường gặp: le hôi (Tachybaptus raficollis), le khoang cổ
(Nettapus coromandelianus), vịt trời (Anas poecilorhyncha), trích cổ, trích
ré, gà lôi nước (Hydrophasianus chirurgus), gà nước vằn (Rallus striatus),
cuốc ngực nâu (Porzana fusca), mòng két (Anas crecca), bói cá (Ceryle
rudis)
Quần xã sen-súng ở Tràm chim
 Sen:
a, Đặc điểm:
Trang 4
Báo cáo thực tập thiên nhiên
Họ Sen (Nelumbonaceae) là một họ thực vật có hoa chỉ có một chi duy
nhất là Nelumbo và có hai loài là sen hồng (Nelumbo nucifera) và sen trắng
(Nelumbo lutea). Từ Nelumbo có nguồn gốc từ tiếng Sri Lanka nelum, để chỉ
các loài sen.
Sen hồng
Trang 5
Báo cáo thực tập thiên nhiên
Sen trắng
- Các loài trong chi Nelumbo có hoa rất giống với các loài hoa súng trong

họ Nymphaeaceae (họ Súng). Lá của các loài sen có thể phân biệt được với
lá của các loài trong họ Nymphaeaceae, do lá sen có hình khiên (lá tròn),
trong khi đó Nymphaeaceae có vết khía hình chữ V đặc trưng từ mép lá vào
tâm của lá. Quả ở trung tâm chứa các hạt của các loài cũng có đặc trưng
phân biệt và được gọi là bát sen.
Bát sen
- Thân rễ của sen hồng mọc trong các lớp bùn trong ao hay sông, hồ còn
các lá thì nổi ngay trên mặt nước. Các thân già có nhiều gai nhỏ. Hoa thường
mọc trên các thân to và nhô cao vài xentimet phía trên mặt nước. Thông
Trang 6
Báo cáo thực tập thiên nhiên
thường sen có thể cao tới 1,5 m và có thể phát triển các thân rễ bò theo chiều
ngang tới 3 m, một vài nguồn chưa kiểm chứng được cho biết nó có thể cao
tới trên 5 m. Lá to với đường kính tới 60 cm, trong khi các bông hoa to nhất
có thể có đường kính tới 20 cm.
- Có nhiều giống sen được trồng, với màu hoa dao động từ màu trắng như
tuyết tới màu vàng hay hồng nhạt. Nó có thể chịu được rét tới khu vực 5
theo phân loại của USDA. Loài cây này có thể trồng bằng hạt hay thân rễ.
b, Tầm quan trọng:
- Hoa sen là một biểu tượng cho sự thanh cao theo người Việt và nhiều
nơi khác ở châu Á. Hình ảnh tòa sen hiện diện trong ảnh thờ phụng, đặc biệt
là Phật giáo.
- Về ẩm thực:
+ Ngó sen cũng được chế biến làm thực phẩm như: gỏi ngó sen hoặc
dưa ngó sen
Gỏi củ sen Dưa ngó sen muối chua với ớt, tỏi
Trang 7
Báo cáo thực tập thiên nhiên
+ Hoa, các hạt, lá non và thân rễ ăn được. Tại châu Á, các cánh hoa
đôi khi được sử dụng để tô điểm món ăn, trong khi các lá to được dùng để

gói thức ăn. Thân rễ (ngó sen) có thể dùng chế biến nhiều món ăn (xúp,
canh, món xào) và là phần được dùng nhiều nhất. Các cánh hoa, lá non và
thân rễ có thể ăn sống, mặc dù cần quan tâm tới việc truyền các loại ký sinh
trùng sang người (chẳng hạn sán lá Fasciolopsis buski).
+ Các nhị hoa có thể phơi khô và dùng để ướp chè. Các hạt nhỏ lấy ra
từ bát sen có nhiều công dụng và có thể ăn tươi (khi non) hoặc sấy khô và
cho nổ tương tự như bỏng ngô. Hạt sen già cũng có thể luộc cho đến khi
mềm và được dùng trong các món như chè sen hay làm mứt sen.
Chè hạt sen
Cơm gói lá sen
- Lá sen có đặc điểm không thấm nước. Hiện tượng này được ứng dụng
trong khoa học vật liệu, gọi là hiệu ứng lá sen, để chế tạo các bề mặt tự làm
sạch.
Trang 8
Báo cáo thực tập thiên nhiên
- Một số thành phần của sen được sử dụng như các vị thuốc: trong đó hạt
sen được dùng làm thuốc trị các chứng mất ngủ thông thường và có tác dụng
an thần.
 Súng:
a, Đặc điểm
Chi Súng (danh pháp khoa học: Nymphaea) là một chi chứa các loài
thực vật thủy sinh thuộc họ Súng (Nymphaeaceae). Tên gọi thông thường
của các loài trong chi này, được chia sẻ cùng với một số chi khác trong họ
này, là súng. Các lá của chi Nymphaea có vết khía chữ V nối từ mép lá tới
cuống lá ở khu vực trung tâm. Chi này có khoảng 50 loài, với sự phân bố
rộng khắp thế giới.
- Súng là loài cây sống lâu năm, mọc hoang dại trong ao, mương, kênh,
rạch, láng nước, bàu trũng khắp mọi khu vực của Việt Nam. Vùng Đồng
Tháp Mười có nhiều bông súng nhất Việt Nam. Hiện tại, việc khai thác loài
hoa này còn tự phát, chưa có quy hoạch. Tuy nhiên các loài cây này có khả

năng tái sinh mạnh. Chưa thấy tài liệu nào thống kê tại Việt Nam có bao
nhiêu loài súng, mặc dù có một số tài liệu nói rằng có khoảng 5 loài. Trong
một số tài liệu có nhắc tới súng lam (Nymphaea stellata = Nymphaea
nouchali), súng đỏ (Nymphaea rubra), súng trắng (Nymphaea lotus =
Nymphaea pubescens)
- Những loài súng ở Tràm Chim – Đồng Tháp:
Trang 9
Báo cáo thực tập thiên nhiên

Súng trắng
Súng đỏ
b, Tầm quan trọng:
Tại các chợ ở miền tây Nam Bộ, có thể thấy bán những bó cọng bông
súng mập mạp nâu nâu mang bông có màu tím nhạt, cuộn tròn, tươi rói.
Trang 10
Báo cáo thực tập thiên nhiên
Bông súng cắt khúc có thể được thưởng thức bằng cách chấm mắm kho, trộn
gỏi, hay ăn sống, cũng như có thể thể xào, nấu canh.
Gỏi bông súng
Bông súng chấm mắm kho Canh bông súng nấu cá
2/ Quần xã Tràm
Rừng tràm (Melaleuca leucadendra L.) là thảm thực vật thân gỗ có diện
tích lớn nhất, diện tích khoảng 1.826 ha. Do tác động con người, hầu hết
những cánh rừng tràm nguyên sinh đã biến mất và hiện nay chỉ còn lại là
những cánh rừng tràm trồng, thuộc loài Melaleuca cajuputi (họ Myrtaceae),
nhưng do được bảo tồn nhiều năm nên có những cụm tràm phân bố theo kiểu
tự nhiên. Hai kiểu phân bố được ghi nhận: tập trung (khoảng 1.826 ha) và
tràm phân tán.
Trang 11
Vỏ cây tràm lá rộng

(Melaleuca quinquenervia) cho
thấy lớp vỏ dễ bóc.
Đây là một góc rừng tràm,
nhìn từ đài quan sát thật
đúng là: “ mênh mông rừng
tràm”
Báo cáo thực tập thiên nhiên
Tràm phân tán có sự hiện diện thảm cỏ xen kẽ gồm các loài Năng ống
(Eleocharis dulcis), Cỏ Mồm (Ischaemum rugosum và I. indicum), hoàng
đầu Ấn (Xyris indica), Nhĩ Cán Vàng (Utricularia aurea), Cỏ Ống
(Panicum repens), Súng (Nymphaea lotus), Cú Muỗi
(Caprimulgusmaeruru), chèo Bẻo (Dicrurus macrocercus), Hút Mật
(Aethopiga siparaja), Vành Khuyên (Zosterops palpebrosa), Chim Sẻ
(Carpodacus erythrinus), Én (Apus affinis), Rẻ Quạt (Rhipidura albicollis),
Chích Chòe (Lucustella lanceolata)
Những loài chim thường gặp: Cò Trắng (Egretta garzetta), Cò Bợ
(Ardeola bacclus), Cò Lửa (Ixobrychus sinensis), Cò Lép, Vạc (Nycticorax
nycticorax), Diệc Lửa (Ardea purpurea), Diệc Xám (Ardea cinerea), Điêng
Điểng (Anhinga melanogaster), cồng cộc (Pharacrocoraxniger), Tu Hú, Cú
Ngói (Streptopelia Tranquebarica), Cú Cườm (Caprimulgusmaerurus), Cú
(Tyto Capensis).
a, Đặc điểm:
- Tràm (Melaleuca leucadendra L.) là cây gỗ lâu năm, cao tới 2–30 m,
lớp vỏ cây dễ tróc.

- Lá của chúng là thường xanh, mọc so le, hình trứng hay mũi mác, dài 1-
25 cm và rộng 0,5-7 cm, mép lá nhẵn, màu xanh lục sẫm hay xanh xám.
Trang 12
Tràm lá dài (Melaleuca
leucadendra)

Báo cáo thực tập thiên nhiên

- Cây ra hoa hàng năm từ tháng 1 đến tháng 5, nở rộ từ tháng 3 đến tháng
4, hoa mọc thành cụm dày dặc dọc theo thân, mỗi hoa với các cánh hoa nhỏ
và một chùm nhị mọc dày dặc; màu hoa từ trắng tới hồng, đỏ, vàng nhạt hay
ánh lục. Hoa tràm thụ phấn nhờ ong và côn trùng. Mùa hoa tràm rộ cũng là
mùa xuất hiện ong mật tự nhiên và cũng là thời điểm thường xảy ra những
vụ cháy rừng do sự bất cẩn của những người dân vào Vườn thu mật ong.
- Quả là dạng quả nang nhỏ chứa nhiều hạt nhỏ.

Hoa và quả tràm
Trang 13
Báo cáo thực tập thiên nhiên
Do đặc điểm của rừng tràm như trên, nên các cơ quan quản lý Vườn cần có
những biện pháp chống cháy rừng vào thời điểm lượng rơi trên sàn rừng cao vào
mùa khô.
b, Tầm quan trọng:

- Nhìn chung, mùa ra hoa các loài ưu thế trên và các loài cây thảo khác
thường xảy ra vào mùa khô. Có lẽ vào mùa này sự thụ phấn xảy ra dễ dàng
hơn đối với các loài cỏ hoặc đó là mùa thuận lợi cho hoạt động của các loài
côn trùng - những tác nhân thụ phấn và phát tán hạt giống của thực vật.
- Thân tràm rất cứng và chịu được nước nên tràm được sử dụng để đóng
cừ tràm, để làm nhà,… rất bền chắc.

- Lá tràm được sử dụng cho nhiều mục đích y học, như nhai lá non để
giảm đau đầu hay cho các mục đích chữa trị khác.
- Độ mềm và dẻo của tràm làm cho nó trở thành cây cực kỳ hữu ích trong
vai trò của vật liệu xây dựng các túp lều.
- Tinh dầu tràm là thành phần hoạt hóa trong Burn-Aid, một loại thuốc

phổ biến để sơ cứu các vết bỏng nhỏ.
3/ Quần xã Mồm mốc
Đồng Cỏ Mồm (Ischaemum spp.); chiếm diện tích khá nhỏ so với các
cộng đồng thực vật khác, khoảng 41,8 ha. Bao gồm mồm đơn thuần và quần
xã mồm - Cỏ Ống (Ischaemum spp Panicum repens). Phân bố hiện diện
chủ yếu trên những dải liếp, bờ đất có địa hình cao cục bộ trong một vùng
địa hình thấp.
Trang 14
Những thân tràm cắm sâu vào đất
phèn, vươn cao chọc thẳng lên bầu
trời
Báo cáo thực tập thiên nhiên
Quần xã mồm mốc
Những loài chim thường gặp: Cồng Cộc (Pharacrocoraxniger), Chiền
Chiện (Prinia flaviventris), Cò Bợ (Ardeola bacclus), Cò Lửa (Ixobrychus
sinensis), Cút nhỏ (Turnix syluatica), Diệc Lửa (Ardea purpurea), Diệc Xám
(Ardea cinerea), Cú (Tyto capensis), Giang Sen (Mycteria leucocephala),
Già Đãy (Leptoptilos dubius).
a, Đặc điểm:
- Hình dáng : Cỏ đứng hay bò ở gốc, cao 0,3 - 1,2m, thường phân nhánh
ở gốc với các thân hơi dẹt, mềm, ruột đỏ tím.
Trang 15
Báo cáo thực tập thiên nhiên

- Lá: Lá hình mũi mác, đầu nhọn, gốc hình tim, lá dài 10 - 25 cm, rộng
1 cm, phiến phẳng và cứng, trơn hay có lông mềm, mép bén, bẹ lá mảnh,
tròn ở gốc, trơn hay có lông, mép lá ngắn hay gần như không có.
- Hoa: Hoa tạo thành cụm gồm 2 - 3 chùm thẳng, dài 5 - 12 cm. Gié cao
4-8 cm; gié hoa cao 3,5 - 6 mm, vàng, lông gai dài bằng 1 - 2 lần gié hoa.
- Trái: Trái hình xoan thuôn, hơi dẹt.

- Mồm mốc sinh trưởng tốt trong môi trường nước. Cây ra hoa 2 đợt: đợt
1 từ tháng 5 đến tháng 7, rộ vào tháng 6; đợt 2 từ tháng 11.
- Nơi sống: Mọc hoang ở Ấn Ðộ, Myanma, Nam Trung Hoa, Campuchia,
Lào, thường gặp ở ven đường bờ nước tại vùng đồng bằng và Trung du Việt
Nam, phổ biến ở Đồng Tháp, đây là loài cỏ lâu năm của các vùng đầm lầy,
đất thấp, có thời kỳ ngập nước ngọt không dài, mức độ ngập ít nhưng đất ẩm
gần như quanh năm, phát triển tốt trên loại đất khá mầu mỡ và sâu như các
bãi phù sa bồi ven sông, loài cỏ này có khả năng chịu mặn nên cũng thường
tạo nên các đám cỏ rộng ở các bãi đất cát ẩm ven biển hay phía sau các vùng
rừng sát nam Việt Nam, trổ hoa vào tháng 12 - 2 dương lịch.
Trang 16
Cỏ mồm (Ischaemum
spp.)
Báo cáo thực tập thiên nhiên

Rừng tràm với sự xen kẽ của cỏ mồm
b, Tầm quan trọng:
- Là thức ăn của các động vật ăn cỏ như trâu, bò,…
- Còn là bãi đậu lý tưởng của các loài chim.



Trang 17
Đàn trâu và các loài chim
trên đồng cỏ mồm
Báo cáo thực tập thiên nhiên
4/ Quần xã năng
Đồng cỏ Năng chiếm diện tích khoảng 2.968 ha, tạo thành một trong
những thảm cỏ rộng lớn; bao gồm đồng cỏ Năng kim (Eleocharis
atropurpurea) - đây là bãi ăn của loài chim Sếu- khoảng 235 ha, Năng ống

(Eleocharis dulcis), 1.277 ha, và hợp với các loài khác tạo thành các quần xã
thực vật: Năng Kim – Năng ống, vài nơi xuất hiện của hoàng đầu Ấn (Xyris
indica); Năng Kim - Cỏ Ống (E. atropurpurea – P. repens); Năng ống - Cỏ
Ống (E. dulcis – P.repens), khoảng 937 ha; Năng ống - Cỏ Ống – Lúa Ma
(E. dulcis - P. repens – O.rufipogon), 443 ha; Năng ống - Cỏ Ống - Cỏ Chỉ
(E. dulcis - P. repens–C.dactylon),khoảng72ha.
Những nơi có địa hình thấp và ngập nước quanh năm thì xen lẫn trong
quần xã Năng là những loài thực vật thủy sinh như Nhĩ Cán Vàng
(Utricularia aurea), Súng Ma (Nymphaea indicum), Rong Đuôi Chồn
(Ceratophyllum demersum).
Những loài chim thường gặp: Sếu (Grus antigone), Cò Trắng (Egretta
garzetta), Cò Bợ (Ardeola bacclus), Trích Cồ, Trích Đất, Vịt Trời (Anas
poecilorhyncha), Le Khoang Cổ (Nettapus coromandelianus), Diệc Lửa
(Ardea purpurea), Diệc Xám (Ardea cinerea), Cò Lửa (Ixobrychus
sinensis), Cò Lép.
a, Đặc điểm:
Chi Cỏ năng (danh pháp khoa học: Eleocharis) là một chi thực vật, bao
gồm khoảng 200-250 loài trong họ Cói (Cyperaceae). Chúng được gọi chung
là (cỏ/củ) năn(g).
Trang 18
Báo cáo thực tập thiên nhiên

Nói chung, cỏ năng là các loài cỏ dại có thân đặc, thường sống thủy sinh.
Chúng có các lá bị suy giảm xung quanh phần gốc của thân; những cái trông
giống như lá trên thực tế là thân nhưng chúng thực hiện phần lớn các chức
năng quang hợp cho cây. Một số loài có thân luôn luôn mọc ngầm dưới
nước. Các loài này có xu hướng sử dụng cơ chế cố định cacbon C3. Các hoa
mọc thành các bông con tụ tập dày. Phần lớn các loài mọc lên từ các thân rễ,
và vài loài có thân củ. Phần lớn các loài trông khá giống nhau, với một cụm
hoa ở trên đầu của phần thân đơn. Eleocharis được tìm thấy khắp mọi nơi

trên thế giới. Một trong những loài được biết đến nhiều nhất là cỏ năng ống
(Eleocharis dulcis).
 Năng ống, năng ngọt (Eleocharis dulcis (Burm.f.) Hensch.)
- Cỏ nhiều năm, có thân rễ (có khi có củ nhỏ hình cầu dẹp bên dưới).
Thân hình trụ, cao 0,4 - 1,5 m, rộng 3 - 5 mm, có màng ngăn ngang. Lá
tiêu giảm, còn bẹ ngắn. Bông chét hình trụ, dài 1,5 - 6 cm, bằng hoặc
rộng hơn thân, có nhiều hoa, vảy hình chữ nhật hay tam giác, có một gân
giữa nổi rõ và nhiều gân bên, màu nâu nhạt, xếp sát bên. Bao hoa 6 - 8
mảnh, bằng hay dài gấp đôi quả, có lông cứng hướng xuống. Quả hình
trứng ngược hay bầu dục, dẹp, hai mặt lồi, đầu nhụy xẻ 2 - 3. Năng ống
ra hoa quả từ tháng 3 - 12.
Trang 19
Cỏ năng ống (Eleocharis
dulcis)
Hoa cỏ năng
Báo cáo thực tập thiên nhiên




- Vào mùa lũ thân năng ống có thể dài ra nhiều mét. Cây thường mọc
thuần trên đất phèn hoặc gặp rải rác trong kênh nước phèn. Loài này thường
gặp trong nước ngọt, lợ cho đến mặn. Điều đó chứng tỏ loài năng ống có
biên độ sinh thái về độ mặn rộng. Năng ống khi sống trong môi trường nước
hoặc nơi có độ ẩm cao, cây sinh trưởng tốt, thân cây to và rất dài có khi dài
từ 2-4m.
 Năng kim (Eleocharis ochrostachys Steud.)
- Cỏ nhiều năm, có thân rễ và có củ nhỏ. Thân mảnh, hình trụ hay hơi có
cạnh, mọc thành bụi thưa, cao 20 - 60 cm, to 2 - 3 mm. Lá tiêu giảm, còn
bẹ. Bông chét hình trụ hay hơi có cạnh, dài 0,5 - 2 cm, rộng 3 - 4 mm, ít

hay nhiều hoa, vảy có hình gần chữ nhật, hơi bầu, dài 4 - 5 mm, rộng 2 -
Trang 20
Năng ống (Eleocharis
dulcis)
Năng kim (Eleocharis
ochrostachys Steud.)
Cỏ năng kim (Eleocharis ochrostachys
Steud.) mọc xen kẽ Hoàng đầu Ấn
(Xyris indica)
Báo cáo thực tập thiên nhiên
3,5 mm, đỉnh tù, đáy hơi lượn và lồi, 2 cạnh bên gần song song, một gân
giữa nổi rõ, màu nâu. Bao hoa 5 - 7 mảnh, dài gấp 2 - 3 lần quả, phía
trên có lông cứng hướng xuống. Quả hình trứng ngược hay bầu dục
rộng, dẹp, 2 mặt lồi, dài 1,5 - 2 mm, rộng 1 - 1,5 mm, có gân dọc, màu
vàng; góc vòi nhụy hình tháp; đầu nhụy xẻ 3. Mùa ra hoa, quả tháng 9 -
11. Cây mọc nhiều ở Đồng Tháp, ruộng nhiều phèn ở vùng Tràm Chim,
Đức Hòa, đất ẩm, lầy.


- Cây năng kim bắt đầu cho củ vào đầu mùa khô (tháng 1) cho đến tháng
5 thì cây tàn lụi. Trong thời gian cây cho củ thì Sếu đầu đỏ bắt đầu về vì củ
năng kim là thức ăn chủ yếu của sếu.
- Khi cây tàn lụi thì sếu cũng rời khỏi nơi đây. Vì vậy muốn duy trì số lượng
sếu về VQG hàng năm thì cần có những biện pháp phát triển bền vững cây
năng kim này.
b, Tầm quan trọng:
Trang 21
Báo cáo thực tập thiên nhiên
- Là thức ăn không thể thiếu của loài sếu đầu đỏ khi đến mùa chúng bay
về Vườn Quốc Gia Tràm Chim.


Sếu đang hạ cánh trên đồng cỏ năng
ở Vườn Quốc Gia Tràm Chim
- Năng ống được dân Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau làm thành nhiều món
ăn “nhớ đời”. Dù làm thành món gì người ta cũng phải bóc bỏ vỏ, cắt bỏ
đoạn năng ống già, giữ lại phần gốc non trắng ngà, nhẹ bỗng như xốp, dài
chừng 3 tấc. Đơn giản nhất là dùng năng ống chấm cá kho, thịt kho, mắm
kho. Món năng ống xào tép bạc chấm nước mắm trong giằm trái ớt hiểm
dùng chung với cơm trắng, hoặc món năng ống xào thịt nghêu hoặc hến.
- Dưa chua cũng là “món ruột” của đồng bào miền Tây Nam bộ. Năng
ống làm dưa cũng là món rất được nhiều người ưa thích. Chưa hết, năng ống
còn được dùng nấu canh cá hoặc thịt đều đem lại vị ngọt trong bữa cơm.
- Năng ống còn có dược tính. Chất xơ của năng ống ngoài giúp điều hòa
bài tiết, còn có công dụng ức chế hoạt động của các vi sinh vật kỵ khí, thúc
đẩy vi sinh vật hiếu khí (có lợi cho tiêu hóa) sinh trưởng, làm cho lượng hình
thành choleic trong đại tràng giảm xuống. Theo dân gian, năng ống còn chữa
được chứng ban đỏ ở trẻ nhỏ. Đặc biệt người vừa hết bệnh ăn năng ống sẽ
nhanh chóng phục hồi sức khỏe.
Trang 22
Cỏ năng ống được bán ở các
chợ miền Tây
Báo cáo thực tập thiên nhiên

Năng ống là món quê nhưng chẳng quê chút nào. Tiếc rằng đó chỉ là
những món ăn được dùng trong bữa cơm gia đình tại mảnh đất Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Cà Mau, chứ chưa phổ biến rộng khắp.
5/ Quần xã Cỏ Ống
Đồng Cỏ Ống (Panicum repens); Cỏ Ống phân bố trên một diện rộng,
chiếm diện tích khoảng 958,4 ha, ở dạng đơn thuần với mật độ lên đến 98%
hoặc cùng xuất hiện với các loài thực vật thân thảo khác: Cỏ Ống - Cỏ Xã

(Panicum repens - Cymbopogon citratus), khoảng 23 ha, chủ yếu trên đất
giồng cổ; Cỏ Ống – Lúa Ma (Panicum repens – Oryza rufipogon), khoảng
268 ha; Cỏ Ống - Cỏ Chỉ (Panicum repens – Cynodon dactylon), khoảng 50
ha; Cỏ Ống – mai dương (Panicum repens – Mimosa pigra), khoảng 86 ha,
đây là khu quần xã Cỏ Ống bị mai dương (Mimosa pigra) xâm hại.

Quần xã cỏ ống
(Panicum repens)
Trang 23
Báo cáo thực tập thiên nhiên
Những loài chim thường gặp: Công Đất (Houbaropsis bengalensis),
Chiền Chiện (Prinia flaviventris), Sơn Ca (Alauda gulgula), Sẻ Bụi
(Saxicola caprata), Trảu Đầu Hung (Merops superciliosus), Cú (Tyto
capensis), Trích, Cò (Ardeola bacclus), Giang Sen (Mycteria leucocephala),
Già Đãy (Leptoptilos dubius), Chích Đầm Lầy (Locustella certhiola).
a, Đặc điểm:
- Hình dáng: Cỏ đa niên, căn hành, mọc bò giống củ gừng, vàng dợt, có
vảy, đầu nhọn như cựa gà lúc còn non, thân bọng, dài 1,2m, bò và mang rễ
gốc, thẳng đứng ở trên, tròn, khía rãnh mang các lông dài 5 - 7cm.
- Lá: Lá đơn mọc cách, hình mũi mác hẹp, đầu nhọn tròn hay hình kim ở
đáy. Cứng, thẳng không lông, trừ rìa lông ở bẹ và chân lá; màu xanh mốc ở
mặt trên, xanh đậm ở mặt dưới.
- Hoa: Hoa hợp thành chùm tụ tán thẳng đứng ở ngọn, hẹp, phân nhánh
không đều, cao 7 - 20cm, gié hoa xanh rồi trắng, cao 3mm.
- Nơi sống: Cỏ ống phân bố rộng rãi ở khắp các vùng nhiệt đới, là loại
cây ưa cát (Arenophile) và đầm lầy, thườøng gặp từ các vùng ven biển đến
núi cao 1100%m, đây là loại cây có khả năng chịu mặn giỏi, chịu được phèn
và có khả năng chịu được lũ lụt nên thường tạo thành những bãi cỏ tốt ở ven
các cửa sông, cả trên đất rừng sát, ưa đất cát hay phù sa cát, kể cả các đụn
cát ven biển có độ ẩm cao, trên đất thịt nặng, nơi thường úng nước lâu ngày

thì ít thấy cỏ mọc, trổ hoa vào tháng 5 - 7 dương lịch.
b, Tầm quan trọng:
- Bộ phận dùng: Thân rễ - Rhizoma Panici Repentis.
- Tính vị, tác dụng: Cỏ ống có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, không độc, có
tác dụng hành huyết, lương huyết, lợi tiểu, tiêu thũng, giải độc, sát trùng
đường tiết niệu.
- Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng trị: 1. Phong thấp nhức
mỏi, bại sụi 2. Ðàn bà huyết nhiệt, kinh nguyệt không đều, bạch đới; 3.
Viêm thận và bàng quang; 4. Trẻ em kinh phong, sốt cao, tiểu ít hoặc bí đái,
ban sởi; 5 Giải độc ăn uống; 6. Phát ban da, đơn độc, rắn cắn. Ngày dùng 10-
20g sắc uống, thường đun sôi 10 phút rồi hãm trong 1/2 giờ.
- Ðơn thuốc: Chữa rắn cắn, chó cắn, dùng Củ cỏ ống, Củ sả, Củ bồ bồ,
Vỏ gáo vàng, Phèn phi, trái Chanh giấy. Cân lượng đồng đều, bao nhiêu
cũng được. Lúc gấp hiệp chung, quết nhừ, vắt lấy nước uống, xác đắp chỗ
đau. Lúc hoãn, tán ra bột, vò viên bằng hạt tiêu, mỗi lần uống 5-10 viên
(kinh nghiệm ở An Giang).
Trang 24
Lúa ma (Oryza
rufipogon Griff)
mọc xen kẻ với
các loại cỏ khác
Báo cáo thực tập thiên nhiên
6/ Quần xã Lúa Ma
Đồng Lúa Ma (Oryza rufipogon); phân bố khá rộng, chiếm diện tích
khoảng 824 ha. Tuy nhiên, cánh đồng Lúa Ma (Oryza rufipogon) đơn thuần
có diện tích khá nhỏ, khoảng 33 ha, diện tích còn lại có sự hiện diện của Lúa
Ma là sự kết hợp với những loài thực vật khác tạo thành những quần xã thực
vật đặc trưng cho vùng đất ngập nước: Lúa Ma - Cỏ Ống (O. rufipogon –
Panicum repens), khoảng 544 ha; Lúa Ma - Cỏ Bắc (Oryza rufipogon -
Leersia hexandra), khoảng 160 ha; Lúa Ma - Cỏ Ống - Cỏ Chỉ (O.

rufipogon – P. repens – C. dactylon), khoảng 83 ha.

Hầu như tất cả các loài chim trong Tràm Chim đều thích với đồng Lúa Ma,
kể cả Sếu đầu đỏ, sinh cảnh này đa dạng sinh học rất cao.
a, Đặc điểm:
Lúa ma (Oryza rufipogon Griff): cỏ sống nhiều năm, có thân nằm rồi
đứng, dài 1,5 - 4 m, thân to 4 - 6 mm, lóng dài 10 cm. Lá có phiến dài 20
cm, rộng 1 cm; mép lá có rìa lông. Cụm hoa đứng cao 10 - 15 cm; gié hoa
màu vàng nâu dài 7 - 9,5 mm, rộng 1,8 - 1,9 mm, có lông gai dài đến 11 cm.
Lá, thân cho trâu ăn, hạt là thức ăn cho chim. Mọc ở dựa rạch, ven bờ
mương, ruộng nước sâu. Cây phân bố rộng rãi khắp Nam bộ, rất nhiều ở
Đồng Tháp. Vào mùa mưa (mùa lũ), thân cây vươn dài theo mực nước dâng
cao (ngoi lên theo nước ngập).
Trang 25

×