Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.36 KB, 114 trang )

1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ LẬP, TRÌNH BÀY VÀ PHÂN TÍCH
BÁO CÁO TÀI CHÍNH.
1.1Tính cấp thiết của đề tài
1.1.1. Về góc độ lý thuyết
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang bước đầu hội nhập với nền
kinh tế thế giới việc các doanh nghiệp phải chuyển mình để hội nhập là điều
tất yếu. Để hội nhập các doanh nghiệp phải tăng cường sản xuất kinh
doanh,mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh cả về chiều sâu lẫn chiều rộng,
thu hút được sự đầu tư và quan tâm của nhiều đối tác. Điều quan tâm đầu tiên
của các đối tác, các nhà đầu tư, các nhà hoạch định chính sách là những
thông tin này có trung thực và hợp lý, khách quan hay không. Tất cả đều được
thể hiện trên Báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính là nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho tất cả các
đối tượng trong và ngoài doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là những báo cáo
tổng hợp nhất về tình hình tài sản, công nợ nguồn vốn chủ sở hữu cùng như
tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể
nói, báo cáo tài chính là một bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, trên báo cáo tài chính có thể trình bày khả năng sinh
lời và thực trạng tài chính của doanh nghiệp cho tất cả các đối tượng quan
tâm. Như vậy báo cáo tài chính doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng. Chính
vì vậy, thông tin trình bày trên báo cáo tài chính phải trung thực, hợp lý,
khách quan để những người sử dụng thông ti báo cáo tài chính có thể đánh giá
được chính xác tình hình tài chính của đơn vị từ đó sẽ có những quyết định
kinh doanh đúng đắn.
Để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cả nước hệ thống kế toán Việt
Nam hiện nay đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện, nhất là hệ thống
2
các chuẩn mực kế toán quốc gia. Trước những yêu cầu mới, chuẩn mực kế
toán số 21 “Trình bày báo cáo tài chính”, chuẩn mực kế toán số 25 “Báo cáo


tài chính hợp nhất và kế toán khoản đầu tư vào công ty con” ngày 30/12/2003
của Bộ trưởng Bộ Tài chính theo quyết định số 234/2003/QĐ-BTC và thông
tư hướng dẫn số 23/1999/TT-BTC ngày 26 tháng 02 năm 1999 về hướng dẫn
lập và kiểm tra báo cáo tài chính đã được xây dựng hướng dẫn các doanh
nghiệp lập, trình bày báo cáo tài chính theo đúng chế độ hiện hành.
1.1.2. Về góc độ thực tế.
Thực tế hiện nay, ở nhiều doanh nghiệp, BCTC không đảm bảo đúng
chức năng vai trò của mình, các thông tin trên BCTC bị sai lệch do kế toán
lập và trình bày BCTC không tuân thủ các quy định của chuẩn mực, gây mất
lòng tin của các cơ quan chức năng, của các nhà đầu tư và đối tác.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang ngày một phát triển, các nhà
đầu tư càng có nhiều cơ hội tìm kiếm các doanh nghiệp có tiềm năng để đầu
tư hơn, và các doanh nghiệp cũng có không ít những cơ hội thu hút vốn. Đặc
biệt là sự tham gia vào thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài
càng khiến các doanh nghiệp chạy đau để thu hút vốn từ nguồn đầu tư có triển
vọng này. D vậy, việc minh bạch, hợp lý trong lập và trình bày báo cáo tài
chính là yếu tố cần thiết trong cuộc đua. Đặc biệt, đối với những Tập đoàn,
TCT có quan hệ công ty mẹ, công ty con do tính phức tạp trong quá trình lập
và trình bày BCTC tổng hợp hoặc BCTC hợp nhất thì những yêu cầu đặt ra
đối với BCTC vô cùng quan trọng.
Tại TCT công nghiệp ô tô Việt Nam, do đặc thù hoạt động kinh doanh
như quy mô lớn, nhiều công ty thành viên. Bên cạnh đó, TCT vẫn còn những
tồn tại và hạn chế như: Cở sở số liệu để lập và trình bày BCTC không chắc
chắn; Các thông tin trong báo cáo còn thiếu chính xác theo từng chỉ tiêu cụ
thể; Biểu mẫu báo cáo còn có chỗ chưa phù hợp chưa thuận tiện; Công tác
3
phân tích báo cáo tài chính chưa được chú trọng; Nội dung phân tích còn đơn
điệu; Phương pháp phân tích còn bó hẹp; Kết quả phân tích chưa phát huy tác
dụng.
Nhằm đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin có chất lượng cao, chính

xác, kịp thời, dễ hiểu, dễ sử dụng cho các nhà quản trị tại Tổng công ty công
nghiệp ô tô Việt Nam, vấn đề Lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính
thực sự là vấn đề cấp thiết cần được sớm nghiên cứu và đưa vào thực hiện
1.2 Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài
Xuất phát từ nhận thức trên, để góp phần vào việc cải tiến hoàn thiện
nhằm nâng cao hiệu quả trong việc lập, trình bày và phân tích báo cáo tài
chính tại Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam, tác giả đã chọn đề tài
“Lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty công
nghiệp ô tô Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá công tác lập, trình bày và
phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam luận
văn nhằm mục đích:
- Làm rõ các vấn đề lý luận về công tác lập, trình bày và phân tích Báo
cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá, tổng kết thực tiễn về việc lập, trình bày và phân
tích báo cáo tài chính, đề xuất các quan điểm có tính nguyên tắc cho việc
hoàn thiện lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính, nâng cao chất lượng
quản lý tài chính tại Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam theo chuẩn
mực kế toán Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, luận văn sẽ đưa ra các giải pháp
hoàn thiện lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty công
nghiệp ô tô Việt Nam.
1.4 Các câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu.
4
Nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu, đề tài đã đặt ra một số câu hỏi cần
làm rõ về lý luận và thực tiễn. Trọng tâm của đề tài xoay quanh một số câu
hỏi chính sau:
- Thực trạng lập, trình bày và phân tích BCTC tại TCT công nghiệp ô tô
Việt Nam?

- Những tồn tại trong việc lập, trình bày và phân tích BCTC tại TCT
công nghiệp ô tô Việt Nam? Các giải pháp và hướng hoàn thiện lập, trình bày
và phân tích BCTC tại TCT công nghiệp ô tô Việt NAm phù hợp với đặc thù
hoạt động sản xuất kinh doanh và phân cấp quản lý của TCT, và phù hợp với
chuẩn mực kế toán Việt Nam?
- Dựa vào việc lập và trình bày báo cáo tài chính, TCT công nghiệp ô tô
Việt Nam đã tiến hành phân tích báo cáo tài chính như thế nào? Sử dụng các
chỉ tiêu đặc trưng nào?
- Sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán
Quốc tế về việc lập, trình bày báo cáo tài chính?
- Sự khác biệt giữa Việt Nam và Quốc tế về các chỉ tiêu, bảng biểu sử
dụng trong việc phân tích báo cáo tài chính?
1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Do hạn chế về mặt thời gian, đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập
chủ yếu đến lập và trình bày hai loại báo cáo trong hệ thống báo cáo tài chính
đó là Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về lập, trình bày và
phân tích báo cáo tài chính theo VAS 21, VAS 25 và thực tiễn về công tác
lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty công nghiệp ô tô
Việt Nam. Dựa trên lập và trình bày báo cáo tài chính để tiến hành phân tích
một cách tổng quan tình hình tài chính của Tổng công ty thông qua phân tích
báo cáo tài chính.
1.6 Ý nghĩa của nghiên cứu.
5
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến quá trình lập,
trình bày và phân tích báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh nói chung và Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt nam nói riêng, so
sánh các chuẩn mực kế toán quốc tế và Việt Nam có liên quan. Ngoài ra, đề
tài cũn phát triển lý luận về lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính tại
doanh nghiệp theo mô hình TCT ở Việt Nam.

Luận văn góp phần phản ánh đúng thực trạng công tác lập và trình bày
báo cáo tài chính tại Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam, đánh giá
những mặt đã đạt được và những mặt còn tồn tại về công tác lập, trình bày và
phân tích báo cáo tài chính của Tổng công ty. Từ đó kiến nghị một số giải
pháp có luận cứ lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập,
trình bày và phân tích báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh nói chung và tại Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam nói riêng.
1.7 Kết cấu luận văn.
Với tên đề tài luận văn: “Lập, trình bày và phân tích báo cáo tài
chính tại Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam”, ngoài phần mở đầu, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn gồm 4 chương:
Chương I: Tổng quan nghiên cứu về lập, trình bày và phân tích báo cáo tài
chính.
Chương II: Tóm lược một số vấn đề lý luận về lập, trình bày và phân tích
báo cáo tài chính.
Chương III: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng
lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty công nghiệp
ô tô Việt Nam.
Chương IV: Các kết luận, thảo luận và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty công
nghiệp ô tô Việt nam.
6
CHƯƠNG II
TÓM LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẬP, TRÌNH BÀY VÀ
PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
2.1 Một số định nghĩa, khái niệm cơ bản liên quan đến lập, trình bày và phân
tích báo cáo tài chính.
2.1.1 Khái niệm báo cáo tài chính.
• Báo cáo tài chính.
7

Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất, là bức tranh toàn cảnh về
tình hình tài sản, nguồn vốn cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong
kỳ của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính cung cấp thông tin kinh tế tài chính đáng tin cậy về hoạt
động của một thực thể kinh tế và phục vụ rộng rãi các đối tượng sử dụng thông tin
này ở bên trong và bên ngoài của một thực thể kinh tế.
Như vậy về bản chất BCTC là một hệ thống thông tin được xử lý bởi hệ
thống kê toán tài chính, nhằm phục vụ cho các đối tượng sử dụng, cung cấp thông
tin tài chính có ích cho các đối tượng sử dụng đó, để đưa ra các quyết định quản lý
kinh tế. Tuy nhiên, hình thức và nội dung của các báo cáo tài chính còn phụ thuộc
vào cơ chế kinh tế và sự quy định của mỗi quốc gia.
Trong hệ thống kế toán Việt Nam, BCTC được xác định là loại báo cáo tổng
hợp về tình hình tài sản, nguồn vốn cũng như tình hình và kết quả hoạt động của
DN trong một thời kỳ nhất định, được thể hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu có
mối liên hệ mật thiết với nhau do Nhà nước quy định thống nhất bắt buộc.
* Bảng cân đối kế toán (B01-DN)
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát
toàn bộ tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một
thời điểm nhất định.
Bảng cân đối kế toán có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý doanh
nghiệp. Số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ tài sản hiện có của doanh
nghiệp theo cơ cấu tài sản và nguồn vốn theo cơ cấu hình thành các loại tài sản đó.
Bảng cân đối kế toán được trình bày thành hai phần luôn bằng nhau:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
* Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (B02-DN)
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp về tình
hình và kết quả kinh doanh, phản ánh thu nhập của hoạt động chính và các hoạt
động khác qua một thời kỳ kinh doanh.
8
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về

tình hình tài chính và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động kỹ thuật và
trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, theo quy định ở Việt Nam, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh còn có thêm phần kê khai tình hình thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp đối
với ngân sách Nhà nước và tình hình thực hiện thuế VAT.
2.1.2 Khái niệm phân tích báo cáo tài chính.
Phân tích báo cáo tài chính là quá trình thu thập thông tin, xem xét, đối
chiếu, so sánh số liệu về tình hình tài chính hiện hành và quá khứ của công ty, giữa
đơn vị và chỉ tiêu bình quân ngành để từ đó có thể xác định được thực trạng tài
chính và tiên đoán cho tương lai về xu hướng, tiềm năng kinh tế của công ty nhằm
xác lập một giải pháp kinh tế, điều hành, quản lý, khai thác có hiệu quả để được lợi
nhuận mong muốn. Hay nói cách khác, phân tích báo cáo tài chính là việc xem xét,
kiểm tra về nội dung, thực trạng, kết cấu các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính; từ đó so
sánh, đối chiếu tìm ra năng lực, nguồn tài chính tiềm tàng và xu hướng phát triển tài
chính của doanh nghiệp nhằm xác lập các giải pháp khai thác sử dụng nguồn tài
chính có hiệu quả.
Vậy, phân tích báo cáo tài chính thực chất là phân tích các chỉ tiêu tài chính
trên hệ thống báo cáo hoặc các chỉ tiêu tài chính mà nguồn thông tin từ hệ thống
báo cáo nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cung cấp thông tin
cho mọi đối tượng có nhu cầu theo những mục tiêu khác nhau.
2.1.3 Một số định nghĩa liên quan đến báo cáo tài chính.
Tài sản ngắn hạn là chỉ tiêu kinh tế phản ánh tổng giá trị tiền, các khoản
tương đương tiền và các tài sản ngắn hạn khác có thể chuyển đổi nhanh thành tiền
hoặc có thể bán hay sử dụng trong vòng một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh
bình thường của doanh nghiệp có đến thời điểm lập báo cáo tài chính.
Tài sản dài hạn là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh tổng giá trị các khoản tài sản
dài hạn có đến thời điểm lập báo cáo tài chính
Tài sản dài hạn là tài sản có thời gian sử dụng, luân chuyển trên một năm
hoặc hơn một chu kỳ kinh doanh.
9

Nợ phải trả là nguồn vốn kinh doanh được huy động từ các doanh nghiệp,
các tổ chức và cá nhân ngoài chủ sở hữu mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả.
Trên bảng cân đối kế toán, nợ phải trả là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ số nợ
phải trả tại thời điểm lập báo cáo tài chính bao gồm: Nợ ngắn hạn và nợ dài hạn.
Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn kinh doanh được đầu tư từ các chủ doanh
nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp hoàn toàn có quyền chủ động sử dụng
vào mục đích kinh doanh, không phải thanh toán hoàn trả như nguồn vốn nợ phải
trả (trừ khi có quyết định rút vốn của chủ sở hữu).
2.2 Một số lý thuyết về lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính.
2.2.1 Lý thuyết về lập và trình bày báo cáo tài chính
2.2.1.1 Yêu cầu lập và trình bày báo cáo tài chính.
- Báo cáo tài chính phải trình bày một cách trung thực và hợp lý tính hình tài
chính, tình hình và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp. Để đảm
bảo yêu cầu trung thực và hợp lý, các báo cáo tài chính phải được lập và trình bày
trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định có liên
quan hiện hành.
- Doanh nghiệp cần nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính là báo
cáo tài chính được lập và trình bày phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt
Nam. Báo cáo tài chính được coi là lập và trình bày phù hơp với chuẩn mực và chế
độ kế toán Việt Nam nếu báo cáo tài chính tuân thủ mọi quy định của từng chuẩn
mực và chế độ kế toán hiện hành hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kế toán Việt nam
của Bộ tài chính.
Trường hợp doanh nghiệp sử dụng chính sách kế toán khác với quy định của
chuẩn mực và chế độ kế toán Việt nam, không được coi là tuân thủ chuẩn mực và
chế độ kế toán hiện hành dù đã thuyết minh đầy đủ trong chính sách kế toán cũng
như trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
- Để lập và trình bày báo cáo tài chính trung thực và hợp lý, doanh nghiệp
phải:
+ Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với các quy định;
+ Trình bày các thông tin, kể cả các chính sách kế toán, nhằm cung cấp thông tin

phù hợp, đáng tin cậy, so sánh được và dễ hiểu;
10
+ Cung cấp các thông tin bổ sung khi quy định trong chuẩn mực kế toán không
đủ để giúp cho người sử dụng hiểu được tác động của những giao dịch hoặc những
sự kiên cụ thể đến tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
2.2.1.2 Nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính.
Các BCTC được lập là cả một quá trình phức tạp trong việc lựa chọn các
phương pháp kế toán, nguyên tắc kế toán và vận dụng chúng một cách hợp lý. Vì
vậy, để BCTC cung cấp được những thông tin hữu ích cho mọi đối tượng sử dụng
thì BCTC phải được lập và trình bày dựa trên những nguyên tắc, chuẩn mực kế toán
quốc gia.
a. Tính dễ hiểu
Chất lượng cơ bản của thông tin do BCTC cung cấp phải là dễ hiểu đối với
người sử dụng. Để dễ hiểu, người sử dụng ở đây là người phải có kiến thức về kinh
doanh và hoạt động kinh tế, hiểu biết về kế toán ở mức vừa phải, có thể nghiên cứu
các thông tin được cung cấp với khả năng của họ. Tuy nhiên, thông tin về những
vấn đề phức tạp cần trình bày trong BCTC vì sự thích hợp của nó đối với nhu cầu
sử dụng thông tin để đưa ra các quyết định quản lý kinh tế. Những thông tin này
không nên bị loại ra, vì lý do là có thể sẽ rất khó hiểu với người sử dụng.
b. Tính phù hợp
Các thông tin chỉ hữu ích khi mà nó thích hợp với nhu cầu để đưa ra các
quyết định kinh tế của người sử dụng. Những thông tin có chất lượng phù hợp là
những thông tin có ảnh hưởng lớn đến quyết định kinh tế của người ra quyết định
bằng cách giúp họ đánh giá các sự kiện trong quá khứ, hiện tại hay tương lại, hoặc
xác nhận, chỉnh lý các đánh giá trong quá khứ của họ.
c. Tính so sánh
Những người sử dụng BCTC phải có khả năng so sánh được các thông tin
trong BCTC của kỳ này so với kỳ trước để xác định xu hướng biến động tình hình
tài chính và kinh doanh của DN. Vì thế, các thông tin trên BCTC phải có khả năng

so sánh được giữa kỳ báo cáo với kỳ trước đó. Ngoài ra, người sử dụng cũng phải
so sánh được các BCTC của DN khác nhau để đánh giá mối tương quan về tình
hình tài chính, tình hình kinh doanh và những thay đổi về tình hình tài chính giữa
các DN. Vì thế, việc xác định tính toán và trình bày các ảnh hưởng tài chính, giao
11
dịch và các sự kiện khác như vậy phải được tiến hành một cách nhất quán giữa kỳ
này với kỳ khác trong phạm vi một DN và giữa các DN với nhau, giúp cho người sử
dụng so sánh được các thông tin trong các BCTC.
d. Tính đáng tin cậy
Thông tin chỉ có ích khi nó đáng tin cậy. Các thông tin có chất lượng đáng
tin cậy khi chúng không mắc những sai lầm nghiêm trọng hoặc phản ánh sai lệch
một cách cố ý và có thể phụ thuộc vào người sử dụng khi sử dụng các thông tin đó
cho một mục đích khách quan hợp lý.
2.2.2 Lý thuyết về phân tích báo cáo tài chính.
2.2.2.1 Phương pháp phân tích.
Để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử
dụng tài sản của doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và
tình hình biến động của các khoản mục trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo
cáo tài chính với nhau.
Việc phân tích báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng các phương
pháp sau: Phương pháp so sánh; phương pháp cân đối; phương pháp tỷ suất, hệ số;
phương pháp biểu mẫu phân tích.
- Phương pháp so sánh: Khi phân tích báo cáo tài chính các công ty sử dụng
phương pháp so sánh là chủ yếu vì mục đích của phân tích báo cáo tài chính là nêu
lên mối quan hệ giữa các số liệu với nhau từ đó thấy được tình hình và xu hướng
biến động của chúng. Phương pháp so sánh được sử dụng trong phân tích báo cáo
tài chính là so sánh giữa số thực hiện năm nay với số thực hiện năm trước để thấy rõ
xu hướng thay đổi về tình hình tài chính của công ty, thấy được tình hình tài chính
được cải thiện hay xấu đi như thế nào để có biện pháp khắc phục trong năm tới hoặc
so sánh giữa số thực hiện năm nay với số kế hoạch năm nay để thấy rõ được mức độ

phấn đấu của công ty hoặc so sánh giữa số thực hiện năm nay của công ty với mức
trung bình của ngành để thấy tình hình tài chính của công ty đang ở tình trạng tốt
hay xấu, được hay chưa được với các công ty cùng ngành bằng cách so sánh theo
chiều ngang để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối (tỷ lệ phần trăm (%)) và số
tuyệt đối (số chênh lệch) của một khoản mục nào đó qua các niên độ kế toán liên
tiếp. Đồng thời phương pháp so sánh còn được dùng để so sánh giữa số cá biệt với
12
tổng thể bằng cách so sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong
tổng số ở mỗi bản báo cáo.
- Phương pháp cân đối: Trong các báo cáo tài chính của công ty có rất nhiều
chỉ tiêu kinh tế có liên hệ với nhau bằng các mối quan hệ cân đối như: cân đối giữa
tài sản và nguồn vốn, cân đối giữa thu và chi, cân đối giữa tiền và hàng, Sự thay
đổi của một chỉ tiêu sẽ dẫn đến sự biến động của các chỉ tiêu khác. Do vậy mà áp
dụng phương pháp cân đối sẽ cho ta thấy sự tác động ảnh hưởng trong mối quan hệ
nội tại giữa các chỉ tiêu kinh tế, tài chính,
- Phương pháp tỷ suất, hệ số: Là phương pháp phân tích dùng để phản ánh mối
quan hệ so sánh giữa chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác có mối quan hệ chặt chẽ và tác
động qua lại lẫn nhau. Từ đó, thấy được chất lượng của quá trình SXKD.
- Phương pháp biểu mẫu phân tích:
Trong phân tích báo cáo tài chính các công ty phải dùng các biểu mẫu phân
tích để phản ánh một cách trực quan qua các số liệu phân tích. Biểu mẫu để phân
tích báo cáo tài chính được thiết lập theo các dòng, cột để ghi chép các chỉ tiêu và
số liệu phân tích. Các chỉ tiêu trong biểu phân tích báo cáo tài chính thường trùng
với chỉ tiêu trong báo cáo tài chính và cũng có thể là các hệ số, tỷ suất, tỷ trọng, Số
liệu trong biểu phân tích có thể là số đầu năm, số cuối năm hoặc số năm nay, số
năm trước, số chênh lệch tuyệt đối, tương đối, Các cột và các dòng nhiều hay ít tùy
thuộc vào nội dung và yêu cầu phân tích báo cáo tài chính. Tùy theo nội dung phân
tích mà biểu phân tích có tên gọi khác nhau, đơn vị tính khác nhau.
2.2.2.2 Chuẩn bị tài liệu và báo cáo tài chính phục vụ việc phân tích.
Để việc phân tích báo cáo tài chính đạt được hiệu quả cao nhất thì công việc

sưu tầm tài liệu, chuẩn bị tài liệu phân tích báo cáo tài chính là công việc đầu tiên
trong giai đoạn tiến hành phân tích. Việc chuẩn bị tốt các tài liệu phân tích là bước
khởi đầu cho sự thành công của công tác phân tích báo cáo tài chính. Các tài liệu để
phân tích báo cáo tài chính trước hết phải là các báo cáo tài chính của năm cần phân
tích, đó là: Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả kinh doanh; Thuyết minh báo cáo
tài chính,
Ngoài ra, để phân tích cần thu thập các báo cáo tài chính của năm trước, báo
cáo phân tích năm trước, các chỉ tiêu trung bình của ngành hoặc cũng có thể thu
thập các chỉ tiêu kinh tế tài chính của các đơn vị cùng ngành, các kế hoạch kinh
13
doanh của năm phân tích, lấy đó làm chuẩn mực để so sánh, đánh giá để đưa ra kết
luận về tình hình tài chính của công ty là tốt hay xấu.
Nếu công ty có các chỉ tiêu tài chính được xác định tính toán trên cơ sở số
liệu của báo cáo tài chính phù hợp với mức trung bình của ngành thì tình hình được
đánh giá là ổn định và vững chắc.
Các số liệu dùng để phân tích cần phải được kiểm tra lại trên nhiều mặt:
- Tính hợp pháp của số liệu, tài liệu
- Tính đúng đắn về mặt nội dung kinh tế, thời điểm và địa điểm phát sinh,
phương pháp tính toán.
- Tính chính xác của các số liệu tính toán, ghi chép
- Tính thống nhất của các chỉ tiêu được phản ánh trong các tài liệu khác nhau
2.3 Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu về lập, trình bày và phân tích
báo cáo tài chính ở Việt Nam
Các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con tại Việt
Nam hiện nay còn đang là mô hình kinh doanh khá mới mẻ; tổ chức công tác kế
toán còn chưa được nghiên cứu, hướng dẫn đầy đủ nên việc tổ chức vận dụng đối
với các doanh nghiệp trong điều kiện chuyển đổi hình thức tổ chức gặp nhiều khó
khăn. Đặc biệt công tác lập, trình bày và phân tích BCTC cũng còn khá nhiều bất
cập khi áp dụng. Hiện nay, có rất ít đề tài khoa học trong nước đề cập đến vấn đề
này: Qua nghiên cứu, tìm hiểu đề tài nghiên cứu khoa học, các luận văn, luận án,…

thông thường, các đề tài này thường đề cập đến hai vấn đề: Lập và phân tích BCTC
và lập và trình bày BCTC.
Ngoài ra còn có một số bài viết liên quan đến công tác lập và công bố BCTC
được đăng tải trên tạp chí nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Thương mại,
Đại học Kinh tế quốc dân, Tạp chí kế toán và các bài báo mới chỉ dừng lại ở việc
phản ánh từng nội dung riêng lẻ về lập và công bố BCTC chưa phản ánh một cách
có hệ thống các nội dung và gắn nó với một doanh nghiệp cụ thể.
Luận văn thạc sỹ kinh tế : ‘Kế toán lập và trình bày báo cáo tài chính tại
Tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam – Hoa Phong Lan – CH13 Kế toán. Luận
văn đã trình bày và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán lập và trình bày
BCTC trong doanh nghiệp nói chung và trong doanh nghiệp hoạt động theo mô
14
hình TCT nói riêng. Trên cơ sở đó, luận văn đã khảo sát và đánh giá thực trạng kế
toán lập và trình bày BCTC tại TCT Sông Đà theo hướng từ BCTC riêng, BCTC
tổng hợp và BCTC hợp nhất. Luận văn đã đánh giá khách quan ưu điểm cũng như
đưa ra những tồn tại trong kế toán lập và trình bày BCTC tại TCT Sông Đà, những
tồn tại đó cần tiếp tục hoàn thiện. Luận văn đã trình bày các dự báo triển vọng về
vấn đề nghiên cứu và đưa ra các đề xuất, kiến nghị hoàn thiện kế toán lập và trình
bày BCTC tại TCT Sông Đà phù hợp với đặc thù hoạt động của doanh nghiệp trong
hiện tại và xu thế phát triển trong tương lại. Tuy nhiên, luận văn chưa đưa ra những
minh họa thực tế từ BCTC của TCT Sông Đà, nên các giải pháp hầu như chỉ mang
tính lý thuyết, ý nghĩa thực tiễn không cao.
Luận văn thạc sỹ kinh tế: “Hoàn thiện lập và trình bày báo cáo tài chính tại
Tổng công ty Hàng không Việt Nam” – CH 12 Kế toán. Đề tài đã hệ thống hóa các
vấn đề lý luận về lập và trình bày báo cáo tài chính tại Tổng công ty, Tập đoàn và
đưa ra một số các giải pháp nhất định đóng góp vào sự hoàn thiện việc lập và trình
bày báo cáo tài chính. Tuy nhiên các đề tài này chưa đề cập đến lập và trình bày
BCTC trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính.
Luận văn thạc sỹ kinh tế: “Hoàn thiện quá trình lập và phân tích báo cáo tài
chính trong các công ty TNHH thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Tây” – Vương Anh

Tuấn – 2008 – CH 12 Kế toán. Luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ các vấn đề lý
luận liên quan đến quá trình lập và phân tích báo cáo tài chính trong các công ty
TNHH thương mại. Đánh giá thực trạng về quá trình lập và phân tích BCTC trong
các công ty TNHH thương mại trên địa bàn tỉnh Hà Tây để tìm ra những ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân trong quá trình lập và phân tích báo cáo tài chính, các chỉ
tiêu đặc thù tại đơn vị khảo sát và đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện
việc phân tích báo cáo tài chính và các chỉ tiêu đặc thù cho một loại hình doanh
nghiệp. Tuy nhiên, luận văn chưa đề cập đến các chỉ tiêu tài chính phản ánh kết quả
của quá trình kinh doanh, phân tích phục vụ cho việc đưa ra các quyết định quản trị
và chưa tiến hành phân tích trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh báo cáo
tài chính. Các giải pháp chưa cụ thể, chưa đưa ra được hệ thống chỉ tiêu đặc trưng
cho loại hình doanh nghiệp mà luận văn tiến hành nghiên cứu.
15
Tạp chí Kế toán số 80 (Tháng 10/2010) – TS. Nguyễn Công Phương và TS.
Ngô Hà Tấn – Bàn về phương pháp hợp nhất báo cáo tài chính. Bài viết hệ thống
hóa các vấn đề lý luận về lý thuyết lợi ích của cổ động thiểu số, lý thuyết thực thể
phân biệt, lý thuyết đề cao lợi ích của công ty mẹ, từ đó làm nổi bật bản chất kỹ
thuật hợp nhất BCTC được quy định trong chế độ kế toán hiện hành. Phân tích cho
thấy, cách tiếp cận hợp nhất khoản đầu tư vào công ty con hiện nay của Chuẩn mực
kế toán và các thông tư hướng dẫn có liên quan dựa vào lý thuyết đề cao lợi ích của
công ty mẹ. Tuy nhiên, với trường hợp hợp nhất khoản đầu tư vào công ty liên kết
và công ty đồng kiểm soát, hướng dẫn của chế độ chưa đầy đủ mà chỉ đơn thuần là
điều chỉnh giá trị khoản đầu tư nhằm chú ý đến lợi ích của công ty đầu tư. Khuôn
khổ lý thuyết giúp cho người học và thực hành nắm rõ hơn bản chất của những quy
định hiện hành về hợp nhất BCTC.
Khoa học thương mại số 36 (Tháng 6/2010) – TS. Nguyễn Quang Hùng –
Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động kiểm toán của các công ty kiểm
toán độc lập hiện nay – Thực trạng và giải pháp. Bài viết đã chỉ ra vị trí và vai trò
của phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động kiểm toán của các công ty
kiểm toán độc lập, đồng thời nêu lên được nội dung phân tích tài chính cũng như

thực trạng công tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong các hoạt động của các
công ty kiểm toán độc lập hiện nay. Bài viết cũng đưa ra các giải pháp hoàn thiện
hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong các công ty kiểm toán độc lập, có
ý nghĩa thực tiễn cao.
2.4 Lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán quốc
tế và kinh nghiệm một số nước trên thế giới.
2.4.1 Chuẩn mực kế toán quốc tế về lập và trình bày báo cáo tài chính
doanh nghiệp (Presentation of Financial Statements – IAS 1).
Chuẩn mực kế toán quốc tế về trình bày báo cáo tài chính ( chuẩn mực số 1 –
IAS1) mô tả cơ sở cho việc trình bày báo cáo tài chính. Chuẩn mực này thiết lập
khuân khổ và trách nhiệm của việc trình bày các báo cáo tài chính, hướng dẫn cấu
trúc và yêu cầu nội dung tối thiểu trên các báo cáo tài chính và được áp dụng cho tất
cả các báo cáo tài chính trên cơ sở các chuẩn mực kế toán quốc tế. Mục tiêu của
16
việc lập các báo cáo tài chính là cung cấp thông tin cho các đối tượng quan tâm cả
trong và ngoài doanh nghiệp.
Một hệ thống đầy đủ các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán,
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo khác phản ánh những thay đổi về
vốn chủ sở hữu, những thay đổi của chủ sở hữu ngoài các nghiệp vụ góp vốn và
phân chia cho các chủ sở hữu, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Các chính sách kế toán
và các thuyết minh khác. Ngoài ra, chuẩn mực này còn khuyến khích các nhà quản
lý trong doanh nghiệp tóm tắt tài chính ngoài các báo cáo tài chính nêu trên, nhằm
mô tả và giải thích các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình hoạt động tài chính của
doanh nghiệp, nguồn tiền huy động của doanh nghiệp, các chính sách quản lý rủi ro,
các điểm mạnh, điểm yếu mà chưa được đề cập trên bảng cân đối kế toán.
Chuẩn mực này chỉ ra các tiêu đề tối thiểu phải được trình bày trên bảng cân
đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh như: Tên báo cáo, loại hình
công ty, ngày tháng lập báo cáo, đồng tiền sử dụng, Ngoài ra các báo cáo còn bao
gồm các hướng dẫn cho việc nhận biết các khoản mục trên báo cáo.
Nội dung và kết cấu của báo cáo tài chính cũng được chỉ ra, tuy nhiên không

bắt buộc phải tuân theo mẫu chuẩn tuyệt đối. Các báo cáo tài chính phải lập ít nhất
mỗi năm một lần. Nếu thời điểm lập báo cáo mà thay đổi và báo cáo tài chính được
lập cho một giai đoạn khác, các doanh nghiệp phải nêu rõ lý do thay đổi và nếu rõ
các vấn đề có thể xảy ra khi thay đổi về thời hạn lập này.
Báo cáo tài chính được coi là trình bày trung thực có nghĩa là báo cáo tài
chính đó phải đảm bảo tuân thủ các yêu cầu sau:
- Lựa chọn chính sách kế toán mà phù hợp hoàn toàn với chuẩn mực kế toán
quốc tế hoặc việc thiếu một chuẩn mực kế toán quốc tế nào đó, kết quả mang lại vẫn
là các thông tin phù hợp và có thể tin cậy.
- Trình bày các thông tin theo cách thức có thể tăng tính hợp lý, tính tin cậy,
tính so sánh và khả năng dễ hiểu.
- Cung cấp các thông tin theo cách thức có thể tăng tính hợp lý, tính tin cậy,
tính so sánh và khả năng dễ hiểu.
- Cung cấp các thông tin cần thiết trợ giúp cho quá trình nắm bắt tình hình tài
chính và quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
17
Trong một số ít trường hợp, việc không tuân thủ các chuẩn mực kế toán quốc
tế thật sự cần thiết nhằm trình bày trung thực báo cáo tài chính thì doanh nghiệp
phải đánh gái chính xác và tổng hợp sự không tuân thủ chuẩn mực kế toán quốc tế
tới hoạt động tài chính của đơn vị.
Các chuẩn mực và các thuyết minh nói chung nên được áp dụng nhất quán
và chênh lệch do điều chỉnh được đưa vào tài khoản thu nhập giữ lại. IAS1 chỉ ra
các nguyên tắc cơ bản phải tuân thủ theo khi lập báo cáo tài chính:
- Nguyên tắc hoạt động liên tục.
- Nguyên tắc nhất quán với năm trước.
- Nguyên tắc dồn tích
- Nguyên tắc trọng yếu
Các yêu cầu phải tuân thủ khi lập và trình bày báo cáo tài chính
- Tính kịp thời
- Tính khả dụng của các phương pháp áp dụng

- Nêu các chuẩn mực được áp dụng trước kia
- Cơ sở cho việc lựa chọn một chính sách kế toán và cách thức trình bày các
cơ sở này.
- Quy tắc cho việc bù trừ tài sản và công nợ, bù trừ chi phí và doanh thu
- Các chỉ tiêu mang tính so sánh.
2.4.2 Lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính theo kinh nghiệm một
số nước trên thế giới.
2.4.2.1 Lập và trình bày báo cáo tài chính tại Pháp
Các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Pháp là những bản phúc trình về
tình hình hoạt động của doanh nghiệp cho các cơ quan có thẩm quyền: Hội đồng
quản trị, các cơ quan thuế, các cơ quan chủ quản ngành. Báo cáo tài chính thường
được lập định kỳ hàng quý, 6 tháng, 9 tháng, cuối năm tài chính hoặc bất thường
khi cần có số liệu để kiểm tra.
Theo chế độ kế toán Pháp, báo cáo tài chính có hai loại biểu mẫu chủ yếu là:
Bảng tổng kết tài sản và bảng kết quả niên độ.
• Bảng tổng kết tài sản là một tài liệu tổng hợp các thông tin về tài sản và
nguồn tài trợ vào ngày cuối cùng của kỳ báo cáo. Bảng tổng kết tài sản được chia
làm hai phần:
- Bên trái phản ánh tài sản theo thứ tự tính toán thanh khoản tăng dần
- Phần bên phải phản ánh nguồn hình thành của tài sản theo trình tự tính tự
chủ về nguồn vốn giảm dần.
18
Nguyên tắc chung để lập bảng tổng kết tài sản cần tính số dư cuối kỳ trên các
tài khoản kế toán. Các tài khoản kế toán có số dư được ghi vào bên tài sản của bảng
tổng kết tài sản, còn các tài khoản có số dư có được ghi vào bên nguồn tài trợ của
bảng tổng kết tài sản. Tuy nhiên, có một số trường hợp như: các tài khoản khấu hao
bất động sản và dự phòng giảm giá tài sản có số dư Có nhưng nó được dùng để điều
chỉnh cho các tài sản nên những tài khoản này được phản ánh ở bên tài sản để tính
giá trị còn lại hay giá trị thực của tài sản. Tài khoản kết quả niên độ, trong trường
hợp doanh nghiệp bị lỗ, tài khoản này sẽ có số dư bên Nợ, nhưng vẫn được phản

ánh ở nguồn tài trợ bằng cách ghi số âm.
• Bảng kết quả niên độ là báo cáo phản ảnh kết quả hoạt động của doanh
nghiệp thông qua chỉ tiêu lãi, lỗ. Kết quả lãi, lỗ được xác định bằng cách so sánh hai
yếu tố thu nhập và chi phí.
Kết quả được xác định chung cho các hoạt động và xác định riêng cho từng
hoạt động.
Kết quả kinh doanh = Thu nhập kinh doanh – Chi phí kinh doanh
Kết quả tài chính = Thu nhập tài chính – Chi phí tài chính
Kết quả đặc biệt = Thu nhập đặc biệt – Chi phí đặc biệt
2.4.2.2 Lập và trình bày báo cáo tài chính tại Mỹ
Tại Mỹ kế toán được quy định bởi một tổ chức thuộc lĩnh vực kinh tế tư
nhân là “Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính - FASB”. Bên cạnh đó, một cơ quan
thuộc chính phủ có tác dụng củng cố chuẩn mực kế toán này là “Ủy ban chứng
khoán ngoại hối – SEC”. Ngoài ra, một tổ chức thuộc lĩnh vực kinh tế tư nhân khác
cũng có trách nhiệm trong việc đặt ra chuẩn mực kế toán này là Viện kế toán viên
công chứng – AICPA.
Hệ thống kế toán ở Mỹ không có các yêu cầu mang tính luật pháp trong việc
công bố các báo cáo tài chính đã được kiểm toán theo định kỳ. Tại Mỹ, các công ty
cổ phần được thành lập theo luật của tiểu bang chứ không theo luật của liên bang.
Mỗi tiểu bang cso hệ thống luật riêng và nói chung hệ thống luật này chứa đựng ít
nhất các yêu cầu về việc thu thập, lưu giữ các bản ghi kế toán và phát hành các báo
cáo tài chính định kỳ. Do vậy, cuộc kiểm toán hàng năm và yêu cầu nộp báo cáo tài
chính về liên bang SEC chỉ định. SEC có quyền lực pháp lý đối với tất cả các công
ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
19
Các báo cáo tài chính được giả định là trình bày trung thực về tình hình tài
chính của công ty và kết quả kinh doanh của công ty trong năm phù hợp với GAAP
(các nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận – Generally accepted accounting
principles). Hệ thống báo cáo tài chính tại Mỹ bao gồm:
- Báo cáo quản lý

- Báo cáo của kiểm toán viên độc lập
- Các báo cáo cơ bản (bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo
cáo lưu chuyển tiền tệ và báo cáo về sự thay đổi của vốn chủ sở hữu)
- Thuyết minh báo cáo tài chính
- Báo cáo so sánh về tình hình kinh doanh trong 5 năm hoặc 10 năm
- Các dữ liệu theo quý khác
Các báo cáo tài chính hợp nhất khác được yêu cầu. Các báo cáo tài chính của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán phải được lập định kỳ ba tháng
một. Các báo cáo này được tóm tắt, không cần thiết phải kiểm toán mà chỉ cần chữ
ký xác nhận tính chính xác của người quản lý.
2.4.2.3 Phân tích báo cáo tài chính theo kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới.
Ở một số nước có nền kinh tế phát triển, phân tích Báo cáo tài chính được
coi như một nghề nghiệp độc lập. Tại Cộng hòa Pháp, phân tích báo cáo tài chính
phát triển mạnh từ đầu thế kỷ 20, do nảy sinh các nhu cầu từ thực tiễn như sự phát
triển của các công ty vô danh, vai trò quan trọng của ngân hàng và các tổ chức tài
chính. Những cổ đông của các công ty vô danh thấy cần thiết phải được thông tin
đầy đủ về các chỉ tiêu tài chính trên các Bảng khai. Nhưng những chỉ tiêu tài chính
này luôn ở trạng thái không đầy đủ về số lượng và chất lượng. Trong khi đó các
ngân hàng, các công ty tài chính cần công bố sớm cho khách hàng về các chỉ tiêu tài
chính doanh nghiệp để đánh giá khả năng hoàn trả nợ vay. Những chỉ tiêu tài chính
đầu tiên rất nghèo nàn và có nhiều hạn chế trong việc điều chỉnh để đạt được các
cân đối về tài chính. Tuy nhiên các chỉ tiêu tài chính đơn giản này cũng đủ cho ngân
hàng đánh giá về việc đưa ra quyết định cho vay dựa trên việc hoàn trả vốn của
doanh nghiệp.
Phân tích báo cáo tài chính thời kỳ đầu đã giới hạn trong việc phân tích các
chỉ tiêu tài chính chủ yếu, hướng vào mục tiêu xác định khả năng sinh lời của doanh
nghiệp đối với ngân hàng. trong tháng 3 năm 1919: Ở Mỹ công trình nghiên cứu
20
của A Wall đã đề cập tới phân tích đồng thời 7 chỉ tiêu đối với 981 doanh nghiệp

kinh doanh theo ngành hoặc theo vùng địa lý. Năm 1933 tại Pháp đã thành lập Ủy
ban hối đoái và bảo hiểm nhằm góp phần mở rộng nhu cầu thông tin về tài chính.
Như vậy khối lượng cũng như chất lượng thông tin được nâng dần và tiến tới hình
thành hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tổng quát trong đó chủ yếu chỉ tiêu phân
tích hiệu quả kinh doanh, khả năng chi trả. Khi thị trường vốn, thị trường chứng
khoán phát triển mạnh mẽ, nhu cầu đòi hỏi các thông tin tài chính về các công ty cổ
phần trở thành bức xúc. Các công ty cổ phần muốn phát hành cổ phiếu trên thị
trường, buộc phải công khai các chỉ tiêu tài chính có chất lượng cho các thị trường
vốn, thị trường chứng khoán. Các thị trường chứng khoán muốn hoạt động mạnh thì
thông tin của các chỉ tiêu tài chính phải phản ánh chính xác, trung thực hoạt động
của công ty cổ phần. Do vậy các công cụ phân tích tài chính hiện dại, cùng với các
chuyên gia hành nghề phân tích trong việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu tài chính được
hình thành và phát triển. Ở Mỹ và Pháp hay sử dụng các phương pháp: so sánh, mô
hình Dupont, phân tích trường lực để phân tích các tài khoản kế toán, phân tích các
chỉ tiêu tài chính, các tỷ suất thuộc các báo cáo tài chính. Mặt khác khi thị trường
chứng khoán phát triển cũng là nhu cầu đòi hỏi các công cụ, chỉ tiêu phân tích tài
chính ra đời để đáp ứng nhu cầu của hoạt động. Đối với các hoạt động đầu tư tài
chính, trước khi tiến hành mua bán trái phiếu, cổ phiếu cần phải tiến hành phân tích
các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư để tránh rủi ro và mang lại lợi nhuận cao nhất.
Như vậy sự phát triển của hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính ở nước Mỹ,
Pháp, Anh đã khiến phân tích báo cáo tài chính trở thành một nghề nghiệp độc lập
giữ vị thế trong xã hội, ở Mỹ và Anh đã có các công ty chuyên phân tích tài chính.
Khi đó phân tích tài chính càng phong phú về phương pháp luận, ở các trường đại
học của những nước phát triển, phân tích báo cáo tài chính trở thành môn khoa học
độc lập từ nhiều năm nay.
2.4.2.4 Những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu lập, trình
bày và phân tích báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán quốc tế và của một số
nước trên thế giới.
21
Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) đã giúp các doanh nghiệp lâp

và trình bày Báo cáo tài chính sát với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, Hệ thống VAS
còn chưa đầy đủ và còn có sự khác biệt so với thông lệ quốc tế. Trong xu thế hội
nhập và phát triển mạnh mẽ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, ngày càng nhiều
doanh nghiệp Việt nam tham gia vào các thị trường quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Các
tập đoàn lớn và nhà đầu tư nước ngoài cũng đang tiếp xúc, gia tăng đầu tư vào Việt
Nam. Xu thế mua, bán, sáp nhập công ty ngày càng gia tăng tại Việt Nam. Do đó,
yêu cầu lập và trình bày Báo cáo tài chính cho phù hợp với các Chuẩn mực lập và
trình bày Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) cũng như các nước khác trên thế giới
đang trở thành yêu cầu tất yếu và ngày càng phổ biến với nhiều doanh nghiệp.
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm về BCTC của một số nước cũng như chuẩn
mực kế toán quốc tế, tôi xin đưa ra một số khía cạnh cần thiết cho việc hoàn thiên
BCTC
- Tính thống nhất của hệ thống BCTC
Tùy theo mối quan hệ về sở hữu vốn, lĩnh vực và hình thức kinh doanh, quy
mô và phạm vi hoạt động khác nhau mà các doanh nghiệp cũng có nhiều loại hình
khác nhau. Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những đặc điểm riêng khác nhau,
nhưng trên thế giới hiếm có quốc gia nào lại xây dựng hệ thống BCTC hoàn toàn
riêng biệt cho từng loại hình doanh nghiệp. Thông thường các quốc gia đều quy
định một hệ thống BCTC có tính thống nhất chung cho mọi loại hình doanh nghiệp.
Nhưng tùy theo mỗi quốc gia khác nhau mà mức độ quy định về tính thống nhất của
các BCTC cũng ở mức độ khác nhau. Như ở Mỹ quy định tính thống nhất của hệ
thống BCTC trên cơ sở các nguyên tắc kế toán chung, trên cơ sở đó các doanh
nghiêp vận dụng phù hợp với đặc điểm cụ thể của doanh nghiệp mình.
- Về nguyên tắc và chuẩn mực kế toán
Trong hệ thống chuẩn mực kế toán của nhiều quốc gia, các nguyên tắc kế
toán chung, các nội dung về khuôn mẫu và trình bày các BCTC thường là những
nội dung bao trùm được nghiên cứu và trình bày ngay ở phần đầu trong hệ thống
chuẩn mực kế toán để có tính định hướng. chỉ đạo và chỉ dẫn cho toàn bộ các chuẩn
mực cụ thể về kế toán. Điển hình là trong hệ thống kế toán Mỹ, các nguyên tắc kế
toán chung được thừa nhận (GAAP) được coi là kim chỉ nam để hành động, để định

22
giá, ghi chép và báo cáo các giao dịch, các sự kiện kinh tế trên các BCTC. Những
nguyên tắc này được xây dựng trên những kinh nghiệm được rút ra và những
nghiên cứu đống góp của các thành viên của nghiệp đoàn kế toán, các doanh
nghiệp, các nhà khoa học, các cơ quan Nhà nước và các nhà đầu tư. Dựa trên những
nguyên tắc chung này và hướng dẫn chi tiết, các doanh nghiệp có thể tổ chức kế
toán và lập BCTC, người sử dụng bên ngoài dễ dàng có cùng cách hiểu về các số
liệu, các thông tin trên các BCTC. Để lập BCTC cho mục đích kinh tế và xử lý
những khác biệt trong mối quan hệ giữa các nguyên tắc kế toán với những quy định
của chính sách thuế, trong hệ thống chuẩn mực kế toán của nhiều quốc gia, điển
hình là chuẩn mực kế toán của Úc đã ưu tiên tâp trung nghiên cứu một chuẩn mực
riêng về báo cáo kết quả kinh doanh và trình bày ngay ở vị trí số 1 (AAS1 –
Statement of Financial Performance) và chuẩn mực kế toán về thuế thu nhập ở vị trí
thứ 3 trong hệ thống chuẩn mực về kế toán. Những chuẩn mực này đã giúp cho việc
nhận thức đúng về mục tiêu của BCTC và thiết lập các nguyên tắc kế toán để xử lý
những khác biệt trong các quy định của kế toán và chính sách thuế trong quá trình
tổ chức kế toán, lập và trình bày BCTC theo đúng mục tiêu kinh tế của nhà đầu tư.
Nước ta chưa nghiên cứu cụ thể và làm sáng tỏ về mối quan hệ giữa chính sách thuế
và kế toán trong điều kiện kinh tế thị trường, chưa có những quy định cụ thể về kế
toán để xử lý những khác biệt trong các quy định của kế toán và thuế nên việc ghi
nhận và trình bày chúng trên các BCTC cũng còn đang rất lúng túng.
Như vậy, chuẩn mực kế toán Việt Nam về lập và trình bày báo cáo tài chính
cũng đã tương đối đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp cũng như nhu cầu quản
lý của Nhà nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, để hoàn thiện hơn nữa và
phù hợp với thế giới cho mọi loại hình doanh nghiệp thì cần tham khảo cách làm
của quốc tế cũng như một số nước khác trên thế giới.
Theo tài liệu kế toán và kiểm toán của Mỹ, được công ty kiểm toán Việt
Nam – VACO biên soạn giảng dạy cho lớp kế toán Mỹ và kiểm toán năm 1994 cho
thấy các công ty của Mỹ cũng rất quan tâm đến phân tích báo cáo tài chính.
Việc phân tích báo cáo tài chính được các công ty của Mỹ xác định là công

việc so sánh, đánh giá việc thực hiện các mục đích của công ty. Mục đích hoạt động
23
của các công ty là lợi nhuận. Mục đích đó được thể hiện bằng việc công ty có đạt
được tỷ lệ sinh lời hợp lý hay không? Có duy trì được tình hình tài chính tốt hay
không? Có đạt được mục đích không lượng hóa được như: Tinh thần, công nhận, uy
tín xã hội và đạo đức doanh nghiệp hay không?
Theo tài liệu này thì một quá trình phân tích báo cáo tài chính của các công
ty Mỹ được chia thành 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đánh giá tổng quát tình hình tài chính của công ty thông qua
bảng cân đối kế toán và tình hình kinh doanh thông qua báo cáo kết quả kinh doanh.
Khi đánh giá tổng quát tình hình hoạt động các công ty thường đặc biệt chú ý đến
phân tích báo cáo kết quả kinh doanh hơn là việc phân tích bảng cân đối kế toán.
Giai đoạn 2: Phân tích chi tiết để phát hiện những nguyên nhân dẫn đến kết
quả thu được từ giai đoạn đánh giá tổng quát một báo cáo tài chính. Khi phân tích
chi tiết báo cáo tài chính họ cũng thường tính toán và so sánh các hệ số như: Các hệ
số đánh giá tổng quát; Các hệ số khả năng sinh lời; Các hệ số thực trạng đầu tư; Các
hệ số tình hình tài chính.
Khi tính được các tỷ lệ, các hệ số phân tích, các nhà phân tích báo cáo tài
chính của các công ty Mỹ tiến hành công việc so sánh các tỷ lệ, các hệ số. Với
những nhà phân tích có kinh nghiệm thì căn cứ so sánh mà họ đưa ra là các tỷ lệ,
các hệ số mà trước đây họ đã tính hoặc các nhà phân tích lấy các tỷ lệ, các hệ số của
các nhóm công ty cùng ngành để xem xét, đánh giá, Ở Mỹ một số hiệp hội buôn
bán quốc gia và địa phương đã tiến hành tập hợp số liệu của các công ty thành viên
để tính toán xác định và công bố các tiêu chuẩn hoặc các tỷ lệ trung bình đối với
ngành của mình và lấy các tiêu chuẩn hệ số đó làm căn cứ so sánh tốt cho các nhà
phân tích.
Từ kinh nghiệm của các nước trong việc phân tích báo cáo tài chính đã nêu ở
trên sẽ là căn cứ để hình thành quan điểm hoàn thiện quá trình phân tích báo cáo tài
chính tại Tổng công ty.
2.5 Nội dung cơ bản về lập, trình bày và phân tích báo cáo tài chính.

2.5.1 Nội dung về lập và trình bày báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính là báo cáo tổng hợp toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, tình hình tài sản, nguồn vốn và nợ phải trả của doanh nghiệp. Chính vì
24
vậy, báo cáo tài chính phải được lập nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Để làm tốt
hơn công việc này thì khi lập, kế toán cần tiến hành theo trình tự như sau:
- Khóa sổ kế toán, thực hiện cá bút toán điều chỉnh cuối kỳ.
- Tiến hành đối chiếu số liệu giữa sổ kế toán chi tiết với sổ kế toán tổng hợp.
- Tiến hành lập các báo cáo kế toán trên cơ sở số dư cuối kỳ tài khoản trên kế
toán.
Đối với báo cáo tài chính tổng hợp, khi lập cần tiến hành theo trình tự như
sau:
- Kiểm tra báo cáo tài chính của từng đơn vị trực thuôc cả về số lượng báo
cáo, kỳ lập báo cáo, chính sách kế toán áp dụng để lập báo cáo tài chính. Nếu xét
thấy cần phải điều chỉnh thì kế toán cần phải điều chỉnh trước khi tổng hợp.
- Tiến hành phân loại các đơn vị kế toán trực thuộc theo từng loại hoạt động
(hoạt động sản xuất – kinh doanh, hoạt động xây lắp, hoạt động sự nghiệp). Mỗi
loại hoạt động được lập báo cáo tài chính tổng hợp riêng.
- Lập bảng tổng hợp các bút toán để điều chỉnh để tính toán các chỉ tiêu cần
điều chỉnh.
- Lập bảng tổng hợp theo từng báo cáo tài chính và theo từng chỉ tiêu của báo
cáo.
- Lập báo cáo tài chính tổng hợp theo từng loại trên cơ sở Bảng tổng hợp theo
từng báo cáo tài chính và từng chỉ tiêu đã tổng hợp.
2.5.1.1 Lập và trình bày Bảng cân đối kế toán.
Bảng cân đối kế toán là một trong những báo cáo tài chính hữu ích nhất đối
với doanh nghiệp cũng như những nhóm người sử dụng thông tin trên báo cáo tài
chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện
có của doanh nghiệp cũng như nguồn hình thành nên tài sản (nguồn vốn) tại một
thời điểm xác định. Hơn thế nữa, Bảng cân đối kế toán còn phải thể hiện được mối

quan hệ cân đối vốn có của nó đó là tại một thời điểm xác định khi biểu hiện bằng
thước đo tiền tệ thì tổng tài sản và tổng nguồn vốn luôn luôn bằng nhau (phương
trình kế toán cơ bản).
• Nguyên tắc lập và trình bày Bảng cân đối kế toán.
Theo quy định tại Chuẩn mực số 21 “Trình bày báo cáo tài chính” khi lập và
trình bày Bảng cân đối kế toán phải tuân thủ các nguyên tắc chung về lập và trình
bày báo cáo tài chính, nhưng không được áp dụng “Nguyên tắc bù trừ”. Ngoài ra,
25
trên Bảng cân đối kế toán, các khoản mục tài sản và nợ phải trả được trình bày riêng
biệt thành ngắn hạn và dài hạn, tùy theo thời hạn của chu kỳ kinh doanh bình
thường của doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Đối với doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh bình thường trong
vòng 12 tháng, thì tài sản và nợ phải trả được phân thành ngắn hạn và dài hạn theo
điều kiện sau:
- Tài sản và Nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán trong vòng 12 tháng tới
kể từ ngày kế thúc kỳ kế toán năm, được xếp vào loại ngắn ahnj;
- Tài sản và Nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán sau 12 tháng tới kể từ
ngày kết thúc kỳ kế toán năm, được xếp vào loại dài hạn.
Thứ hai: Đối với doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh bình thường dài hơn
12 tháng, thì tài sản và nợ phải trả được phân thành ngắn hạn và dài hạn theo điều
kiện sau:
- Tài sản và Nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán trong vòng một chu kỳ
kinh doanh bình thường, được xếp vào loại ngắn hạn;
- Tài sản và Nợ phải trả được thu hồi hay thanh toán trong thời gian dài hơn
một chu kỳ kinh doanh bình thường, được xếp vào loại dài hạn.
Thứ ba: Đối với các doanh nghiệp do tính chất hoạt động không thể dựa vào
chu kỳ kinh doanh để phân biệt giữa ngắn hạn và dài hạn, thì các tài sản và nợ phải
trả được trình bày theo tính thanh khoản giảm dần. Việc trình bày các loại tài sản
theo thứ tự tính thanh khoản giảm dần có nghĩa là loại tài sản nào dễ chuyển đổi
thành tiền nhất được xếp trước tiên và loại nào khó chuyển nhất được xếp cuối

cùng.
Mỗi loại tài sản hoặc một vài loại tài sản có cùng tính chất hoặc chức năng
được trình bày thành chỉ tiêu riêng trong Bảng cân đối kế toán được gọi là “khoản
mục” của bảng cân đối kế toán. Các tài sản có cùng tính chất chức năng được tập
hợp và được trình bày vào một khoản mục, nếu mỗi tài sản này không có tính trọng
yếu, còn nếu nó là trọng yếu thì phải trình bày mỗi tài sản này riêng một khoản
mục. Ngược lại các tài sản có tính chất, chức năng khác nhau thì dù trị giá của nó là
nhỏ (không trọng yếu) thì phải được trình bày vào một khoản mục riêng.
Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, thì tài sản được trình bày thành
các khoản mục sau:

×