Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tài liệu nghiên cứu bệnh Bạch hầu ở bé

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.51 KB, 3 trang )

Tài liệu nghiên cứu bệnh Bạch hầu ở bé
Cánh cửa phòng cấp cứu bị đá bật tung ra, một người ôm trên tay một đứa bé
choàng khăn kín mít, chạy vào, lắp bắp: Bác sĩ, bác sĩ, cứu con tôi! Chúng tôi túc
trực thường xuyên và ngày nào cũng gặp những cảnh như vầy nên rất bình tĩnh. Cô
điều dưỡng chỉ chỗ để ông ta đặt đứa bé xuống, giúp bỏ chăn mền quần áo em bé
và đặt dây dưỡng khí tiếp hơi. Đứa bé khoảng 2 tuổi, tím ngắt, đã ngưng thở, mạch
mất hẳn nhưng tim còn đập nhẹ, thỉnh thoảng lỗi nhịp như sẵn sàng ngừng luôn. Tôi
ngó anh nội trú: Mau lên, “nó” nữa rồi! Trong lúc tôi làm hô hấp nhân tạo cho đứa bé
bằng cách bóp đều lồng ngực thì anh nội trú sửa soạn dụng cụ đặt ống nội khí quản
tạm và cô điều dưỡng cho máy hút nhớt chạy tối đa. Tôi hỏi:
− Em đau từ bao giờ?
− Nó mới nóng 2 hôm, khuya nay đột nhiên thở khò khè rồi Anh không nói
thêm được nữa vì hình như cũng đang khò khè vì mệt và lo lắng.
− Liệu có cứu được không, bác sĩ?
− Chúng tôi hết sức cố gắng xem sao. Cũng hy vọng chứ!
Tôi bật cái đèn soi thanh quản do anh nội trú vừa đưa lại, đặt lưỡi đèn vào họng
em bé trong lúc anh nội trú Q. thế tôi, bóp đều lồng ngực em. Cả miệng em bé đầy
đàm nhớt. Chiếc máy hút làm việc mạnh hơn. Cô điều dưỡng đã thay ống hút lớn
hơn. Dưới ánh đèn tôi vừa trông thấy một lớp màng trắng. Quậy nhanh miếng gòn
gắn trên một chiếc que lên đó để mang đi phòng xét nghiệm thử, tôi hướng ống hút
về cái màng để hút mạnh. Màng dính chặt vào cổ họng, vùng thịt dư và thanh quản.
Đặt vội ống thông vào, nối dây dưỡng khí. Như một phép lạ, tức khắc bé hồng hào
trở lại, tim đập đều, mạnh, mạch đã có. Anh nội trú Q đã ngưng làm hô hấp nhân
tạo, bé thở một mình qua ống thở đặt xuyên thanh quản. Chừng vài phút sau chúng
tôi chưa kịp mừng trọn thì đứa bé lại mệt, rồi từ từ tím lại, bắt đầu ở môi, tay, chân
Tìm thủ phạm không khó, chính cái màng giả đã làm nghẹt ống thông chứ không gì
cả. Chúng tôi rút ống thông ra, lại hút đàm nhớt, màng giả, rồi thanh ống khác. Bé lại
hồng lên. Lúc đó cũng vừa có kết quả về cho biết đúng bé bị bạch hầu. Chúng tôi
sửa soạn dụng cụ mang bé đến trại truyền nhiễm, đưa bé vào phòng mổ để mở khí
quản. Bé đó sống. Mấy hôm trước, một bé khác tình trạng cũng gần giống như thế,
nặng hơn một chút và đã chết dọc đường khi chuyển đến phòng mổ.


Vào khoảng gần Tết năm nào cũng thế, bệnh bạch hầu có vẻ hơi nhiều. Cách
đây mấy hôm, một em gái 10 tuổi nhập viện vì lý do mệt, nóng 39°C, chảy máu
miệng, mũi, sưng dưới cằm và hai bên má khiến gương mặt em trở nên bầu bĩnh
khác thường, hơi thở hôi, rã rượi, mạch yếu. Thử có vi trùng bạch hầu ở cổ họng và
ở mũi. Em bé chết vì bị bạch hầu ác tính. Một em khác ở tỉnh đến vì bại 2 chân, nói
ngọng, khó nuốt cũng lại bạch hầu! Một em khác nữa, 6 tháng, chảy máu cam lùi xùi
cả tuần: lại bạch hầu!
• Nguyên nhân:
Gọi “bạch hầu” một cách tổng quát như vậy thực ra không đúng. Bởi vì không
phải lúc nào bệnh cũng xuất hiện ở hầu, có khi nó ở mũi, có khi ở lỗ tai, khi ở ngòai
da, khi ở phổi, ở tim Bệnh do vi trùng Klebs Loeffler gây ra, rất hay lây, thường ở
lứa tuổi từ 6 tháng đến 10 tuổi. Trước 6 tháng cũng có thể bị nhưng tỉ lệ ít hơn, vì
đứa bé được miễn dịch nhờ kháng thể của người mẹ còn lại. Vi trùng thường phát
khởi ở vùng hầu, cổ họng, thanh quản, khí quản, và tạo thành một cái màng giả ở đó
rất dễ nhận biết, không chữa sớm, màng giả lan rộng bít nghẹt khí quản, làm bé khó
thở nhất là lúc hít vô, tiếng thở nghe khò khè đặc biệt.
Độc tố của vi trùng lan tràn khắp nơi, thường tấn công cơ tim (làm chết vì suy
tim) và hệ thần kinh (làm tê liệt). Bệnh lây trực tiếp do nước miếng, nước mũi của
người mắc bệnh văng ra lúc nói chuyện, ho, sặc, nhảy mũi, cũng do người vừa khỏi
bệnh, và những người không mắc bệnh nhưng mang vi trùng bệnh trong người lây
cho bé.
• Triệu chứng:
Thời kỳ tiềm ẩn (ủ bệnh) từ 1 đến 7 ngày, bệnh thường xuất hiện ở vùng cổ
họng. Bé nóng 38° - 39°C, vài ngày sau xuất hiện một màng giả (trắng, xám, bóng,
dính chặt trên hai hạch hầu – amiđan). Không chữa ngay bệnh trở nặng, xanh xao,
mệt, tim đập nhanh, màng giả lan tràn xuống thanh quản làm nghẹt thở thình lình và
rất dễ chết (như trường hợp mô tả trên). Trong bệnh bạch hầu ác tính, có nhiều
hạch cổ nổi lên giống như bị sưng má ông địa, chảy máu mũi, máu miệng, xanh mét,
đau bụng, ói ỉa, hơi thở hôi, khó nuốt. Bạch hầu ác tính thường không thể chữa
được!

Trường hợp bạch hầu có màng giả bít nghẹt thanh quản hiếm gặp ở các nước
tiên tiến, nhưng vẫn còn là một mối nguy hiểm cho trẻ con xứ ta. Bé đột nhiên khó
thở, giọng khàn, tắt tiếng, lúc hít vô kêu khò khè, tím da, gân cổ nổi lớn, có khi ngộp
thở, hôn mê. Trong trường hợp này trẻ cần phải được cấp cứu tại một bệnh viện
mới có hy vọng sống. Như đã nói, độc tố của vi trùng tràn lan khắp cơ thể nên có
thể gây nhiều biến chứng như viêm cơ tim, sưng phổi, liệt đóc họng (lưỡi gà), liệt tay
chân, liệt mắt
• Điều trị:
Bệnh nguy hiểm như vậy, việc điều trị cũng khó khăn không kém. Ngoài thuốc
kháng sinh còn cần phải có huyết thanh chống độc tố của vi trùng bạch hầu và quan
trọng nhất vẫn là sự săn sóc theo dõi bệnh trong suốt thời gian chữa trị và thời gian
dưỡng bệnh sau khi lành.
Những điều kiện đó đòi hỏi bé phải được chữa trị tại một bệnh viện lớn, đủ
phương tiên, không thể chữa khơi khơi được, và nhất là không thể mất thì giờ vì
chạy thầy chạy thuốc không đúng chỗ. Thổi thuốc, xông thuốc đều vô ích trong
trường hợp bạch hầu. Số lượng huyết thanh cho phải càng sớm càng tốt, và phải
cho với một số lượng đầy đủ bởi vì chỉ lượng huyết thanh đầu tiên là có giá trị mà
thôi.
Nếu bé được mở khí quản thì sự săn sóc tốt trong suốt thời gian còn đặt ống là
điều quan trọng. Lơ đễnh một chút mà để ống nghẹt là bé có thể chết dù thuốc men
tốt đến thế nào! Sau khi lành bệnh được xuất viện, bé vẫn phải tiếp tục nghỉ ngơi – ít
vận động – trong thời gian một tháng rồi mới từ từ hoạt động lại và được bác sĩ theo
dõi để tìm biến chứng nếu có. Phải làm lại 2 lần cấy vi trùng cổ họng không có bạch
hầu mới coi là khỏi bệnh. Chính trong thời kỳ dưỡng bệnh, bé có thể lây bệnh cho
bé khác.
• Phòng ngừa:
Xem thế ta thấy bệnh bạch hầu là một bệnh đáng sợ không thể coi thường
được. Có nhiều trường hợp bị bạch hầu mà không thấy có màng giả ở họng. Cho
nên không cần đợi có màng giả, mà chỉ cần thấy bé đột ngột khó thở, khò khè, tắt
tiếng, bứt rứt khác thường là phải đi khám bác sĩ ngay. Trên nguyên tắc trong mùa

có dịch, khi nghi ngờ bé bị bạch hầu thì phải chữa liền, không cần đợi kết quả xét
nghiệm.
Dĩ nhiên tốt nhất vẫn là cho bé chích ngừa. Thuốc ngừa bạch hầu thường trộn
chung với ngừa phong đòn gánh hoặc trộn chung cả với ho gà. Chích ngay từ lúc bé
được 1 tháng, chích làm 3 kỳ và một năm sau chích nhắc lại (Xem lịch chủng ngừa).

×