Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

khác biệt trong tư tưởng của triết học Nho gia và triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.05 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA
Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI
HỌC VIÊN : Lê Thiện Tâm
MSHV : 7701220989
STT : 86
NHÓM : 12
LỚP : Đêm 1
KHÓA : 22
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
Tp. HCM, 12/2012
Tiểu luận Triết Học
MỤC LỤC
Trang: 2
Tiểu luận Triết Học
I. MỞ ĐẦU
1.1 LÝ DO HÌNH THÀNH ĐỀ TÀI
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế giới
với hơn 5000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều
lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn
minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa
còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu
Á cũng như toàn thế giới. Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến hai trường
phái triết học tiêu biểu là triết học Nho gia và Triết học Pháp gia. Ngày nay, chúng ta
thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia phong” là những câu nói tiêu biểu cho
hai quan điểm của hai trường phái triết học thời cổ đại này. Cả hai trường phái triết học
đều có ảnh hưởng nhất định đến truyền thống văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa Á


Đông nói chung, Vì vậy thực hiện đề tài: “khác biệt trong tư tưởng của triết học Nho gia
và triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại” để tìm hiểu và nhận diện sự tương đồng,
khác biệt giữa hai trường phái triết học này, từ đó hiểu sâu sắc hơn về tư tưởng của người
xưa và vận dụng nó trong thực tiển có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời buổi hội nhập quốc tế ngày nay.
1.2 MỤC TIÊU CỦA BÀI TIỂU LUẬN
- Khái quát được tư tưởng chủ đạo của triết học nho gia và triết học pháp gia
- Làm nổi bật sự tương đồng giữa tư tưởng triết học nho gia và triết học pháp
gia
- Làm nổi bật sự khác biệt giữa tư tưởng triết học nho gia và triết học pháp gia
- Rút ra bài học trong thực tiễn cho bản thân
Trang: 3
Tiểu luận Triết Học
II. NỘI DUNG
1 HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC
PHÁP GIA
- Địa lý : Nước Trung Hoa chiếm một diện tích rất rộng lớn. Phía Đông giáp bờ
Thái Bình Dương, phía Tây giáp các vùng cao nguyên, núi non hiểm trở như
Himalaya, Tây Tạng, phía Bắc tiếp giáp vùng Xiberia quanh năm lạnh giá,
phía Nam giáp các quốc gia Nam Châu Á. Tổng diện tích nước Trung Hoa
chiếm gần 1/3 Châu Á. Thiên nhiên và điều kiện tự nhiên của nướcTrung Hoa
thay đổi rất lớn ở những vùng khác nhau. Phía Bắc là những cao nguyên, bình
nguyên rộng lớn, khí hậu khắc nghiệt, phía Nam có núi song bao bọc hiểm
trở, ở giữa là các đồng bằng rộng lớn của các con sông như Hoàng Hà, Dương
Tử… Chính nhờ sự phong phú của điều kiện thiên nhiên,khí hậu mà có nhiều
chủng tộc sinh sống trên đất nước Trung Hoa dẫn đến nhiều nền văn minh, tư
tưởng khác nhau.
- Nhân chủng học : Dân cư của Trung Hoa cổ đại phân bố trên các khu vực
chính như sau - Phía Bắc : Các chủng tộc Hoa Hạ có cuộc sống chủ yếu là du
mục, săn bắn. Do đời sống du mục họ luôn cố gắng xâm chiếm, thôn tính các

dân tộc kém phát triển, đồng hoá hay du nhập các nền văn hoá khác nhau.
Phía Nam : Các dân tộc Bách Việt có cuộc sống chủ yếu là nuôi trồng, săn
bắn, khai thác các sản vật thiên nhiên như đánh cá, săn bắt thú… Các dân tộc
này sống tương đối khép kín, yêu chuộng hoà bình, tự do.
- Miền đồng bằng sông Dương Tử, Hoàng Hà : Các dân tộc Tam Miêu sống chủ
yếu bằng nghề nông nghiệp, có nền văn hoá phát triển, có kiến thức toán học,
khoa học tự nhiên
- Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học : Trung Hoa thời kỳ Xuân
Thu - Chiến Quốc là giai đoạn chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ (với các
sứ quan cát cứ khắp nơi) sang giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập
quyền. Nhà Chu bị phân rã làm 7 quốc gia khác nhau : Tần, Sở, Tề, Ngụy,
Hàn, Triệu, Yên. Dưới thời thịnh vượng của nhà Chu, đất đai thuộc về nhà
Vua thì nay quyền sở hữu tối cao về đất đai ấy bị một tầng lớp mới, tầng lớp
địa chủ chiếm làm tư hữu. Một sự phân hoá sang hèn dựa trên cơ sở tài sản
xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn. Sự tranh giành địa
vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào tình trạng
chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó, một loạt học thuyết chính
trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều có xu hướng giải quyết
những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Điều đó trở thành nét
Trang: 4
Tiểu luận Triết Học
đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Chính trong thời kỳ loạn lạc
này đã xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành nên những hệ thống
triết học khá hoàn chỉnh, được tồn tại và phát triển theo suốt bề dầy lịch sử
phát triển của đất nước Trung Hoa.Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không
chỉ quan tâm giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức mà nó còn
đặt ra và giải quyết những vấn đề của triết học như vấn đề bản nguyên thế
giới, vấn đề cơ bản của triết học,vấn đề con người; đặc biệt là vấn đề tính
người, vấn đề sự biến dịch của vạn vật và một số vần đề thuộc lý luận nhận
thức. Nổi bật lên trong đó là hai trường phái triết học Nho gia và triết học

Pháp gia.
-
Trang: 5
Tiểu luận Triết Học
2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA
2.2.1. Tổ chức xã hội
Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả,
điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này
gọi là quân tử. (quân là kẻ làm vua, quân tử là chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt
với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau Khổng Tử dùng từ "quân tử"
để chỉ phẩm chất đạo đức: "Quân tử sở tính Nhân nghĩa lễ trí" phân biệt với "tiểu nhân"
là những người thiếu đạo đức). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải
"tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải
"hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Đạo ở đây là con đường để hoàn thiện
chính mình, hoà hợp đất trời trở về bản ngã “bổn thiện”).
Trong cuốn Đại Học (Một trong Tứ thư, những cuốn sách chính của Nho giáo) có ghi
chép: “Khi bản thân tu luyện, gia tộc hài hòa. Khi gia tộc hài hòa, đất nước mới được
thịnh trị. Khi đất nước được thịnh trị, khắp nơi sẽ thái bình. Từ bậc quân vương cho đến
kẻ dân thường trăm họ, tất cả phải coi tu luyện bản thân là điều quan trọng nhất”.
2.2.2. Quan niệm về lý luận đạo đức con người
Khổng tử đã xây dựng nên thuyết thiên mệnh để giải thích về tính của con người
Ông cho rằng: Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo và tính
tương cận, tập tương viễn. Điều này có nghĩa là: Con người có tính người, tính người do
trời phú, sự phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc
sống, do điều kiện, hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không
giống nhau mà người này khác xa người kia. Vậy, tập là điều kiện, hoàn cảnh, là nguyên
nhân làm biến tính ở mỗi con người, làm cho con người không giử được tính do trời phú
cho, làm cho con người trở nên vô đạo, rồi cả nước, cả thiên hạ vô đạo. Vì vậy, muốn giữ
được tính cho con người phải lập đạo; nghĩa là phải làm (giáo dục) cho cả nước, cả thiên
hạ hữu đạo. Hữu đạo là thể hiện được mối quan hệ giữa người và người, giữa người và

trời đất - vạn vật một cách đúng đắn, nghĩa là phù hợp với thiên mệnh mà thực chất là
làm theo các nguyên tắc, phương châm cơ bản của nho gia. Khổng tử cho rằng, nếu lập
đạo của trời, nói về âm và dương; lập đạo của đất, nói về cương và nhu; thì lập đạo của
người, phải nói về nhân và nghĩa.
Quan niệm về nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm đào tạo của đạo đức Nho gia nguyên
thủy, chúng hợp với các quan niệm khác tạo thành hệ thống phạm trù đạo đức của phái
này: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng…
Trang: 6
Tiểu luận Triết Học
- Nhân: Là lòng từ thiện. Khổng Tử nói: Khi ở nhà giữ gìn dung mạo khiêm
cung; khi ra làm việc thi hành một cách kính cẩn; khi giao thiệp với người, giữ
lòng trung thành. Dẫu đi tới các đoàn rợ phương đông và phương bắc, cũng
chẳng bỏ ba đức hạnh cung, kính và trung ấy, như vậy là người có đức nhân
- Nghĩa: Là việc nên làm hay là cách xử sự phải đường hoàng, hào hiệp. Hành vi
của con người phải tuân theo tính chính đáng, chú trọng quy tắc, tiêu chuẩn,
trọng tâm là nghĩa vụ và trách nhiệm. Trước khi làm gì phải xem xét hành vi
đó có hướng đến điều “thiện” hay không, có thể hiện tiêu chuẩn đạo nghĩa, ý
thức trách nhiệm với cộng đồng hay không.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người, mở rộng ra là việc
tuân thủ các quy tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Một cách căn
bản, chính nghi lễ và nghi thức làm cho cuộc sống quân bình. Lễ làm bền vững
nền văn hiến của một nước, lễ mà bại hoại thì văn hiến cũng tiêu tan. Khổng
Tử nói: "Cung kính mà thiếu lễ thì làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận mà thiếu
lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng cảm mà thiếu lễ sẽ trở thành rối loạn. Ngay
thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên thô lỗ”.
- Trí: Óc khôn ngoan, sáng suốt. Cảm giác đúng và sai. Biết tiên liệu, tính toán
để hành động hợp đạo lý.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Chữ tín vốn nằm trong 4 điều trên, sau này
được tách ra để thành Ngũ thường. Tín là thước đo, là sự phản ánh 4 giá trị
trên.

- Dũng: Sức mạnh tin thần , lòng can đảm, biết xấu hổ vì cái sai, cái xấu để vứt
bỏ chúng mà lam theo nhân nghĩa….Là đức nói lên tin thần hăng hái, gan dạ
dám hy sinh, quyết tâm khắc phục khó khăn, dũng biểu hiện sức mạnh và ý chí
thực hiện mục đích của mình. Khổng tử rất quan tâm tới chử Dũng, nhưng ông
vừa cổ vũ, vừa dè dặt. Ông cổ vũ tin thần quả cảm, khí phách anh hùng của
những nhân dân đối với vua chúa phong kiến. Mặt khác, ông lại dè dặt đối với
Dũng vì người Dũng là người không sợ sệt. Khi mất phương hướng, những
người đó sẽ phá phách, gây nên những hậu quả tiêu cực. Ông thường hay gắn
dũng với trí để chỉ dũng không thể không có trí soi sáng. Gắn dũng với lễ cho
thấy quân tử ghét những kẽ có dũng mà không có lễ, không có trí…
2.2.3. Tư tưởng về tu thân của người quân tử
- Theo Nho gia, ngũ luân- năm mối quan hệ mà con người phải xác định và làm
tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ ấy, trong đó có ba quan hệ chính-
tam cương là vua-tôi, cha-con, chồng- vợ. Trong tam cương có hai quan hệ
mấu chốt là Vua- Tôi, biểu hiện bằng đức Trung, cha- con biểu hiện bằng đức
Trang: 7
Tiểu luận Triết Học
hiếu, giữa trung và hiếu thì trung đứng đầu. Những đức con người thường
xuyên phải trau dồi ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đứng đầu ngũ thường
là nhân, nghĩa, trong đó nhân là chủ. Vì vậy, gọi đạo của Khổng tử là đạo nhân.
Nho gia đặt con người trong năm mối quan hệ với những lập luận khá chặt chẽ,
làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung tu dưỡng của con người là có
tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần cũng cố trật tự xã hội, nó là sản phẩm
của xã hội và cũng là nguyên nhân của trì trệ xã hội đó.
- Khổng tử và mạnh tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của
người quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phài tu thân. Để tu thân
cần phải đạt đạo (con đường phải theo, quan hệ mà con người phải biết giữ để
ứng xữ trong cuộc sống) mà trước hết là đạo quân-thần, phụ- tử, phu- phụ và
cần phải đạt đức, đồng thời phải biết thi, thư, lễ nhạc. Lấy tu thân làm gốc,
nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để

hành động hiệu quả người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị và chính
danh. Chỉ có như vậy thì người quân tử- giai cấp cai trị mới xây dựng được
một xã hội đại đồng.
- Khổng Tử nói: "Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ
lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, nên không sợ, (mà
còn) khinh nhờn bậc đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân. Người quân tử
ung dung mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung”.
- Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Khổng Tử nói: “Ta đi học là học cho
ta, để gây cái phẩm giá của ta, chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo
không làm được những việc đáng cho người ta biết, chứ không lo người ta
không biết mình”. “Muốn nhân mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngu,
muốn trí mà không muốn học thì bị cái che mờ là cao kỳ, muốn tín mà không
muốn học thì bị cái che mờ là hại nghĩa, muốn trực mà không muốn học thì bị
cái che mờ là ngang ngạnh, muốn dũng mà không muốn học thì bị cái che mờ
là loạn, muốn cương mà không muốn học thì bị cái che mờ là táo bạo khinh
suất”.
Trang: 8
Tiểu luận Triết Học
2.3. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHÁP GIA
2.3.1. Ba cơ sở hình thành triết học Pháp Gia
"Pháp gia" ở đây có thể mang ý nghĩa "triết lý chính trị tán thành sự cai trị của pháp
luật" . Thuyết pháp trị của Hàn Phi dựa trên ba cơ sở sau:
- Một là : thừa nhận sự tồn tại của lý- tính quy luật hay những lực lượng khách quan
trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu cầu con
người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp.
- Hai là: Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, do không có chế độ xã hội nào
bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Theo ông, người
thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của
thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích
hợp. Ông cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời

đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay
đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
- Ba là, thừa nhận bản tính của con người là ác: Do bản tính con người là ác và do
trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội
yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc thiện (thực hành nhân
nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác
(Thực hiện pháp trị)
2.3.2. Phép trị quốc của Hàn Phi
Là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh được tổng hợp từ Pháp, Thế và Thuật; trong
đó, pháp là nội dung của chính sách cai trị, thế và thuật; trong đó, pháp là nội dung của
chính sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó. Cả ba pháp, thế,
thuật đều là công cụ trị nước của bậc đế Vương.
- Pháp : Luật hay quy tắc. Luật pháp phải được trình bày rõ ràng và thông báo rộng
rãi cho công chúng. Tất cả thần dân của nhà cai trị đều bình đẳng trước pháp luật.
Luật pháp phải thưởng cho những người tuân phục và trừng phạt những người bất
tuân. Vì thế, nó đảm bảo được rằng mọi phán xét của pháp luật là đều có thể suy
luận theo hệ thống để biết trước được (từ khi phát sinh hành động liên quan tới
pháp luật, đã có thể đoán trước phán xét của pháp luật cho hành động đó là như
thế nào). Hơn nữa, hệ thống luật pháp cai quản đất nước, chứ không phải là nhà
vua cai trị. Nếu có thể làm cho pháp luật có hiệu lực, thậm chí một vị vua kém tài
cũng trở nên mạnh mẽ.
- Thuật : Phương pháp, thủ đoạn hay nghệ thuật. Những thủ đoạn đặc biệt và “bí
mật” được vị vua cai trị dùng để đảm bảo rằng những người khác (quan lại )
không thể chiếm quyền kiểm soát quốc gia. Điều đặc biệt quan trọng là không một
ai có thể biết được những động cơ thực sự của những hành động của nhà vua, và
Trang: 9
Tiểu luận Triết Học
vì thế không ai biết được cách đối xử thế nào để có thể tiến thân, ngoại trừ việc
tuân theo “pháp” hay các luật lệ.
- Thế : tính chính thống, quyền lực hay uy tín. Chính vị trí của nhà vua cai trị, chứ

không phải nhà vua, nắm giữ quyền lực. Vì thế việc phân tích khuynh hướng, hoàn
cảnh và những yếu tố thực tại là điều căn bản của một vị vua cai trị thực sự.
2.3.3. Tư tưởng về con người của Hàn Phi
Những nội dung về vấn đề con người trong triết thuyết của ông khá tàn nhẫn và thể hiện
một sự công phá từ bên trong khi ông nhận ra bản chất đích thực của con người lại
thường bị che giấu bởi những giá trị không thật. Ông chấp nhận con người với đầy đủ bản
năng sinh tồn để đấu tranh cho sự tồn tại của chính bản thân mình như một lẽ tự nhiên. Với
xuất phát điểm đó, Hàn Phi đã đi thẳng vào khía cạnh lợi ích cá nhân - chủ yếu là lợi ích về
mặt vật chất, để khẳng định cơ sở sự tồn tại của con người và bản tính vốn hám lợi, sợ hại
của mọi cá thể. Theo Hàn Phí, bản chất này được bộc lộ qua vô số các hiện tượng khác
nhau, như người đóng quan tài thì mong cho người ta chết, người làm cỗ xe thì mong cho
người ta được sang, thầy thuốc thì mong người ta bị bệnh nhiều còn trong quan hệ vua tôi:
“Làm hại đến thân mình mà có lợi cho nước, bầy tôi không làm… Tình cảm của bề tôi là
không thấy cái lợi ở chỗ thân mình bị thiệt hại”. Cho nên, với Hàn Phi, các quan hệ giữa
người với người đều bị quyết định bởi cái lợi ích thiết thân; cái lợi ở đâu thì người ta theo
đó mà làm, cái hại đến thân ở đâu thì người ta theo đó mà tránh, mọi giá trị nhân, nghĩa đều
chỉ là giả dối.
Thẳng thắn nhìn vào con người với tư cách một sinh vật mang bản chất hám lợi và ích
kỷ, Hàn Phi chấp nhận sự tồn tại một cách tự nhiên và phổ biến của dạng người này như
một sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển. Theo ông, đã có thời kỳ lịch sử con người
không đặt cái lợi ích lên hàng đầu, đó là thời thượng cổ. Lúc đó, “đàn ông không cày vì
các sản phẩm của cây, cỏ đủ để ăn; đàn bà không dệt vì da của chim muông đủ để mặc:
Không phải vất vả mà việc nuôi dưỡng có đủ, số người thì ít mà tài sản thì có thừa. Vì
vậy cho nên nhân dân không phải tranh giành. Bởi vậy không cần phải thưởng hậu,
không phải dùng hình phạt nặng mà nhân dân tự nhiên trị an”. Về sau, con người đông
lên còn của cải ít đi, nên mặc dù họ đã cố gắng, vất vả làm việc nhưng vẫn không đủ
sống. Lúc này, xã hội bắt đầu nảy sinh sự tranh giành của cải, cướp bóc lẫn nhau, và xã
hội vì thế mà loạn.
Hàn Phi đã giải thích mâu thuẫn xã hội bắt đầu từ lợi ích kinh tế trên cơ sở phân tích sự
biến đổi của điều kiện dân số, tình trạng dân cư, trình độ của công cụ lao động… Có thể

nói, khi khẳng định ảnh hưởng mang tính quyết định của yếu tố kinh tế đối với mỗi cá
nhân và từng xã hội, Hàn Phi đã động chạm đến gốc rễ của vấn đề - cái gốc rễ mà nhiều
người đương thời đã che đậy, không dám thẳng thắn thừa nhận. Hơn thế, Hàn Phi còn
nhận ra tác dụng hai chiều của yếu tố kinh tế đối với con người. Một mặt, cái lợi là yếu tố
căn bản thúc đẩy con người hành động, tranh giành của cải và là nguyên nhân gây ra mâu
thuẫn; nhưng, mặt khác, nó cũng là yếu tố liên kết con người với nhau. Theo đó, hành
động vì cái lợi là lẽ bình thường, vấn đề là cần đặt cái lợi riêng trong cái lợi chung, không
vì cái lợi riêng mà đi ngược lại cái lợi chung. Đây là tư tưởng biện chứng khá sâu sắc của
Hàn Phi. Ông đã đánh giá xã hội đương thời và phê phán chế độ quân chủ một cách sắc
Trang: 10
Tiểu luận Triết Học
bén và thẳng thắn. Trong hệ thống triết học - chính trị của Hàn Phi, mỗi con người với tư
cách cá nhân đều bị “lột trần” cái vỏ bọc bề ngoài để hiện ra với nguyên nghĩa cá thể cần
những giá trị căn bản bên trong như nhau để tồn tại. Theo Hàn Phi, bản chất hám lợi và
sợ hại ấy của con người là cái không thể che giấu, sửa đổi, nhưng nếu biết sử dụng nó sao
cho hợp lý trong các mối quan hệ giữa người với người thì nó sẽ đem lại hiệu quả nhất
định.
2.4. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA
VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA
II.4.1 Sự tương đồng giữa triết học nho gia và triết học pháp gia:
- Hoàn cảnh ra đời: Trung Hoa thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là giai đoạn
chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi) sang giai
đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà Chu bị phân rã làm 7 quốc
gia khác nhau : Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Một sự phân hoá sang hèn
dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn.
Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội vào tình trạng
chiến tranh khốc liệt liên miên.
- Mục đích hướng đến: Cả Triết học Nho gia và Pháp gia vì cùng ra đời trong hoàn
cảnh tương tự nhau nên cả hai trường phái triết học này đều hướng đến giải quyết
vấn đề thời đại là làm sao chấm dứt loạn lạc, để người dân có cuộc sống yên bình

chính vì vậy trong quá trình xây dựng lý luận cho mình cả hai đều cố gắng đi tìm
nguồn gốc nguyên nhân dẫn đến xã hội loạn lạc từ đó đề ra phương pháp để tầng
lớp thống trị thống nhất thiên hạ chấm dứt loạn lạc.
- Đối tượng nghiên cứu: Cả hai trường phái triết học đều nghiên cứu về bản tính
của con người và từ đó nhân rộng khái quát cho toàn bộ xã hội, họ tập trung
nghiên cứu và lý giải sự biến đổi về đạo đức trong con người từ lúc sinh ra cho
đến lúc trưởng thành. Mặc dầu quan điểm về bản tính con người khác nhau, Nho
gia cho rằng: “Nhân chi sơ tính bản thiện”, Pháp gia cho rằng: con người sinh ra
vốn có bản tính ác.
- Tính kế thừa triết học Nho gia trong triết học Pháp gia, Hàn Phi là con người
duy nhất của Trung Quốc thực hiện được một sự tổng hợp ba học thuyết Nho, Lão,
Pháp, ở đó Nho là tài liệu xây dựng, Pháp là cái bản thiết kế, nhưng Lão mới là kỹ
thuật thi công của cái ngôi nhà độc đáo.
- Mang tính Duy Tâm khách quan, Khổng tử đã xây dựng nên thuyết thiên mệnh
để giải thích về tính của con người
Ông cho rằng: Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo và
tính tương cận, tập tương viễn. Điều này có nghĩa là: Con người có tính người,
Trang: 11
Tiểu luận Triết Học
tính người do trời phú, sự phú cái tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người.
Nhưng trong cuộc sống, do điều kiện, hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những
tập quán, tập tục không giống nhau mà người này khác xa người kia.
Hàn phi tử cũng cho rằng Tính người là do trời sinh và bản chất con người là tính
ác.
- Khi giải thích về nguồn gốc của sự loạn lạc trong xã hội cả Khổng Tử và Hàn
Phi đều thừa nhận rằng Vì cái “Lợi” nên con người bị tha hóa về bản chất và
từ đó dẫn đến xã hội loạn .Hàn Phi Tử còn mở rộng cái vị lợi đó đến mọi mối
quan hệ gia đình và xã hội. chẳng hạn trong mối quan hệ cha – con, chử Hiếu của
nho gia đã được thay thế bằng chử lợi
II.4.2 Sự khác biệt giữa triết học Nho Gia và triết học Pháp Gia

- Quan niệm về đạo đức con người:
Khổng tử cho rằng: Con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái
tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống, do điều
kiện, hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống
nhau mà người này khác xa người kia. Vậy, tập là điều kiện, hoàn cảnh, là nguyên
nhân làm biến tính ở mỗi con người, làm cho con người không giử được tính do
trời phú cho, làm cho con người trở nên vô đạo, rồi cả nước, cả thiên hạ vô đạo.
Hàn Phi cho rằng: Bản tính của con người là ác: Do bản tính con người là ác và do
trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội
yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc thiện (thực hành nhân
nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều
ác( Thực hiện pháp trị)
- Về đường lối trị Quốc
Nho gia chủ trương trị quốc bằng Nhân trị (Đức Trị): Để tổ chức xã hội có hiệu
quả, Khổng tử cho rằng: Điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai
trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. (quân là kẻ làm vua, quân tử là
chỉ tầng lớp trên trong xã hội, ). Khổng tử và mạnh tử đều nhất trí coi chuẩn mực
đạo đức là tiêu chuẩn của người quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần
phài tu thân. Để tu thân cần phải đạt đạo (con đường phải theo, quan hệ mà con
người phải biết giữ để ứng xữ trong cuộc sống) mà trước hết là đạo quân-thần,
phụ- tử, phu- phụ và cần phải đạt đức,đồng thời phải biết thi, thư, lễ nhạc. Lấy tu
thân làm gốc, nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ. Để hành động hiệu quả người quân tử phải thực hành đường lối nhân trị và
Trang: 12
Tiểu luận Triết Học
chính danh. Chỉ có như vậy thì người quân tử- giai cấp cai trị mới xây dựng được
một xã hội đại đồng.
Pháp gia chủ trương trị quốc bằng Pháp trị, tuy pháp trị mà trọng dân. Trước khi
đặt ra luật lệ mới, ông để cho dân tự phê bình. Còn lập pháp thuộc về nhà vua, quy
tắc lập pháp phải lấy tính người và phép trời làm tiêu chuẩn. Hành pháp thì phải

công bố luật cho rõ ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh, tránh thay đổi nhiều, phải chí
công vô tư, vua tôi sang hèn đều phải theo pháp luật, thưởng phạt phải nghiêm
minh, “danh chính, pháp hoàn bị thì bậc minh quân chẳng có việc gì phải làm nữa,
vô vi mà được trị. Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn gì thì cấp cho
cái đó. Hàn Phi Tử lại đưa ra quan điểm: Bản chất con người là ác, muốn quản lý
xã hội phải xướng ra lễ nghĩa và chế định ra pháp luật để uốn nắn tính xấu của con
người; theo các ông quản lý xã hội là Vị pháp chứ không Vị Đức.
- Phương pháp giáo hóa đạo làm người:
Triết học Nho gia:
Khổng tử và mạnh tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn của người
quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phài tu thân.Để tu thân cần phải đạt
đạo (con đường phải theo, quan hệ mà con người phải biết giữ để ứng xữ trong
cuộc sống) mà trước hết là đạo quân-thần, phụ- tử, phu- phụ và cần phải đạt
đức,đồng thời phải biết thi, thư, lễ nhạc. Lấy tu thân làm gốc, nhưng người quân tử
phải biết hành động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Triết học pháp gia:
Hàn Phi nhận ra và thấu hiểu các mánh khoé của tất cả các hạng người trong xã hội.
ông không ảo tưởng mơ về một thời đại huy hoàng như thời đại trước. Đối với Hàn
Phi, các đời Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ đều làm trái cái nghĩa thông thường, làm cho
việc giáo hoá đời sau bị rối loạn. Cho rằng, đức dày không đủ để ngăn cấm điều loạn
nhưng uy thế thì có thể, ông phản đối cách đề cao các bậc đế vương theo lối học thuật
để dạy người. Theo Hàn Phi, hình phạt là gốc của lòng thương, xét cái đạo hiếu đễ,
trung thuận cho kỹ mà thi hành. con người trong học thuyết của ông luôn ở địa vị
thấp hèn và bị phụ thuộc.
- Đối tượng sử dụng:
Triết học nho giáo với Người quân tử là tầng lớp địa chủ phong kiến
Triết Học pháp gia:Tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị,
pháp luật, triết học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục, ; trong đó, then chốt chính
là tư tưởng chính trị. Ông để tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã
Trang: 13

Tiểu luận Triết Học
hội đương thời có thể vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được cục
diện chính trị ổn định, để cho nước giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là
một bộ sách chính trị học vĩ đại và học thuyết chính trị của ông được người xưa
gọi là “học thuyết của đế vương”
III. KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC CHO BẢN THÂN
4 Kết luận:
- Xã hội Trung Hoa thời kỳ Xuân Thu- Chiến Quốc hết sức đảo lộn đã đặt ra vấn đề
thời đại là làm sao chấm dứt loạn lạc, mang về cho người dân cuộc sống ấm no,
hạnh phúc?
- Triết Học Nho Gia và Pháp Gia ra đời dù còn hạn chế nhưng phần nào đã giải
quyết được vấn đề của lịch sử. Khổng Tử đã tạo ra học thuyết về thiên mệnh giúp
người Quân tử tu thân dưỡng đức từ đó cai trị xã hội bằng đạo đức, nhân đạo, bằng
tình cảm nhân bản-nhân ái. Hàn Phi đề cao duy lý, duy lợi và không ngại dùng
hình phạt, thuật trong cai trị, học thuyết của ông được Tần Thủy Hoàng áp dụng
như là Kim chỉ Nan để thống nhất Trung Hoa.
- Cả Hai Trường phái triết học đều có ảnh hưởng sâu rộng trong suốt lịch sử trung
Hoa và để lại nhiều triết lý sâu sắc cho thế hệ sau.
5 Bài Học cho bản thân:
- trong một lời tự bạch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Học thuyết của Khổng Tử
có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân” Như vậy thông qua tìm hiểu tư tưởng
triết học Nho giáo của Khổng Tử giúp bản thân hiểu thêm về những đức tính tốt
đẹp trong văn hóa Á Đông để định hướng cho bản thân trong suốt cuộc đời.
- Trong tư tưởng quản lý doanh nghiệp không nên áp dụng triệt để tư tưởng Đức trị
của Khổng Tử hay tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi mà phải vận dụng nhuần nhuyễn
cả hai tư tưởng đó.
Trang: 14
Tiểu luận Triết Học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách:

[1] Bùi Văn Mưa (2011) Triết học phần I Đại Cương về lịch sử triết học Trường Đại Học
Kinh Tế Tp.hcm
[2] Phan Ngọc (2001) Hàn Phi Tử Nhà xuất bản Văn học Hà Nội
Tài Liệu trên Internet:
[1]tư tưởng pháp trị của Hàn Phi
/>[2] Vấn đề con người trong tư tưởng Pháp Trị Của Hàn Phi
/>[3]Triết học nho giáo và ảnh hưởng của triết học nho giáo đến văn hóa truyền thống của
Việt nam
/>gio-n-nn-vn-ha-truyn-thng-ca-vit-nam
Trang: 15

×