TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN TRIẾT
HỌC
Đề tài 11:
CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN BẢN CỦA PHOIƠBẮC
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC MÁC
TP Hồ Chí Minh
Tháng 12/ 2014
Mục lục
Lời mở đầu 1
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122 1
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
Học viên: Nguyễn Thị Xuân Thu
Số thứ tự: 99
MSHV : 7701221122
Tiểu Luận Triết Học
I. Những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc 2
1.1 Giới thiệu sơ lược về Phoiơbắc 2
1.2. Chủ nghĩa duy vật nhân bán Phoiơbắc 2
1.2.1 Quan niệm về giới tự nhiên và con người 5
1.2.2 Quan niệm về tôn giáo 6
II. Những giá trị, hạn chế và vai trò của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc
đối với triết học Mác 9
2.1 Những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản
Phoiơbắc 9
2.2. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đối với
triết học Mác 10
2.2.1 Luận cương về Phoiơbắc của Mác 10
2.2.2 Sự ảnh hưởng của triết học Phoiơbắc đối với sự hình thành
triết học Mác 13
III. Kết luận 15
IV. Tài liệu tham khảo 17
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
2
LỜI MỞ ĐẦU
Nhân loại vẫn luôn nhắc tới các nhàn tư tưởng tiến bộ trong lịch sử xã hội
loài người, những người gắn suy nghĩ của mình với khát vọng vươn tới một cuộc
sống tốt đẹp hơn cho con người. Đồng thời, những tư tưởng tiến bộ của họ luôn
được các thời đại lịch sử tiếp theo phục hồi , phát triển, làm phong phú them để
phù hợp với yếu tố thời đại, những nhu cầu xã hội cao hơn. Lútvich Phoiơbắc với
tư tưởng nhân đạo trong những quan niệm của ông về tôn giáo và sự giải phóng
con người là một trong những người như vậy.
L.Phoiơbắc đã xây dựng quan điểm về con người trong trường văn hoá
trên cơ sở suy ngẫm và phê phán các di sản tư tưởng trước đó. Nguyên lý nhân
bản được L.Phoiơbắc vận dụng vào học thuyết luân lý của mình. L.Phoiơbắc đã
mở cửa cho tình yêu, cho cái thiện đi vào suy tư của ông về văn hoá và con
người. Mặc dù còn có một số hạn chế, song khi xem xét con người và văn hoá
dưới góc độ của nguyên lý nhân bản, L.Phoiơbắc đã có những đóng góp thực sự
cho nền triết học thời bấy giờ.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư
tưởng nhân loại trong đó điển hình là những tư tưởng lỗi lạc của Phoiơbắc để
xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại.
Vì vậy đề tài này sẽ làm rõ vai trò của Triết học Phoiơbắc đối với sự hình
thành và phát triển của Triết học Mác.
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122 3
Tiểu Luận Triết Học
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT NHÂN
BẢN PHOIƠBẮC
1.1 Giới thiệu sơ lược về Phoiơbắc
Lútvích Phoiơbắc là một đại biểu lỗi lạc của nền triết học cổ điển Đức, nhà
duy vật lớn nhất của triết học thời kỳ trước Mác, nhà vô thần, bậc tiền bối của
triết học Mác. Ông sinh năm 1804 trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức.
Ông đã theo học ở trường đại học tổng hợp Beclin, tham gia phái Hegel trẻ. Về
sau ông tách khỏi phái này, trở thành người phê phán hệ thống của Hegel, xây
dựng hệ thống triết học duy vật riêng của mình.
Năm 1831, Hêgen mất, tám năm sau, Phoiơbắc công bố tác phẩm Góp phần
phê phán triết học Hêgen, qua đó đoạn tuyệt vời thế giới quan duy tâm, trở thành
nhà duy vật. Vấn đề cải cách triết học được ông bàn đến ở hầu hết các tác phẩm
sau đó, nhưng nổi bật nhất là trong ba tác phẩm kế tiếp nhau: gồm Bản chất của
Cơ đốc giáo (1841), Sơ thảo luận cương về cải cách triết học (1842), Những
nguyên lý cơ bản của triết học về tương lai (1843). Ba tác phẩm này có sức thu
hút lớn đối với Mác thời trẻ bởi tính kiên định, phân minh về thế giới quan và
thiên hướng chính trị dân chủ, nhân văn của chúng.
Phoiơbắc là đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, người đã đem đến
sự kết thúc đầy ý nghĩa toàn bộ nền triết học phương Tây cổ điển nói chung, triết
học cổ điển Đức nói riêng.
1.2 Chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
Sau khi Hêghen qua đời, những người theo học thuyết Hêghen đã phân
hoá thành hai nhóm là " Hêghen trẻ" và " Hêghen già". Phái Hêghen già thì bám
lấy mặt bảo thủ của hệ thống Hêghen, bảo vệ chế độ nhà nước Phổ đã lỗi thời về
mặt lịch sử. Trái lại phái Hêghen trẻ lại phát triển triết học Hêghen về phía lập
trường giai cấp tư sản cấp tiến, dân chủ, đòi cải cách nhà nước Phổ theo hướng tư
sản. Họ nắm lấy tinh thần của phép biện chứng trong triết học Hêghen. Trong
nhóm " Hêghen trẻ" có cả Phoiơbắc, Mác và Ăngghen.
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
4
Tiểu Luận Triết Học
Phoiơbắc tin rằng tôn giáo, các khái niệm của tinh thần tuyệt đối thống trị
thế giới hiện thực. Về sau, chịu ảnh hưởng của các nhà khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII Phoiơbắc quay sang phê phán Hêghen, ngày càng ngả sang lập trường duy
vật. Hạn chế cơ bản nhất của triết học Hêghen, theo Phoiơbắc, là sự đồng nhất
giữa tư duy và tồn tại, là quan điểm duy tâm trong việc giải quyết mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên, coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là hiện thân của
tinh thần tuyệt đối được hiểu như một lực lượng siêu tự nhiên. Phoiơbắc vạch ra
sự liên kết chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy tâm và thần học nhằm nô dịch con người
(coi ý niệm tuyệt đối tha hoá thành giới tự nhiên cũng giống như quan niệm Chúa
trời tạo ra thế giới). Phoiơbắc chỉ ra rằng Hêghen chỉ khác thần học ở chỗ ông đã
sử dụng một hình thức khác để diễn đạt tư tưởng của mình, tức là ông đã biến
lịch sử thần học thành cái gọi là tư duy logic mà thôi. Vì vậy, Phoiơbắc cho rằng:
"Triết học Hêghen là chỗ ẩn náu cuối cùng của thần học mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại như sau: tồn tại - chủ thể, tư duy - thuộc tính."
1.2.1. Quan niệm về giới tự nhiên và con người
Vốn là người mang tư tưởng không khoan dung theo lối nhân đạo chủ
nghĩa đối với mọi sự áp bức con người, luôn đặt niềm tin vào khả năng vô tận
của lý trí con người, khát vọng chân lý là cái không tương dung với chủ nghĩa
giáo điều, song ông lại sống trong một thời đại mà sự thống trị tinh thần thuộc về
tôn giáo và các khái niệm của “tinh thần tuyệt đối”, L.Phoiơbắc đã chống lại sự
thống trị đó. Đối lập với Hêghen – người coi toàn bộ thế giới hiện thực chỉ là
hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu như một lực lượng siêu nhiên, L.
Phoiơbắc cho rằng con người không phải là nô lệ của Thượng đế hay “tinh thần
tuyệt đối” mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên, là “ cái
gương của vũ trụ” mà thông qua đó giới tự nhiên ý thức và nhận thức chính bản
thân mình. Con người – đó không phải là một lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra
hiện thực, mà là sản phẩm cao quý nhất của tạo hóa, là những con người bằng
xương, bằng thịt. Bản chất cửa con người là tổng thể những khát vọng, khả năng,
nhu cầu, ham muốn và trí tưởng tượng.
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
5
Tiểu Luận Triết Học
Khác với những người theo chủ nghĩa duy lý, L.Phoiơbắc cho rằng, con
người không chỉ khác con vật ở chỗ có trí tuệ, mà cả ở xúc cảm. Cảm xúc ở con
người khác về chất với cảm giác vốn có ở động vật. Sứ mệnh của lý tính không
phải là ở việc lấn át cảm tính của con người mà là ở chỗ phát triển nó, phát triển
nhân tính. Đời sống con người trước hết là đời sống cảm tính, hạnh phúc của con
người không thể có được bên ngoài sự đa dạng, sự phong phú của hoạt động tình
cảm, cảm tính. Quan hệ của con người với tự nhiên, về cơ bản và chủ yếu là quan
hệ cảm tính. Tôn giáo bắt nguồn từ đời sống tình cảm của con người, từ những
cảm xúc do thực tại cũng như bản chất nhân chủng của con người gây ra. Và cái
đó liên quan đến bản chất nhân chủng đó là khát vọng hạnh phúc, là tính tất yếu
của cái chết và tất cả những già ngay từ đầu và trong tiến trình lịch sử được nảy
sinh ra từ đó.
Bởi vậy, theo ông, nhiệm vụ cao cả của triết học là đem lại cho con người
một quan niệm mới về chính bản thâm mình, một cuộc sống hạnh phúc và hơn
nữa, tiến hành cuộc đấu tranh lý luận cho việc giải phóng con người. Khắc phục
sự sung bái cái siêu nhiên, đấu tranh chống lại chủ nghĩa giáo quyền, phê phán
các quan niệm tôn giáo về thế giới và con người - đó là sứ mệnh nhân đạo của
chủ nghĩa triết học.
1.2.2. Quan niệm về tôn giáo
Khi phân tích bản chất của tôn giáo, khác với các nhà duy vật Pháp thế kỉ
XVIII – những người vô thần chiến đấu, phê phán tôn giáo một các hết sức
không thương xót, đặt nó trước tòa án của lý tính và biện hộ cho sự tồn tại của
mình nhưng lại ít đề cập đến nguồn gốc của tôn giáo.
L. Phoiơbắc cho rằng tôn giáo xuất hiện với tư cách là ý thức đại chúng và
tồn tại trước hết là nó thể hiện đời sống sinh hoạt hiện thực, những nhu cầu cấp
bách của quần chúng, những tai họa mà họ phải gánh chịu. Theo ông, ý thức tôn
giáo là sự phản ánh tồn tại hiện thực của con người, và xét về phương diện lịch
sử, tôn giáo đã xuất hiện với tư cách là thần thánh hóa tự nhiên, là sự sung bái
các lực lượng tự nhiên tự phát thống trị con người. Dựa vào tôn giáo, con người
gắng gượng lamg chủ các lực lượng tụ nhiên, chinh phục tự nhiên với hi vọng
buộc nó phải phcụ vụ cho khát vọng hạnh phúc của mình. Con người lệ thuộc
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
6
Tiểu Luận Triết Học
vào tự nhiên cố gắng nhận thức sự lệ thuộc đó và cố gắng giải phóng khỏi nó.
Song, theo Phoiơbắc, nếu sự phụ thuộc vào tự nhiên là cơ sở, là khởi nguyên của
tôn giáo thì khát vọng thoát khỏi sự phụ thuộc đó với nghĩa hợp lý cũng như phi
lý đều là mục đích cuối cùng của tôn giáo.
Khi đưa ra quan niệm đó, L.Phoiơbắc hoàn toand cho rằng ở một chừng
mực nào đó, tôn giáo đã tham gia vào việc giải phóng con người ra khỏi sự phụ
thuộc vào tự nhiên. Ông cho rằng tôn giáo đã hướng con người vào cai thiên giới,
kêu gọi con người hạn chế đến mức tối đa các nhu cầu của mình, bóp nghẹt phần
cảm tính – điều hoàn toàn trái ngược với bản chat chon người. Phải phụ thuộc
vào tự nhiên là sự nô dịch con người, mà tự nhiên lại là môi trường hiện thực cho
hoạt động của con người. Thể xác con người là cái thuộc về bản chất của nó,
cũng là tự nhiên. Bới vậy, L.Phoiơbắc cho rằng sự tự do của con người không
phải là cái siêu nhiên, mà là con người sống trong lien minh với tự nhiên. Và do
đó, theo ông, sự giải phóng thực sự con người ra khỏi sự thống trị của lực lượng
tự nhiên tự phát sẽ chỉ đạt được nhờ hoạt động của con người – hoạt động cải tạo
một cách có mục đích tự nhiên. Tiếc răng tư tưởng đó không được ống phát triển
một cách có hệ thống. Song với tư tưởng đó, L.Phoiơbắc đã lên tiếng phê phán
chủ nghĩa ngu dân giáo quyền, lên án hành động kết tội hoạt động cải tại tự nhiên
của con người. Ông cho rằng: “ mọi phương tiện văn hóa, mọi phát minh do con
người làm ra để bảo vệ mình khỏi sự thống trị của tự nhiên đều bị niềm tin tôn
giáo triệt để lên án là sự xúc phạm đến quền cai trị của Thượng đế”.
Phoiơbắc phê phán tôn giáo, nhưng thực chất ông chỉ phê phán một thứ
tôn giáo cụ thể là Cơ Đốc Giáo. Còn tôn giáo nói chung, theo ông vần là cái cần
thiết cho cuộc sống của con người, bởi chỉ có tín ngưỡng và niềm tin mới an ủi
được con người trước những bất hạnh mà họ phải hứng chịu trong cuộc sống.
Ông cho răng tôn giáo không chỉ trói buộc con người mà còn đề cao con người,
đem lại cho con người sức mạnh dẫu là thông qua sự tin tưởng, ảo vọng.
Tính nhân bản đó của ý thức tôn giáo theo L.Phoiơbắc là một trong những
đặc trưng quan trọng nhất của tôn giáo. Sông ông lại giải thích theo cách riêng.
Ông cho rằng, việc khắc phục sự tha hóa của tôn giáo có thể được khắc phục
bằng cách tạo ra một “tôn giáo mới” về nguyên tắc, thứ tôn giáo không có “
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
7
Tiểu Luận Triết Học
Thượng đế” tôn giáo thần thánh háo bản thân con người. “ Con người là Thượng
đế với con người”, theo Phoiơbắc đó là nguyên lý của tôn giáo mới – thứ tôn giáo
không phải là thế giới quan tôn giáo nhưng vẫn giữ lại cái nội dung trần tục của
thứ tôn giáo đã bị tha hóa, thần bí hóa và do đó bị biến thành công cụ trấn áp sự
tự hoạt động của con người. Khi chưngs minh rằng chủ nghĩa vô thần là sự bóc
trần bản chất của tôn giáo, L.Phoiơbắc khẳng định : “Nếu tự trước tới nay tôn
giáo chưa hề được nhân thức, bóng tối tôn giáo là nguyên lý tối cao của chính trị
và đạo đức, thì từ nay, hay ít ra tới một lúc nào đó trong tương lai, tôn giáo sẽ
được nhận thức, được mở ra trong mỗi người, xác định rõ số phần của con
người”.
“Tôn giáo mới”- thứ tôn giáo được giải phóng khỏi sự thiên kiến, phi thần
thánh, coi con người là Thượng để đối với con người, theo L.Phoiơbắc sẽ khai
sáng cho con người, cổ vũ con người đấu tranh cho việc thực hiện những lý
tưởng trần tục, hiện thực. Trái với triết lý duy tâm – tư biện, nhất là thư triết lý
duy lý chủ nghĩa – thứ triết lý đã lý giải Thượng đế là lý tính thế giới không có cá
tính, đứng đối lạp với con người với tư cách là sinh vật duy nhất có lý tính.
L.Phoiơbắc cho rằng sinh vật tối cao chính là con người, và vì thế mà “tôn giáo
mới” phải bảo vệ con người cùng khổ, bị áp bức, bị bóc lột.
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
8
Tiểu Luận Triết Học
II. NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA DUY
VẬT PHOIƠBẮC ĐỐI VỚI TRIẾT HỌC MÁC
2.1 Những giá trị và hạn chế của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc
Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời kỳ trước C.Mác.
Công lao vĩ đại của Phoiơbăc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghiã
duy tâm và thần học, ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết học duy vật;
đã giáng một đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy
tâm nói chung.
Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai
sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không phụ thuộc vào bất
cứ thứ triết học nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong giới tự
nhiên. Chống lại hệ thống duy tâm của Hêghen - hệ thống coi giới tự nhiên là sự
tồn tại khác của tinh thần. Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính
chất nhân bản, phải kết hợp với khoa học tự nhiên.
Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc là xoá bỏ sự tách rời giữa tinh
thần và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên tao ra. Mặt tích cực
trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu tranh chống các quan
niệm tôn giáo chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là quan niệm về Thượng
đế. Trái với các quan niệm tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con
người, ông khẳng định chính con người tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói về
sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha hoá của bản chất con
người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng bản chất tự nhiên của con người là muốn
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
9
Tiểu Luận Triết Học
hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình
tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó co người không
đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Thượng đế; từ
đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị Thượng đế siêu nhiên
đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.
Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế.
Khi ông đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì
đồng thời đã đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi
hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người trong quan niệm của
Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội, mang những đặc tính sinh học bẩm
sinh. Triết học nhân bản của ông chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm.
Ông nói răng, bản tính con người là tình yêu, tôn giáo cũng là một tình yêu. Do
vậy, thay thế cho một tôn giáo sùng một vị Thượng đế siêu nhiên cần xây dựng
một tôn giáo mới phù hợp với tình yêu của con người. Ông cho rằng càn phải
biến tình yêu thương của con người thành quan hệ chi phối mọi quan hệ xã hội
khác, thành lý tưởng xã hội. Trong điều kiện của xã hội tư sản Đức thời đó, với
sự phân chia giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo về tình yêu thương con người trở
thành chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng, duy tâm.
Công lao to lớn của Phoiơbắccòn ở chỗ, ông không chỉ đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm mà còn đáu tranh chống lại những người duy vật tầm thường.
Ông đã có quan niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về các
quá trình lý – hoá; công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới.
Ông đã kịch liệt phê phán những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không
thể biết. Trong sự phát triển lý luận nhận thức duy vât, Phoiơbắc đã biết dựa vào
thực tiễn là tổng hợp những yêu cầu về tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận thức
được nội dung cơ bản của thực tiễn là hoạt động vật chất của con người, là lao
động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp và hoạt động thực tiễn của nó là cơ sở
của nhận thức cảm tính và lý tính.
Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh
của chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra
mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu trnah
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
10
Tiểu Luận Triết Học
loại bỏ tôn giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có
công khôi phục và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII, XVIII.
Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của triết học
Hêghen, Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các
nhà triết học giai đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết các
vấn đề xã hội.
Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của
ông chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Vì vậy, triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ
nghĩa Mác.
2.2. Vai trò của chủ nghĩa duy vật nhân bản Phoiơbắc đối với triết học Mác
2.2.1. Luận cương về Phoiơbắc của Mác
1- Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể
cả chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác
được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực
quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là
thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan. Thành thử mặt năng động
đuợc chủ nghĩa duy tâm phát triển, đối lập với chủ nghĩa duy vật, nhưng chỉ
phát triển một cách trừu tượng, vì chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên là không hiểu
hoạt động hiện thực, cảm giác được, đúng như là hoạt động hiện thực, cảm
giác được. Phoi-ơ-bắc muốn xem xét những khách thể cảm giác được, thực
sự khác biệt với những khách thể của tư tưởng, nhưng ông không xem xét
bản thân hoạt động của con người, như là hoạt động khách quan. Bởi thế,
trong "Bản chất đạo Cơ Đốc", ông chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động
đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định
trong hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi. Vì vậy, ông
không hiểu được ý nghĩa của hoạt động "cách mạng", của hoạt động "thực
tiễn - phê phán".
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
11
Tiểu Luận Triết Học
2- Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là
chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình.
Sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách
rời thực tiễn, là một vấn đề kinh viện thuần túy.
3- Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của
những hoàn cảnh và của giáo dục, rằng do đó con người đã biến đổi là sản
phẩm của những hoàn cảnh khác và của một nền giáo dục đã thay đổi, - cái
học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và
bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục. Bởi vậy, học thuyết đó
tất phải đi đến chỗ chia xã hội thành hai bộ phận trong đó có một bộ phận
đứng lên trên xã hội (chẳng hạn như ở Rô-bớc Ô-oen).
Sự phù hợp giữa sự thay đổi của hoàn cảnh với hoạt động của con người,
chỉ có thể được quan niệm và được hiểu một cách hợp lý khi coi đó là thực
tiễn cách mạng.
4- Phoi-ơ-bắc xuất phát từ sự thực là sự tự tha hoá về mặt tôn giáo, từ sự
phân đôi thế giới thành thế giới tôn giáo, thế giới tưởng tượng, và thế giới
hiện thực. Công việc của ông là hoà tan thế giới tôn giáo vào cơ sở trần
tục của nó. Ông không thấy rằng, sau khi làm xong việc ấy rồi thì còn điều
chủ yếu vẫn chưa làm được. Cụ thể là cơ sở trần tục tự tách khỏi bản thân
nó để lên ở trên mây thành một vương quốc độc lập lập, điều đó chỉ có
thể giải thích được bằng sự tự chia cắt và sự tự mâu thuẫn của cơ sở
trần tục ấy. Do đó, trước hết phải hiểu bản thân cơ sở trần tục ấy trong mâu
thuẫn của nó và sau đó cách mạng hoá nó trong thực tiễn bằng cách xoá bỏ
mâu thuẫn đó. Do đó, một khi người ta đã phát hiện ra, chẳng hạn, rằng
gia đình trần tục là cái bí mật của gia đình thần thánh thì chính gia đình
trần tục là cái mà người ta phải phê phán về mặt lý luận và cách mạng
hoá trong thực tiễn.
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
12
Tiểu Luận Triết Học
5- Phoi-ơ-bắc không hài lòng với tư duy trừu tượng, đã nhờ đến trực quan
của cảm giác; nhưng ông không coi tính cảm giác là hoạt động thực tiễn
của cảm giác con người.
6- Phoi-ơ-bắc hòa tan bản chất tôn giáo và bản chất con người. Nhưng bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội.
Không phê phán bản chất hiện thực đó, nên Phoi-ơ-bắc buộc phải:
- Không nói đến quá trình lịch sử và xem xét tình cảm tôn giáo [Gemut]
một cách biệt lập và giả định một cá nhân con người trừu tượng, cô lập.
- Do đó, ở Phoi-ơ-bắc bản chất con người chỉ có thể được hiểu là "loài",
là tính phổ biến nội tại, câm, gắn bó một cách thuần túy tự nhiên đông đảo
cá nhân lại với nhau.
7- Vì thế, ở Phoiơbắc bản chất con người chỉ có được hiểu là loài, là tính phổ
biến nội tại, câm, gắn bó một cách thuần tuý tự nhiên đông đảo cá nhân lại
với nhau.
8- Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự
thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một
cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn
ấy.
9- Điểm cao nhất mà chủ nghĩa duy vật trực quan, tức là chủ nghĩa duy vật
không quan niệm tính cảm giác là hoạt động thực tiễn, vươn tới được là
sự trực quan về những cá nhân riêng biệt trong "xã hội công dân".
10- Quan điểm của chủ nghĩa duy vật cũ là xã hội "công dân"; quan điểm của chủ
nghĩa duy vật mới là xã hội loài người, hay loài người xã hội hoá.
11- Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song
vấn đề là cải tạo thế giới.
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
13
Tiểu Luận Triết Học
2.2.2 Sự ảnh hưởng của triết học Phoiơbắc đối với sự hình thành triết
học Mác
Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen
và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận thấy: Tuy học thuyết
triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng
cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc
tuy còn mang nặng quan niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan
điểm duy vật. Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen
và cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện chứng.
Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình và
những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí luận mới của chủ nghĩa
duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới,
trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
Năm 1845 - 1846, Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư tưởng
Đức". Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước Đức hai
ông đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung của tác
phẩm đã trình bày rõ những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát như:
"Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá
nhân con người sống, đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật chất là
hành vi lịch sử đầu tiên của họ" và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử khi
xem xét lịch sử xã hội phải xuất phát từ con người". Trong tác phẩm này cũng đã
trình bày rõ hệ thống quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người.
Trong thời gian này Các Mác viết tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc"
(8/1845) nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định của thực tiễn đối
với đời sống xã hội. Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về bản chất của con người:
"Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã
hội".
Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư
tưởng Đức” quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý
luận khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
14
Tiểu Luận Triết Học
trong hệ tư tưởng Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày
như là một hệ quả trực tiếp của quan niệm duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa
cộng sản chưa được diễn đạt thành luận điểm cụ thể. Song, một điều quan trọng
là Các Mác và Ăngghen đã xây dựng phương pháp tiếp cận khoa học để nhận
thức chủ nghĩa cộng sản.
III. KẾT LUẬN
Phoiơbắc là nhà triết học duy vật vì ông khẳng định vật chất là tính thứ
nhất; ý thức, tư duy là tính thứ hai. Song là nhà duy vật nhân bản, ông coi con
người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn
tại là vấn đề bản chất của con người, vì thế, đây là đối tượng duy nhất, phổ biến
và cao nhất của triết học. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc là đóng góp
to lớn vào cuộc đấu tranh chống lại việc giải thích duy tâm, nhị nguyên luận,
thậm chí cả chủ nghĩa duy tâm tầm thường về vấn đề con người. Song, nguyên lý
nhân bản học của Phoiơbắc không triệt để, vì ông hiểu con người chỉ là những cá
nhân trừu tượng, là thực thể thuần tuý tự nhiên - sinh vật. Ông không thấy được
mặt xã hội của con người trong hoạt động biến đổi hiện thực.
Triết học của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiến
diện trong lý giải đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con người,
trong việc tìm hiểu thực tiễn và xác định vài trò của nó trong nhận thức và cuộc
sống… Đặc biệt trong việc xác định nguồn gốc, động lực phát triển và phương
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
15
Tiểu Luận Triết Học
tiện cải tạo xã hội. Quan điểm của Phoiơbắc còn đầy tính duy tâm, thái độ đối
với tôn giáo của ông không nhất quán.
Trong quan hệ đối với triết học của Hêghen, ông có thái độ phủ định sạch
trơn, không thấy được thành tựu quý giá của Hêghen là phép biện chứng để kế
thừa và phát triển. Ông hiểu tính quy luật, tính tất yếu, tính nhân quả một cách
siêu hình. Cho nên chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông còn mang nặng tính siêu
hình.
Trong lý luận nhận thức, Phoiơbắc đã tiếp tục truyền thống cảm giác luận
duy vật, chống lại thuyết không thể biết và lối tư biện trừu tượng. Ông không phủ
nhận vai trò của tư duy trong nhận thức, nhưng ông không thấy được vai trò của
thực tiễn trong nhận thức. Vì không thấy thực tiễn trong động lực phát triển xã
hội nên ông cố đi tìm nó trong tình yêu. Do không xuất phát từ quan điểm thực
tiễn mà trong lĩnh vực xã hội Phoiơbắc cũng như mọi nhà tư tưởng trước Mác
đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá đề cao sức mạnh tinh thần, trước hết là giáo
dục, đạo đức, pháp luật… mà không thấy vai trò của nền sản xuất vật chất đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Do đó chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc chưa thoát khỏi tính trực quan của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Những hạn chế của nguyên tắc nhân bản trong thế giới quan của Phoiơbắc
còn thể hiện rõ trong việc nghiên cứu tôn giáo và đạo đức. Ở lĩnh vực này, ông
lại rơi vào lập trường duy tâm thể hiện trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và ý
định đưa ra những nguyên tắc đạo đức chung cho mọi dân tộc, mọi thời đại lịch
sử.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học xã hội, HN, 2002.
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
16
Tiểu Luận Triết Học
2. Triết Học phần 1 : Đại cương về lịch sử triết học – Khoa lý luận chính trị tiểu ban
triết học trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Ts Bùi Văn Mưa ( chủ
biên )
3. Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB
CTQG, H, 1999.
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Bộ Giáo dục và Đào tạo), NXB CTQG, H,
2002.
Nguyễn Thị Xuân Thu – MSSV: 7701221122
17