Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.22 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT VÀ TRIẾT HỌC DUY
TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: CAO ĐỨC TỈNH
STT: 105
NHÓM 5 - LỚP ĐÊM 1 - KHÓA 23
GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH: TS. BÙI VĂN MƯA
TP.HCM, tháng 12 năm 2014
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Phần I: Hoàn cảnh ra đời, sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp
thời cổ đại 2
1. Hoàn cảnh ra đời 2
2. Sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại 3
Phần II: Khái quát chung về triết học duy vật và triết học duy tâm Hy Lạp
thời cổ đại 5
1. Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại 5
1.1 Trường phái Mile 5
1.2 Trường phái Heraclit 5
1.3 Trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago 6
1.4 Trường phái nguyên tử luận Lơxíp- Đêmocrit 6
2. Triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại 7
2.1 Trường phái Pytago 7
2.2 Trường phái Elê 7
2.3 Trường phái ngụy biện 7
2.4 Trường phái duy tâm khách quan Xôcrát-Platông 7
Phần III: Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học duy vật và triết học duy
tâm Hy Lạp cổ đại 9


1. Sự tương đồng giữa triết học duy vật và triết học duy tâm 9
2. Sự khác biệt giữa triết học duy vật và triết học duy tâm 10
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
LỜI NÓI ĐẦU
Triết học Hy lạp cổ đại (ra đời từ thế kỷ VII- Trước công nguyên) gắn liền
với lịch sử ra đời của nền chính trị Hy lạp cổ đại mà đỉnh cao của nó là nền dân chủ
Aten và phản ánh lịch sử nước này. Mà trong đó, cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng
nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm là nổi bật nhất, là biểu hiện của đấu
tranh giai cấp trong xã hội với thế giới quan đối lập nhau, là sự đấu tranh về ý thức
hệ với một bên là ý thức hệ tiến bộ, một bên là ý thức hệ lạc hậu, bảo thủ. Tuy nhiên
qua sự giao lưu giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, kho tàng triết học
nhân loại có cái nhìn mới hơn về những đóng góp chủ nghĩa duy tâm với tư tưởng
biện chứng, giá trị nhân văn về xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người.
Vì vậy em thực hiện đề tài tìm hiểu: “Sự tương đồng và khác biệt giữa triết
học duy vật & triết học duy tâm ở thời Hy Lạp cổ đại”. Đề tài này trình bày những
nét chung nhất về hoàn cảnh ra đời, hình thành và phát triển của nền triết học Hy
Lạp cổ đại, những vấn đề của thời đại này; và chỉ ra những nét cơ bản về các trường
phái triết học duy vật và triết học duy tâm thời Hy Lạp cổ đại. Và tìm hiểu những
điểm giống nhau, khác nhau cơ bản nhất và đóng góp của triết học duy vật và triết
học duy tâm vào nền triết học của nhân loại. Để thực hiện đề tài này, em có tham
khảo một số tài liệu chính như 1) Các giáo trình: Giáo trình triết học của TS Bùi
Văn Mưa, Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh…., Giáo trình lịch sử
triết học của GS.TS Nguyễn Hữu Vui, NXB chính trị quốc gia Hà nội… 2)Các bài
giảng: của giảng viên TS Bùi Văn Mưa, TS Nguyễn Ngọc Thu…
Em xin chân thành cảm ơn và mong nhận được những ý kiến đóng góp chân
thành, sâu sắc của thầy và các bạn để có thể hoàn thiện đề tài này hơn.
TP.HCM, Ngày 03 tháng 12 năm 2012
Người thực hiện

Cao Đức Tỉnh
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 1
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
PHẦN I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời:
 Điều kiện tự nhiên, kinh tế:
Hy lạp cổ đại là quốc gia có khí hậu ôn hòa và rộng lớn bao gồm Nam bán
đảo ban căng, miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở biển Êgiê. Nhờ
điều kiện tự nhiên thuận lợi mà Hy Lạp sớm hình thành quốc gia chế độ chiếm hữu
nô lệ rộng lớn có một nền kinh tế công và thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa
tinh thần phong phú, đa dạng. Sự phát triển của thủ công nghiệp, nông nghiệp và
hàng hải đẫn đến sự ra đời của hàng loạt những trung tâm đô thị và tạo điều kiện cho
sự phát triển của triết học, khoa học, văn hóa, nghệ thuật.
Thế kỷ thứ VII-VI TCN, nhân loại bắt đầu dùng chuyển sang dùng đồ đồng
sang đồ sắt làm cho năng suất lao động năng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở
hữu tư nhân được củng cố.
 Điều kiện chính trị - xã hội:
Trong thời đại này, người Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô cùng
xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở
hình thành nền văn minh phương Tây hiện đại. Chẳng hạn, về văn học người Hy
Lạp đã để lại một kho tàng thần thoại rất phong phú, những tập thơ chứa chan tình
cảm, những vở kịch hấp dẫn… phản ánh cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc
đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên- xã hội của người Hy Lạp
cổ đại…Về nghệ thuật, người Hy Lạp đã để lại các công trình kiến trúc, điêu khắc,
hội họa có giá trị. Về pháp luật, Người Hy lạp đã sớm xây dựng một nền pháp luật
và được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Aten. Về khoa học tự nhiên, các thành
tựu toán học, thiên văn, vật lý… được các nhà khoa học tên tuổi như Talet, Pytago,
Ácximet, Ơclit…sớm phát hiện ra. Đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di
sản triết học đồ sộ và sâu sắc.

HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 2
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Từ điều kiện về kinh tế, xã hội phân hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là
chủ nô và nô lệ. Lao động phân hóa thành lao động chân tay và lao động trí óc; cuộc
đấu tranh giữa giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô rất gay gắt.
Hy Lạp cổ đại lúc này bao gồm nhiều thành bang trong đó Aten và Sparta là
hai thành bang lớn nhất. Aten là trung tâm công nghiệp, thương nghiệp, theo chế độ
dân chủ; Thành bang Sparta đất đai rộng lớn, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
theo chế độ quân chủ. Cuộc chiến tranh Pelepone kéo giữa hai thành bang này kéo
dài hàng chục năm làm cho Hy Lạp suy yếu. Và cuối thế kỷ II TCN, Hy Lạp bị La
Mã chinh phục, nhưng Hy Lạp vẫn giữ vai trò nòng cốt về văn hóa trong đế chế La
Mã.
2. Sự hình thành và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại:
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã để tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao
lao động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng
lớp trí thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học
và khoa học. Triết học và khoa học đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Triết học Hy
Lạp cổ đại rất đa dạng; song nhìn chung, chúng thể hiện rõ khuyng hướng nhất
nguyên (chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm) hay khuynh hướng nhị nguyên một
cách rõ ràng và khá nhất quán. Triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời
của nền chính trị Hy lạp cổ đại mà đỉnh cao của nó là nền dân chủ Aten và phản ánh
lịch sử nước này.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả của việc kế thừa những di sản tinh túy của truyền thống trong sáng tác dân gian,
trong thần thoại, trong các mầm móng của tri thức khoa học.
Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại được chia làm 3 thời kì:
Thời kỳ sơ khai (từ thế kỷ thứ VII- VI TCN). Gồm có:
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 3
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
o Trường phái Mile: Talet (624-547 TCN), Anaximanđơ (610-546 TCN),

Anaximen (585-525 TCN).
o Trường phái Pytago do Pytago sáng lập (580-500TCN).
o Trường phái Ele có Xênôphan (570-478TCN) , Pacmênit (500-449 TCN),
Zênon (490-430 TCN).
Thời kì cực thịnh: (thế kỷ V-VI TCN): Các đại biểu xuất sắc:
o Anaxago (500-428 TCN).
o Empêđôc (490-430 TCN).
o Đêmôcrit (460-370 TCN).
o Xôcrat (469-399 TCN).
o Platông (472-347 TCN).
o Arixtốt (384-322 TCN).
Thời kì Hy Lạp hóa (thế kỷ IV-I TCN): Nổi bật là trường phái Êpiquya do
Êpiquya (341-270) sáng lập.
Trong đó, cuộc đấu tranh giữa 2 khuynh hướng nhất nguyên duy và nhất
nguyên duy tâm của giai đoạn cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử triết
học Hy Lạp cổ đại. Arixtốt đã cố gắng khắc phục sự đối lập giữa hai khuynh hướng
nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm, tiến hành phê phán và tổng kết triết
học và khoa học thời này, do vậy ông đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại lên đỉnh cao
cực thịnh và trở thành “bộ óc bách khoa toàn thư” vĩ đại nhất trong nền triết học và
khoa học Hy Lạp cổ đại. Sau Arixtốt triết học Hy Lạp đi vào giai đoạn suy tàn.
Chiến tranh, bạo lực, khó khăn đã đưa các nhà triết học giai đoạn này rời xa các vấn
đề siêu hình, tổng quát để đi vào các vấn đề thuộc về đời sống tình cảm, nội tâm,
ham muốn, dục vọng; họ chìm đắm trong những suy tư về định mệnh, về sự hòa
đồng huyền dịu giữa con người và thần linh.
PHẦN 2: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRIẾT HỌC DUY VẬT VÀ TRIẾT HỌC
DUY TÂM HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Triết học duy vật thời Hy Lạp cổ đại:
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 4
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Triết học duy vật được hình thành từ Trường phái Mile, Trường phái

Heraclit, trải qua Trường phái Đa nguyên và đạt đỉnh cao trong Trường phái nguyên
tử luận.
1.1 Trường phái Mile: là trường phái duy vật đơn nguyên do ba nhà triết học duy
vật là Talet, Anaximangdro, Anaximen xây dựng, nhằm làm sáng tỏ bản nguyên vật
chất của thế giới.
Theo Talet nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của vạn vật; vạn vật bắt
đầu từ nước và luôn quay trở lại với nước; không có nước thì không có gì cả. nước
tồn tại vĩnh viễn, còn mọi vật do nó tạo ra thì không ngừng sinh ra, biến đổi và mất
đi. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại như một vòng biến đổi tuần hoàn
không ngừng nghỉ mà nước là nền tảng của vòng biến đổi tuần hoàn đó. Theo
Anaximangdro, apeiron là các vô định hình, bởi vì nó chứa trong mình những lực
lượng đối lập nhau; chính sự đấu tranh giữa các mặt đối lập này mà vạn vật có hình
thể, tính chất khác nhau được sinh ra, và sau đó, các vật đối lập nhau sẽ hủy diệt
nhau để về với apeiron…
Còn theo Anaximen do có năng lực tụ và tán mà không khí có thể biến thành
nước, đất đá… hay lửa. lửa do nhẹ mà bay lên tạo thành bầu trời. đất đá do nặng mà
rơi xuống tạo thành tâm vũ trụ. Và từ chúng hình thành nên vạn vật ra đời, tồn tại.
1.2 Trường phái Heraclit: do Heraclit xây dựng thể hiện rõ các tư tưởng biện
chứng chất phác thời cổ Hy Lạp thông qua các phỏng đoán thiên tài về quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Heraclit cho rằng: bản nguyên của thế
giới là lửa; trong thế giới, không có sự vật, hiện tượng nào đứng im tuyệt đối; vạn
vật vừa tồn tại vừa không tồn tại, chúng luôn trôi qua, luôn nằm trong quá trình
không ngừng sinh thành, biến đổi và chuyển hóa, cái này biến thành cái kia và
ngược lại, “không ai tắm hai lần trên một dòng sông… thế giới vật chất vừa đa dạng
vừa thống nhất, mọi sự chuyển hóa các mặt đối lập đều phải thông qua đấu tranh;
đấu tranh là cha đẻ của tất cả…
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 5
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
1.3 Trường phái đa nguyên Empêđốc- Anaxago:
Theo Empêđốc: thừa nhận sự tồn tại của bốn khởi nguyên độc lập, bất biến

là: đất, nước, lửa, chúng chịu tác động của hai lực là tình yêu và hận thù.
Theo Anaxago thì vạn vật được sinh ra bởi những cái tương tự như chúng mà
ông gọi các đó là các hạt giống- cái bảo tồn và phát triển tính chất của sự vật cùng
loại. Hạt giống cực nhỏ và có thể phân chia đến vô tận và bản thân nó không đồng
nhất, nghĩa là nó chứa tất cả hạt giống khác nhau ở liều lượng nhỏ hơn, cho nên: mỗi
cái chứa mọi cái. Đây là một ý tưởng biện chứng khá độc đáo và khoa học hiện đại
đang khai thác.
1.4 Trường phái nguyên tử luận Lơxíp- Đêmocrit:
Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại với Đại biểu
xuất sắc nhất là Đêmocrit. Lơxíp là người đầu tiên đưa ra quân niệm về nguyên tử
(Atomos: không thể phân chia được): cái tồn tại (nguyên tử) tồn tại và cái không tồn
tại (chân không) cũng tồn tại. Nguyên tử và chân không là khởi nguyên của thế giới.
Đêmocrit đã phát triển các quan niệm về nguyên tử của Lơxíp thành một hệ
thống chặt chẽ và có sức thuyết phục. Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực
thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. Nguyên tử là những vật chất cực nhỏ,
không nhìn thấy, không phân chia được, không biến đổi, luôn vật động và tồn tại
vĩnh viễn, giống nhau về chất nhưng khác nhau về hình dáng, kích thước, tư thế.
Chân không không có kích thước và hình dáng, vô tận và duy nhất. Đêmocrit khẳng
định rằng bản chất thế giới là vật chất- nguyên tử luôn vận động trong chân không
theo quy luật nhân quả; vũ trụ vật chất là vô hạn và đa dạng, không được sáng tạo và
không bị hủy diệt… là quan điểm duy vật vô thần dũng cảm đương thời.
2.Triết học duy tâm thời Hy Lạp cổ đại:
Triết học duy tâm được hình thành trong Trường phái Pytago, trải qua
Trường phái duy lý Elê, phát triển qua Trường phái ngụy biện và đạt đỉnh cao trong
Trường phái duy tâm khách quan của Platông.
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 6
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
2.1 Trường phái Pytago: Pytago cho rằng con số là bản nguyên của thế giới,
là bản chất của vạn vật; mỗi sự vật tương ứng một con số nhất định. Pytago cho rằng
linh hồn tồn tại độc lập với thể xác và chịu chi phối bởi lật luân hồi; nhận thức là

chức năng của linh hồn. chân lý có được nhờ sự mách bảo của thần linh, thông qua
hình thức chiêm nghiệm tâm linh, được thực hiện bởi linh hồn bất tử…
2.2 Trường phái Elê: Do Xênôphan thành lập theo tinh thần duy vật nhưng
sau đó được Pácmêníc phát triển theo tinh thần duy lý ngả về khuynh hướng duy
tâm khi dựa trên khái quát nền tảng- tồn tại. Điều này mở ra một giai đoạn mới trong
sự phát triển tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại, coi khởi nguyên của thế giới không
phải là một sự vật cụ thể mà là “tồn tại”: một phạm trù triết học mang tính khái quát
cao, chỉ được nhận thức bởi tư duy-lý tính.
2.3 Trường phái ngụy biện: do Prôtago sáng lập, Giorơgiát phát triển vào
thời kỳ mở rộng của nền dân chủ Aten. Trường phái ngụy biện đề cao việc tranh cãi
trường nên các thầy cãi có giá, môn tu từ phát triển. Prôtago cho rằng “con người là
thước đo của vạn vật”, “chân lý mang tính chủ quan và là cái có lợi”.
2.4 Trường phái duy tâm khách quan của Xôcrát –Platông: trường phái
này do Xôcrát đặt nền móng và Platông, học trò của ông hoàn thiện. Nó thể hiện lập
trường chính trị của tầng lớp chủ nô quý tộc bảo thủ chống lại nền dân chủ Aten và
hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Platông dùng thuyết ý
niệm với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm để giải thích bản chất
thế giới. Platông chia thế giới ra thành thế giới ý niệm (lý tính, tồn tại trên trời,
mang tính phổ biến, chân thực, tuyệt đối, vĩnh hằng,…) và thế giới sự vật (cảm tính,
tồn tại dưới đất, mang tính cá biệt, ảo giả, tương đối, khả biến… Coi ý niệm là cái
sản sinh, có trước, là nguyên nhân, là bản chất, là khuôn mẫu của sự vật; coi sự vật
là cái được sản sinh, có sau, là cái bóng của mô phỏng, sao chép lại từ ý niệm; bất
cứ sự vật nào cũng xuất hiện từ ý niệm và có quan hệ ràng buộc với ý niệm.
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 7
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
PHẦN III: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC
DUY VẬT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM HY LẠP CỔ ĐẠI
Triết học Hy Lạp cổ đại rất đa dạng và phong phú; trong đó cuộc đấu tranh
giữa khuynh hướng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã để lại dấu ấn sâu
đậm trong lịch sử nhân loại mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa: “Trường phái

nguyên tử luận Lơxíp- Đêmocrit” với Đêmocrit là đại biểu xuất sắc nhất của chủ
nghĩa duy vật cổ đại, là thế giới giới quan của gia cấp chủ nô dân chủ tiến bộ và
“Trường phái duy tâm khách quan Xôcrát – Platông” với Platông là đại diện xuất
sắc nhất của chủ nghĩa duy tâm khách quan, là thế giới quan của bộ phận chủ nô quý
tộc phản động.
1. Sự tương đồng giữa triết học duy vật và triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại:
Một là, triết học duy vật và triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới
quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý
luận để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình.
Đêmocrit là đại diện của tầng lớp chủ nô dân chủ, bảo vệ quyền lợi của tầng lớp của
mình và quan niệm duy vật của Đêmocrit nhằm bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Theo
Đêmocrit thì mô hình nhà nước lý tưởng là xã hội được cai trị bởi nhà nước dân chủ
chủ nô. Quan niệm duy tâm của Platông nhằm bảo vệ chế độ cộng hòa quý tộc, cho
rằng mô hình nhà nước lý tưởng nhất là xây dựng nhà nước cộng hòa quý tộc do
một vị vua là triết ba tài ba nhất lãnh đạo, thực hiện công hữu.
Hai là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng
hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới
như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Các
nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực tiếp các hiện
tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học.
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 8
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Ba là, hai trường phái triết họa duy vật và triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại
đều coi trọng vấn đề con người, tìm cách mang lại cho con người cuộc sống hạnh
phúc; các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con
người, cố lý giải vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về đời sống đạo đức -
chính trị - xã hội của họ, đều coi con người là tinh hoa quý nhất của tạo hóa.
2. Sự khác biệt giữa triết học duy vật và triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại:
 Quan niệm về bản nguyên (bản chất) thế giới:
Theo chủ nghĩa duy vật

Các trường phái chủ nghĩa duy vật đều khẳng định bản nguyên thế giới là vật chất:
Trường phái Mile: Talet cho rằng bản nguyên thế giới là “nước”,
Anaximăngđrơ cho là “apeiron”, Anaximen cho là “lửa”.
Trường phái Hêraclit: cho rằng bản nguyên của thế giới là lửa.
Trường phái đa nguyên Empêđốc- Anaxago: theo Empêđốc cho rằng bản
nguyên thế giới đó là “đất, nước, không khí và lửa”; Theo Anaxago đó là các “hạt
giống”.
Trường phái nguyên tử luận Lơxíp- Đêmocrit: Đêmocrit đã giải thích về bản chất
thế giới: cho rằng nguyên tử là cơ sở của vạn vật trong vũ trụ. Nguyên tử là dạng vật
chất nhỏ nhất không thể phân chia, không màu, không mùi, không vị, không âm
thanh. Nguyên tử giống nhau về chất nhưng khác nhau về hình thức, trật tự và tư
thế. Đêmocrit cho rằng vạn vật đều biến đổi, đó là sự thay đổi trình tự sắp xếp của
nguyên tử tạo nên sự vật hiện tượng.
Theo chủ nghĩa duy tâm
Các trường phái triết học duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh thần.
Trường phái Pytago: cho rằng bản nguyên thế giới là “con số”.
Trường phái Êlê: Pácmêníc cho rằng bản nguyên thế giới là “tồn tại”.
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 9
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Trường phái duy tâm khách quan Xôcrát – Platông: Thông qua học thuyết ý
niệm, Platông đã giải thích về bản chất thế giới, cho rằng thế giới gồm có 2 phần:
thế giới ý niệm và thế giới sự vật cảm tính. Platông cho rằng thế giới ý niệm có
trước thế giới sự vật cảm tính, sinh ra thế giới các sự vật cảm tính. Thế giới ý niệm
hay còn gọi là thế giới khái niệm là thế giới chân thật bất biến vĩnh viễn tuyệt đối và
là cơ sở tồn tại các sự vật cảm tính. Thế giới sự vật cảm tính là thế giới không chân
thật, không đúng đắn vì thế giới vận động không ngừng, không ngừng sinh ra và mất
đi. Ví dụ: cái cây, con người hay bất cứ cái gì trong thế giới này là do ý niệm về cái
cây, con người sinh ra… hay nói về cái đẹp thì trong đầu đã có sẵn ý niệm về cái
đẹp rồi.
 Quan niệm về nhận thức:

Chủ nghĩa duy vật:
Trường phái Hêraclit: cho rằng nhận thức thế giới là phát hiện ra cái cái lô gốt
– tức cái quy luật, trật tự của vũ trụ. Ông cho rằng muốn nhận thức thấu suốt tự
nhiên phải sử dụng tư duy, lý tính.
Trường phái nguyên tử luận Lơxíp- Đêmocrit: Đêmocrit cho rằng nhận thức có
2 dạng: nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối là nhận thức cảm
tính do các giác quan đem lại nên chưa nhận thức được bản chất bên trong của đối
tượng. còn nhận thức chân lý là nhận thức thông qua logic nên nhận thức được bản
chất của đối tượng. Đêmocrit cho rằng nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý liên
hệ mật thiết với nhau, đều quan trọng và đều cần thiết cho quá trình nhận thức
nhưng ông cho rằng nhận thức chân lý đáng tin cậy hơn, nên con người không thể
dừng lại ở nhận thức mờ tối mà phải đi tới nhận thức chân lý để nhận thức được bản
chất sự vật.
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 10
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Chủ nghĩa duy tâm:
Trường phái Pytago: Pytago cho rằng nhận thức là chức năng của linh hồn.
Chân lý có được nhờ sự mách bảo của thần linh, thông qua hình thức chiêm nghiệm
tâm linh, được thực hiện bởi linh hồn bất tử.
Trường phái duy tâm khách quan Xoocrat – Platông: Platông dùng học thuyết
về linh hồn để giải thích nhận thức. Nhận thức của con người không phải là sự phản
ánh các sự vật của sự sống khách quan, chỉ là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của
linh hồn, những cái đã lãng quên trong quá khứ. Platông cho rằng ý niệm là đối
tượng của nhận thức chân lý, và nhận thức chân lý bằng sự hồi tưởng của linh hồn
bất tử. Platông chia linh hồn con người làm chín bậc: bậc thứ nhất là nhận thức được
hầu hết chân lý, trú ngụ trong các nhà thông thái, bậc thứ hai trú ngụ trong vua chúa,
tướng lĩnh; bậc thứ ba trú ngụ trong quan chức nhà nước; bậc thứ tư trú ngụ trong
những người thể thao, thầy thuốc; bậc thứ năm trú ngụ trong nhà tiên tri; bậc thứ sáu
trú ngụ trong nghệ sĩ; bậc thứ bảy trú ngụ trong thợ thủ công, nông dân; bậc thứ tám
trú ngụ trong người hùng biện; bậc thứ chín trú ngụ trong bạo chúa.

 Quan niệm về con người, linh hồn
Theo chủ nghĩa duy vật
Trường phái nguyên tử luận Lơxíp- Đêmocrit: Đêmocrit cho rằng sự sống là
kết quả của quá trình biến đổi của giới tự nhiên. Từ đó, ông kết luận rằng nước và
bùn là hai môi trường để nảy sinh sự sống, làm xuất hiện sinh vật và con người. Ông
cho rằng sự xuất hiện con người trên trái đất là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên.
Linh hồn con người được cấu tạo từ nguyên tử hình cầu, nóng rực và linh động.
Ông phủ định quan điểm của tôn giáo cho rằng linh hồn là bất tử, cho rằng khi
thể xác không còn thì linh hồn cũng mất đi.
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 11
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Theo chủ nghĩa duy tâm
Trường phái duy tâm khách quan Xôcrát – Platông: theo Platông, thể xác con
người được cấu tạo từ 04 yếu tố vật chất là: lửa, nước, không khí và đất. Chính vì
vậy mà nó không bất diệt. Trong khi linh hồn bất diệt vì nó là sản phẩm của linh hồn
vũ trụ, được tạo ra từ lâu bởi thượng đế. Mỗi linh hồn trú ngụ trên một vì sao và
nhập vào thể xác con người.
 Quan niệm về đạo đức
Theo chủ nghĩa duy vật:
Trường phái nguyên tử luận Lơxíp- Đêmocrit: Đêmocrit cho rằng đối tượng
của đạo đức học là cuộc sống, là hành vi, là số phận của mỗi con người. Đêmocrit
cho rằng sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức, từ đó ông đề cao trí tuệ trong đời
sống đạo đức; cho rằng con người sống tốt không những không làm mà còn không
muốn làm điều phi nghĩa.
Theo chủ nghĩa duy tâm:
Trường phái duy tâm khách quan Xôcrát – Platông: Dựa vào học thuyết linh hồn,
Platông chia linh hồn thành ba bộ phận: trí tuệ, cảm xúc và cảm tính. Từ đó Platông
cho rằng tương ứng với từng loại người sẽ có ba loại người đời sống khác nhau,
trong đó, những người hoạt động trí tuệ là chủ đạo, luôn hướng đến giá trị đạo đức.
Đó là những nhà thông thái, những triết gia; loại thứ hai tràn đầy cảm xúc, gan dạ,

dũng cảm, trú ngụ trong những binh lính; loại thứ ba là tầng lớp nông dân, thợ thủ
công thì linh hồn của họ chủ yếu là cảm tính, thích nghi với lao động chân tay.
 Quan niệm về chính trị, xã hội:
Theo chủ nghĩa duy vật:
Trường phái nguyên tử luận Lơxíp-Đêmocrit: Đêmocrit cho rằng nền tảng
của chế độ dân chủ chủ nô là hình thức dân chủ của nhà nước chủ nô. Đó là nhà
nước cộng hòa dân chủ và bản thân nhà nước đóng vai trò duy trì trật tự, điều hành
xã hội đồng thời trừng trị nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật và chuẩn mực
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 12
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
đạo đức. Phát triển nền thương mại & sản xuất thủ công, hướng theo tình thân ái,
tính ôn hòa & lợi ích chung của công dân tự do.
Theo chủ nghĩa duy tâm:
Trường phái duy tâm khách quan Xoocrat – Platông: Platông lại đề cao chế
độ quý tộc, chống lại chế độ dân chủ tiến bộ. Theo ông thì chế độ xã hội tốt nhất
phải là chế độ cộng hòa quý tộc, do một vị vua là triết học tài ba nhất lãnh đạo.
Platông cho rằng xã hội có ba loại người làm ba việc là: “triết gia” – những người
mà bộ phận lý trí trong tâm hồn đóng vai trò chủ đạo, có nhận thức sáng suốt và đạo
đức cao cả, sinh ra để lãnh đạo xã hội; “chiến binh” những người mà bộ phận ý chí
trong tâm hồn đóng vai trò chủ đạo, tràn đầy lòng dũng cảm và gan dạ, sinh ra để
chiến đấu bảo vệ xã hội; “thợ thủ công, nông dân, thương gia…”- những người mà
bộ phận cảm xúc đóng vai trò chủ đạo, sinh ra họ để bảo đảm đời sống vật chất cho
xã hội. Platông coi nộ lệ không là con người mà là động vật biết nói, do không có lý
trí nên nô lệ không biết nhận thức, do không nhận thức nên không có đời sống đạo
đức, do không có đời sống đạo đức nên nằm ngoài vòng chính trị.
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 13
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp cổ đại là viên gạch đầu tiên xây dựng nên toàn bộ nền văn
minh của Châu Âu ngày nay. Marx đã nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy

Lạp cổ đại”. Nền triết học Hy Lạp cổ đại như một hồi chuông tỉnh giấc mộng thần
thánh muôn đời của người dân Hy Lạp. Tách vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức
của con người. Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan,
tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.
Triết học Hy Lạp cổ đại là một di sản triết học đồ sộ và sâu sắc: trong đó
cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên duy tâm
là biểu hiện của đấu tranh giai cấp trong xã hội với thế giới quan đối lập nhau, là sự
đấu tranh về ý thức hệ với một bên là ý thức hệ tiến bộ, một bên là ý thức hệ lạc hậu,
bảo thủ. Tuy nhiên qua sự giao lưu giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
kho tàng triết học nhân loại mới có cái nhìn mới hơn về những đóng góp chủ nghĩa
duy tâm với tư tưởng biện chứng, giá trị nhân văn về xây dựng cuộc sống tốt đẹp
hơn cho con người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa (2010), Giáo trình Triết học tập 1,2,3, Trường Đại học kinh tế
TP.HCM.
2. TS. Nguyễn Ngọc Thu (2003), Đại cương lịch sử triết học, NXB tổng hợp
TP.HCM
3. GS.TS Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, NXB chính trị quốc gia Hà nội
4. Triết học II, NXB chính trị quốc gia Hà nội, 1993.
5. Một số bài giảng của thầy TS Bùi Văn Mưa, TS Nguyễn Ngọc Thu.
HỌC VIÊN: CAO ĐỨC TỈNH Trang 14

×