Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Mục lục: trang
1. Sữa mẹ tạo ra như thế nào 2
1.1. Khái niệm 2
1.2. Cấu tạo của sữa mẹ 2
1.3. Phản xạ tạo sữa 3
1.4. Các chất dinh dưỡng từ sữa mẹ 3
1.5. Những điều cấm kỵ khi nuôi con bằng sữa mẹ 4
2. Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ 7
3. Chế độ dinh dưỡng của người mẹ cho con bú 14
3.1. Nhu cầu các chất sinh năng lượng 15
3.1.1. Nhu cầu prôtêin 16
3.1.2. Nhu cầu lipit 17
3.1.3. Nhu cầu gluxit 20
3.2. Nhu cầu chất khoáng 21
3.2.1. Sắt 22
3.2.2. Canxi 24
3.2.3. Iốt 25
3.2.4. Muối ăn 25
3.2.5. Các yếu tố vi lượng cần thiết khác 26
3.3. Nhu cầu vitamin 27
3.3.1. Vitamin A 27
3.3.2. Vitamin D3 28
3.3.3. Vitamin B1 29
3.3.4. Vitamin B2 29
3.3.5. Niasin 30
3.3.6. Vitamin C 30
3.3.7. Axit Folic 30
3.3.8. Vitamin B12 31
3.4. Khẩu phần ăn của bà mẹ cho con bú 31
4. Lưu ý chế độ dinh dưỡng của người mẹ cho con bú 32
KẾT LUẬN 35
Lớp 101160 Trang 1
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
1. Sữa mẹ được tạo ra như thế nào?
1.1. Khái niệm:
Sữa mẹ là sữa được tạo thành từ vú của người phụ nữ sau khi có thai, bắt đầu có nhiều
từ khoảng 24 đến 48 tiếng sau khi sinh. Sữa mẹ được xem như là nguồn dinh dưỡng
quan trọng nhất cho trẻ sơ sinh, trước khi trẻ có thể tiêu hóa các loại thực phẩm khác.
Sữa mẹ là món quà mà thiên nhiên đã ban tặng cho chúng ta. Đó là nguồn dinh dưỡng
lý tưởng giúp trẻ thông minh, khỏe mạnh, giúp mẹ nhanh chóng lấy lại vóc dáng sau
sinh, ngăn ngừa một số nguy cơ bệnh tật, đồng thời thắt chặt mối liên hệ tình cảm mẹ
con và rất kinh tế, tiện lợi. Chỉ có rất ít trường hợp là không được nuôi con bằng sữa
mẹ như: mẹ bị HIV, lao đang tiến triển, ung thư đang dùng thuốc diệt tế bào. Các bà
mẹ Việt Nam vốn có truyền thống nuôi con bằng sữa mẹ. Các bà mẹ ở các nước phát
triển sau một thời gian không nuôi con bằng sữa mẹ cũng đang quay lại với trào lưu
này. Điều này cho thấy, dù công nghệ tiến bộ đến đâu thì không có loại sữa nào có thể
bằng với sữa mẹ. Vì vậy, chúng ta nên cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp
để dành cho con trẻ những gì ưu việt nhất từ nguồn sữa kỳ diệu của mẹ.
1.2. Cấu tạo của sữa mẹ:
Sữa được cấu tạo trong các tuyến hình túi trong vú người mẹ. Các tuyến tạo sữa này
lớn lên và hoạt động từ tháng thứ ba của thai, do ảnh hưởng của các kích thích tố như
oestrogen, progesterone, prolactin (từ tuyến yên trên não người mẹ) và lactogen
(từ nhau của thai).
Vậy sữa được tạo ra bằng cách nào?
Sữa được tạo ra bởi những tế bào đặc biệt trong vú. Từ các tế bào này, sữa di chuyển
theo các ống dẫn sữa và chảy qua núm vú. Để tiếp tục tạo sữa sau khi sinh, có hai việc
quan trọng phải làm:
- Đầu tiên là phải kích thích núm vú để truyền thông tin đến các đường dây thần
kinh là cần tạo thêm sữa.
Lớp 101160 Trang 2
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
- Cách thứ hai để kích thích tạo sữa là: phải bú hết sữa trong mỗi lần bú và bú
nhiều lần trong ngày. Bé bú càng nhiều lần thì càng tạo nhiều sữa.
Những thay đổi của sữa:
Sữa non: Là sữa đầu tiên được tạo ra từ vú. Vú bắt đầu tạo sữa non (đặc, dính, vàng
hay trắng) vào tuần thứ 16 của thời kỳ mang thai. Vì sữa non có rất ít nên một số bạn
lần đầu tiên làm mẹ nghĩ rằng mình “không có sữa”. Sữa non tuy ít nhưng lại rất bổ.
Đó là thức ăn lý tưởng cho bé sơ sinh vì:
- Sữa non có chứa một lượng lớn kháng thể giúp bảo vệ bé chống lại bệnh tật
trong những tháng đầu tiên.Sữa non là nguồn dinh dưỡng rất đậm đặc, chứa nhiều
protein và muối khoáng.
- Chỉ có 1 lượng ít sữa non nên bé sơ sinh thực tập bú mẹ dễ dàng hơn: mút, nuốt
và thở cùng lúc một cách nhịp nhàng. Khi bé quen dần động tác bú, cơ thể bạn sẽ tiết
sữa nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của bé.
Sữa trung gian:Thành phần bắt đầu ổn định, lượng đạm giảm, đường lactose,
chất béo và năng lượng gia tăng.
Sữa trưởng thành:Thành phần ổn định hơn và gia tăng về số lượng. Sữa loãng
hơn, có màu trắng xanh, giàu chất béo và năng lượng hơn.
1.3. Phản xạ tạo sữa:
Vú người mẹ không chứa nhiều sữa sẵn như vú bò cái. Khi cho con bú, sức mút của
con tạo một phản xạ tại não mẹ cho ra hai kích thích tố prolactin và oxytocin. Prolactin
kích thích tuyến tạo sữa tiết thêm sữa trong khi oxytoxin kích thích các tuyến này bóp
sữa và đẩy sữa theo các mạch ra đầu núm vú.
Do đó mà tính chất của sữa khi bắt đầu bú khác với tính chất của sữa sau khi đã bú một
vài phút. Sữa đầu đặc hơn, có màu xanh xanh, nhiều chất đạm và lactose, ít mỡ. Sữa
hậu có nhiều mỡ hơn. Sữa mẹ không hòa tan đồng tính, nên nếu lấy ra để và để lắng, sẽ
phân ra chất đặc mỡ lên trên và chất lỏng như nước ở dưới.
1.4. Các chất dinh dưỡng từ sữa mẹ:
Lớp 101160 Trang 3
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Sữa mẹ có đầy đủ các chất mỡ, tinh bột, đạm, vitamin.
Đặc biệt là:
Casein - là một chất đạm đặc biệt trong sữa mẹ giúp ngăn chặn bịnh tiêu chảy,
nhiễm trùng hô hấp, viêm tai, và dị ứng.
Sắt - sữa mẹ có đủ chất sắt cho em bé. Tuy sữa bò, sữa bột có nhiều lượng sắt
hơn sữa mẹ, chất sắt của sữa mẹ dễ cho em bé thu nhận hơn.
Lactose - sữa mẹ có nhiều chất lactose, giúp em bé thu nhận chất sắt.
Vitamin C - vitamin này cũng góp phần giúp em bé thu nhận chất sắt.
DHA - Docosahexaenoic acid giúp phát triển não và mắt.
Lipase - men này giúp em bé tiêu hóa và thu nhận các chất mỡ.
Lactase - giúp thu nhận đường lactose trong sữa mẹ. Chất lactose giúp phát triển
não bộ và thần kinh và điều hòa sinh khuẩn trong ruột.
Amylase - giúp tiêu hóa các chất tinh bột.
1.5. Những điều cấm kị khi nuôi con bằng sữa mẹ:
Một số bà mẹ thấy màu sắc sữa non có vẻ không…đẹp nên đã bỏ đi không cho bé
bú là một sai lầm lớn:
- Bỏ qua sữa non
Sữa non là loại sữa mẹ tiết ra vào tuần đầu sau khi sinh. Nó có màu vàng sậm, sánh, rất
giàu protein. Sữa non không chỉ chứa dưỡng chất cần thiết cho bé sơ sinh mà còn có
một hàm lượng lớn các chất kháng thể và bạch cầu giúp bé chống lại các loại bệnh tật.
Sữa non cũng chứa nhiều nguyên tố vi lượng không thể thiếu đối với trẻ sơ sinh như:
sắt, đồng, kẽm. Theo các nghiên cứu thì tỉ lệ tử vong ở trẻ giảm một cách đáng kể nếu
sau khi Một số bà mẹ thấy màu sắc sữa non có vẻ không… đẹp nên đã bỏ đi không cho
bé bú là một sai lầm lớn. Dù mẹ bé có ít sữa hay không có ý định nuôi bé bằng sữa mẹ
thì lời khuyên của các chuyên gia vẫn là: nhất định phải cho bé được bú sữa non.
- Cho ăn trước khi cho bú
Lớp 101160 Trang 4
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Không ít bà mẹ lại cho bé bú sữa công thức hoặc uống nước đường trước khi cho bé bú
mẹ. Hệ lụy đầu tiên của việc này là bé sẽ không thích ăn sữa mẹ. Đơn giản là vì sữa bột
thường ngọt hơn so với sữa mẹ và núm vú của bình sữa thường dễ mút hơn so với ti
mẹ. Hệ lụy tiếp theo là người mẹ sẽ bị tổn thương về tinh thần, mang áp lực trong tâm
lý bởi ý nghĩ mình không đủ sữa nên con mới chê không bú. Ngoài ra khi bị “ế”, sữa
mẹ dễ bị chua, mất chất và thậm chí có thể ứ đọng mà gây ra viêm tuyến vú ở mẹ.
Ảnh minh họa.
- Dễ dàng từ bỏ việc cho bé bú
Sữa mẹ vừa có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của bé vừa là sợi dây bền chắc liên
kết tình cảm giữa hai mẹ con, vậy mà nhiều bà mẹ lại dễ dàng từ bỏ việc cho con bú.
Có thể khi mới bắt đầu cho bé bú các mẹ sẽ gặp không ít khó khăn, nhưng điều này
chưa chắc là do mẹ thiếu sữa mà có thể do vài nguyên nhân khách quan gây nên. Các
mẹ đừng dễ dàng từ bỏ công việc thiêng liêng này. Hãy tìm hiểu lý do bé từ chối sữa
mẹ để khắc phục kịp thời.
Lớp 101160 Trang 5
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Bé bị bệnh? Bé sơ sinh có thể mắc một số bệnh như: nôn trớ, đi ngoài, vàng da, co giật
khiến bé không muốn bú mẹ. Mẹ nên mang bé đến viện để bác sĩ theo dõi và chữa trị
kịp thời.
Khoang mũi hoặc khoang miệng có vấn đề? Khi bị cảm, bé sơ sinh có thể ngạt mũi
hoặc bị tưa lưỡi, viêm miệng.Nếu bé ngạt mũi nên nhanh chóng làm thông khoang mũi
cho bé. Bé bị tưa lưỡi, viêm miệng thì có thể dùng thuốc tím bôi vào khoang miệng cho
bé mỗi ngày ba lần.
Khả năng mút sữa kém? Những trẻ sinh ra có thể trọng dưới 1800g có thể gặp khó
khăn trong việc bú mẹ. Khi đó mẹ có thể vắt sữa ra, dùng thìa nhỏ bón sữa cho bé cho
đến khi bé có thể bú mút dễ dàng.
Bé và mẹ đã từng bị xa cách? Sau một thời gian xa cách (do mẹ bị bệnh hoặc phải đi
làm) có thể bé sẽ từ chối không bú mẹ. Mẹ hãy bằng tình yêu vô bờ của mình và tùy
vào tính cách của bé để kiên nhẫn “dụ dỗ”, đánh thức khát vọng bú mẹ của bé.
- Cho bé bú quá lâu
Thời gian bú mỗi bầu vú là khoảng 10 phút. Trong 10 phút đó, hai phút đầu tiên bé có
thể bú được khoảng 50% tổng lượng sữa có trong bầu vú. Hai phút tiếp theo bé có thể
bú được 80-90% tổng lượng sữa, còn sáu phút cuối hầu như bé không bú được bao
nhiêu. Tuy nhiên sáu phút này cũng vô cùng cần thiết bởi việc bú mút sẽ kích thích
tuyến sữa để làm tăng thêm lượng sữa tiết ra cho lần bú sau. Hơn nữa việc này có thể
tăng thêm tình cảm mẹ con.
Những bất lợi khi cho bé bú quá lâu:
+ Trong sữa mẹ khi bé mới bú có hàm lượng protein cao, hàm lượng chất béo thấp. Bé
càng bú lâu thì lượng protein giảm dần trong khi lượng chất béo tăng cao nên dễ gây
đau bụng đi ngoài cho bé.
+ Bú quá lâu, bé sẽ hít vào khá nhiều không khí dễ gây ra đầy bụng, nôn trớ…
+ Bé ngậm ti mẹ quá lâu sẽ khiến phần da ở đầu ti dễ bị viêm nhiễm.
- Cho bé bú khi đang tức giận
Lớp 101160 Trang 6
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Không nên cho bé bú khi mẹ đang tức giận vì việc mẹ cáu có thể ảnh hưởng đến hệ
thầnkinh giao cảm khiến một lượng lớn noradrenalin được phóng thích ra, đồng thời rất
nhiều adrenaline cũng tiết ra. Khi hai loại chất này tiết ra quá nhiều, cơ thể mẹ sẽ xuất
hiện một số hiện tượng như: tim đập nhanh, mạch máu bị thu nhỏ, huyết áp tăng cao
ảnh hưởng đến chất lượng sữa.
Sau khi mẹ tức giận trong cơ thể mẹ có tiết ra một loại độc tố. Nếu bé thường xuyên bú
loại sữa có chất độc hại này các chức năng của một số cơ quan nội tạng quan trọng
như: tim, gan, thận, lá lách có thể bị ảnh hưởng khiến cho khả năng kháng bệnh của bé
không tốt, chức năng tiêu hóa suy giảm, bé sẽ chậm phát triển.
Bởi vậy trong thời gian cho con bú người mẹ nên hạn chế tối đa việc nóng giận. Nếu
mẹ tức giận hoặc vừa nguôi giận tốt nhất không nên cho bé bú ngay. Muốn cho bé bú,
tốt nhất là nên để mẹ nguôi giận sau nửa ngày hoặc một ngày và khi cho bú hãy vắt bớt
một phần sữa đầu tiên đi, sau đó dùng khăn sạch lau khô đầu ti rồi mới cho bé bú.
2. Lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ:
Một trong những công việc quan trọng nhất
của một phụ nữ sau sinh là cho con bú. Sữa là
dinh dưỡng lành mạnh rất quan trọng cho sự
tăng trưởng và phát triển của trẻ sơ sinh. Bằng
cách cho con bú, người mẹ có thể đảm bảo trẻ
đã nhận được dinh dưỡng tốt nhất có thể. Và
để có đủ sữa cho con, người mẹ cần có chế độ
ăn uống hợp lý và khoa học nhất.
Viện Hàn lâm Nhi khoa Mỹ đồng ý rằng bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho
trẻ sơ sinh. Trong một tuyên bố chính của họ, họ nói rằng "con bú sữa mẹ, đảm bảo sức
Lớp 101160 Trang 7
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
khỏe tốt nhất có thể cũng như những kết quả tốt nhất phát triển và tâm lý xã hội cho
trẻ."
Sữa mẹ cung cấp dinh dưỡng thiết yếu cho trẻ, nó cũng cung cấp các miễn dịch, giúp
trẻ phòng ngừa bệnh tật. Sữa non là loại sữa với số lượng ít, đặc, có màu vàng, là một
vật chất lỏng được tiết ra ở vú của người mẹ trong vài ngày đầu tiên sau khi sinh. Sữa
non chứa phong phú các loại kháng thể, giúp các bé chống lại bệnh tật. Em bé bú sữa
mẹ và nhận được các kháng thể này sẽ ít có khả năng mắc các bệnh như bị tiêu chảy,
bệnh về đường hô hấp, nhiễm trùng tai và dị ứng. Nuôi con bằng sữa mẹ cũng có nhiều
lợi ích lâu dài.
1. Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ trong năm đầu tiên
Sữa mẹ là một dạng mô sống ở thể lỏng tương tự như máu, với khoảng 4000 tế bào
sống hoạt động trong 1ml sữa. Sữa mẹ là tập hợp phong phú các yếu tố hoá sinh ở dạng
đang hoạt động với một số lượng lớn các hormon và yếu tố tăng trưởng. Trong sữa mẹ
còn có ít nhất 60 loại enzim, và các chất dinh dưỡng đa lượng và vi lượng mà không có
Lớp 101160 Trang 8
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
bất cứ loại sữa nào có được. So với sữa bò thì sữa mẹ ưu việt hơn rất nhiều về thành
phần dinh dưỡng.
Trong sữa bò hàm lượng protein cao hơn sữa mẹ gấp 3 lần - là hàm lượng không thích
hợp cho trẻ trong quá trình tiêu hoá. Thành phần cơ bản của protein sữa mẹ và sữa bò
là casein và whey - nhưng trong sữa bò tỉ lệ giữa 2 thành phần này là 3:1 còn trong sữa
mẹ là 1:3 - đây là tỷ lệ lí tưởng cho quá trình tiêu hoá của trẻ. Trong sữa mẹ chất alpha-
lactoglobulin chiếm ưu thế- trong khi ở sữa bò chất beta- lactoglobulin lại là chủ yếu.
Beta- lactoglobulin là tác nhân gây dị ứng cho trẻ.
Sữa mẹ cho năng lượng cao hơn sữa bò. Chất đường trong sữa mẹ có nhiều lactose gấp
2 lần sữa bò, rất cần thiết cho sự phát triển thần kinh và giúp các vi khuẩn có ích trong
đường ruột phát triển. Chất béo cao hơn sữa bò trong sữa mẹ có vai trò là chất chuyên
chở những vitamin tan trong chất béo như vitamin A và D cùng với axít linoleic - đóng
vai trò sống còn cho sự phát triển thần kinh và các chức năng mô. Hàm lượng vitamin
A trong sữa mẹ cao gấp 2 lần sữa bò, nên trẻ bú sữa mẹ không bao giờ thiếu vitamin A.
Việc cho con bú sữa mẹ trong năm đầu tiên đang được khuyến khích tại nhiều nước
châu Âu. Tại Thuỵ Điển đã có 98% phụ nữ cho con bú hoàn toàn sau khi sinh.
2. Cho con bú là sự đáp ứng đầy đủ các chất dinh dưỡng theo nhu cầu của trẻ:
Các nghiên cứu khoa học cho thấy, sữa mẹ là thức ăn luôn tự thay đổi các thành phần
dinh dưỡng phù hợp với quá trình phát triển của trẻ trong năm đầu tiên, theo nhu cầu
và khả năng tiêu hoá và trao đổi chất của trẻ. Cơ thể người mẹ như một tổ hợp các nhà
máy sản xuất chất dinh dưỡng - theo nhu cầu từng tháng tuổi và khả năng trao đổi chất
của trẻ- tự động cung cấp chính xác lượng dinh dưỡng và các vitamin, khoáng chất.
Lớp 101160 Trang 9
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
3. Cho con bú là biện pháp phòng ngừa hữu hiệu bệnh dị ứng cho trẻ:
Dị ứng thức ăn là bệnh thường gặp ở trẻ với các triệu chứng: Đi ngoài, táo bón, mẩn
da, sổ mũi, viêm họng Bệnh dị ứng tiến triển lệ thuộc vào hai yếu tố đó là di truyền
và môi trường. Việc cho con bú là loại bỏ được yếu tố môi trường. Trong sữa mẹ có
chứa kháng thể IgA tạo trong đường hô hấp của trẻ lớp bảo vệ ngăn chặn sự thâm nhập
của các yếu tố gây dị ứng. Ngoài ra trong sữa mẹ còn có các enzym tiêu hoá, giúp đẩy
nhanh quá trình tiêu hoá làm giảm nguy cơ dị ứng.
4. Cho con bú sữa mẹ có tác động tích cực tới việc phát triển trí não của trẻ:
Việc hàng ngày bế ẵm và âu yếm khi cho con bú giúp trẻ phát triển trí tuệ cảm xúc và
trí thông minh. Các nhà nghiên cứu tại Thuỵ Điển và Anh cho thấy, nhưng đứa trẻ
được bú sữa mẹ trong năm đầu nhanh biết nói và học sáng dạ hơn, đến khi trưởng
thành là những người có tính tự lập cao, có IQ cao hơn so với những đứa trẻ chỉ được
bú mẹ 1-2 tháng đầu hoặc không được bú mẹ.
Nghiên cứu của Đại học McGill (Canada) cũng cho thấy các cháu bé nuôi bằng sữa mẹ
khi lên 6 tuổi làm các test IQ tốt hơn 25% so với các cháu nuôi bộ. Tất cả những
nghiên cứu của các trường Đại hcọ danh tiếng đều cho thấy việc nuôi con bằng sữa mẹ
nâng cao sự nhận thức ở trẻ nhỏ.
5. Cho con bú làm gia tăng sức đề kháng của trẻ trước các bệnh thông thường và các
bệnh tim mạch:
Sữa mẹ trong những ngày đầu chứa nhiều protein. Trong đó 50% hàm lượng protein là
các globulin miễn dịch (chủ yếu là IgA), có tác dụng chống lại các vi khuẩn, virus gây
bệnh. Các kháng thể này nằm trong đường ruột có tác dụng chống lại các vi khuẩn gây
bệnh, ngăn chặn các loại virus và làm trung hoà các độc tố. Trong khoảng 2 tháng đầu
tiên, sữa mẹ được coi là liều văcxin hiệu nghiệm cho cơ thể non yếu của trẻ.
Lớp 101160 Trang 10
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Các nghiên cứu cho thấy, ngoài sữa mẹ không có bất cứ một loại sữa nào có chứa các
kháng thể này. Sữa non còn giúp trẻ giải phóng cứt su, làm giảm nguy cơ tiến triển
bệnh vàng da sau khi sinh. Các khảo cứu gần đây tại Phần Lan cho thấy, chỉ có khoảng
25% trẻ bú sữa mẹ hay bị đau ốm, trong khi đó có tới 97% trẻ không bú sữa mẹ bị đau
ốm thường xuyên.
Trẻ bú sữa mẹ (ít nhất 6 tháng đầu) có thể tránh được nguy cơ mắc nhiều loại bệnh cấp
và mãn tính như tiêu chảy, nhiễm trùng đường hô hấp Vì trong sữa mẹ có chứa chất
globulin miễn dịch. Trong sữa mẹ có lactoferin- một protein gắn với chất sắt ngăn chặn
sự phát triển của một số vi khuẩn có hại. Sự hiện diện của dưỡng chất tự nhiên
nucleotide trong sữa mẹ với hàm lượng 69-72mg/l giúp tăng cường đề kháng với bệnh
nhiễm khuẩn như bạch hầu, viêm màng não.
Các nghiên cứu tiến hành tại Thuỵ Điển và Anh cho thấy, những trẻ bú sữa mẹ trong
năm đầu ít mắc các bệnh như béo phì, vữa xơ động mạch và huyết áp cao.
6. Cho bú sữa mẹ giúp trẻ phát triển tốt hệ thần kinh.
Trong sữa mẹ tỉ lệ giữa các axit amin, các loại axit béo không no, các vitamin và
khoáng chất rất phù hợp cho sự phát triển của hệ thần kinh trẻ. Trong giai đoạn đầu
mới sinh, trẻ có nhu cầu lớn về số lượng cholesterol cần thiết để tạo lớp vỏ bọc bảo vệ
dây thần kinh. Chỉ có sữa mẹ mới đáp ứng được về tỉ lệ cholesterol cho trẻ. Một trong
số những axit amin cần thiết cho sự phát triển của hệ thần kinh và não bộ của trẻ là
taurine chỉ có trong sữa mẹ. Bản thân cơ thể trẻ không tự tổng hợp được loại axit này
và nó cũng không có trong các loại sữa động vật khác. Do vậy sữa mẹ là nguồn duy
nhất cung cấp cho trẻ taurine để phát triển não bộ và võng mạc mắt.
7. Trẻ bú sữa mẹ ít bị bệnh tiểu đường ở tuổi trung niên.
Lớp 101160 Trang 11
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Các nghiên cứu tại Mỹ và Phần Lan cho thấy, chỉ có sữa mẹ mới bảo đảm hàm lượng
thích hợp đường lactose- vật liệu chính sinh nhiệt lượng, giúp hấp thụ đầy đủ lượng
canxi cần thiết cho cơ thể trẻ. Đường lactose trong sữa mẹ, phân hủy rất chậm và từ từ ,
giải phóng nhiệt lượng thích hợp cho cơ thể trẻ, duy trì hài hoà nồng độ đường trong
máu. Sữa bò hay những sữa nhân tạo có chứa đường lactose và sacharose vào cơ thể trẻ
phân huỷ nhanh, dễ gây đột biến nồng độ đường trong máu - đây là tiền đề gia tăng
nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.
8. Trẻ bú sữa mẹ ít bị nguy cơ mắc loãng xương và thoái hoá cột sống khi về già.
Các nghiên cứu tại Trung tâm Trẻ em Ba Lan cho thấy, tỷ lệ giữa các khoáng chất
canxi phôtpho và magnez có trong sữa mẹ là tốt nhất cho sự phát triển hệ xương của
trẻ. Các hợp chất của protein sữa mẹ hấp thụ hoàn hảo hàm lượng sắt đáp ứng nhu cầu
phát triển cơ thể. Những yếu tố này có tác động rất lớn tới sự phát triển bền vững lâu
dài của hệ xương cho tới khi về già. Các nghiên cứu tại Ba Lan cho thấy, những trẻ
được bú mẹ trong năm đầu tiên ít bị nguy cơ loãng xương gấp 3-5 lần so với những
người khi mới sinh không được bú sữa mẹ.
9. Việc bú mẹ giúp phát triển đồng bộ hệ cơ xương ổ miệng.
Những trẻ được bú mẹ rất ít bị mắc các khuyết tật về phát âm, vì việc bú mẹ giúp bé
phát triển đồng bộ hệ cơ xương ổ miệng và má.
10. Ít quậy phá khi ở tuổi thiếu niên và trưởng thành.
Các nghiên cứu mới đây tại Mỹ cho thấy, những cháu được nuôi bằng sữa mẹ ít quậy
phá và ít gặp những rắc rối trong gia đình. Khảo cứu được tiến hành trên 9 nghìn trẻ
em ở lứa tuổi 13-26 cho thấy, chỉ có 10% các cháu nuôi bằng sữa mẹ gây quậy phá tại
trường hay ngoài phố, trong khi đó 43% các cháu nuôi bộ luôn có vấn đề tại trường và
đường phố.
Lớp 101160 Trang 12
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
11. Cho con bú giúp bảo vệ sức khỏe của người mẹ.
Cho con bú sẽ giúp dạ con của người mẹ sẽ sớm co lại như lúc ban đầu. Như vậy, sẽ
làm giảm băng huyết, tránh thiếu máu và giảm nguy cơ ung thư buồng trứng, ung thư
vú cho người mẹ.
Nghiên cứu tại bệnh viện Brigham and Women tại Boston (Mỹ) cho thấy, những phụ
nữ nuôi con bằng sữa của mình ít có khả năng bị viêm khớp mãn tính hơn những người
không cho con bú. Những người mẹ cho con bú được 24 tháng sẽ giảm 50% nguy cơ
viêm khớp.
Những bà mẹ nuôi con bằng sữa của mình ít bị nguy cơ ung thư và loãng xương. Khi
cho con bú cơ thể gia tăng giải phóng hormon prolactin tác động tích cực tới tâm lý
người mẹ, giảm những mệt mỏi và stress.
Tóm lại, việc nuôi con bằng sữa mẹ có nhiều lợi ích đối với mẹ, bé và cộng đồng.Lợi
ích cho người mẹ:
Nuôi con bằng sữa mẹ là một cách nuôi dưỡng trẻ vô cùng kinh tế và tiện lợi vì sữa mẹ
luôn sẵn có. Cho trẻ bú sữa mẹ không chỉ giúp bạn giảm cân tự nhiên, giúp co hồi tử
cung sau khi sinh, phòng được chảy máu sau đẻ. Làm giảm nguy cơ bị ung thư vú,
buồng trứng hoặc ung thư dạ con, giảm nguy cơ loãng xương và đái tháo đường. Cho
con bú sẽ giúp tăng cường tình cảm gắn bó giữa mẹ và con.
Lợi ích cho cộng đồng và cho môi trường:
Nuôi con bằng sữa mẹ, được xem là biện pháp tốt nhất để giảm nhu cầu tiêu thụ sữa
thay thế không phù hợp và đắt tiền, đạt an toàn thực phẩm. Trẻ bú sữa mẹ có chỉ số IQ
cao hơn, xã hội sẽ được lợi. Các bà mẹ và trẻ nhỏ khỏe mạnh hơn giúp giảm chi phí
chăm sóc sức khỏe trong cộng đồng. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp giảm tỷ lệ trẻ mắc
Lớp 101160 Trang 13
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
bệnh. Kinh phí cho y tế của một đất nước mà trẻ được bú mẹ hoàn toàn thấp hơn những
nước mà trẻ không được bú mẹ hoàn toàn vì phải tốn chi phí cho bệnh tật, thuốc men
và bệnh viện.
Nuôi con bằng sữa mẹ góp phần tăng lực lượng lao động. Những bà mẹ cho con bú làm
việc ít hơn nhưng con của họ thì ít bệnh hơn. Do đó, chi phí cho việc thuê mướn lao
động thấp hơn nhưng năng suất lao động cao hơn.
Bên cạnh đó, việc cho con bú sữa mẹ cũng góp phần bảo vệ môi trường sống; mỗi bà
mẹ cho con bú góp phần làm giảm nạn ô nhiễm và rác thải. Việc nuôi con bằng sữa mẹ
không gây tốn mặt bằng, nước, kim loại, nhựa, nhiên liệu… những thứ gây hao phí và
hủy hoại môi trường.
3. Chế độ dinh dưỡng của người mẹ cho con bú:
Một trong những công việc quan trọng nhất của một phụ nữ sau sinh là cho con bú.
Sữa là dinh dưỡng lành mạnh rất quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của trẻ sơ
sinh. Bằng cách cho con bú, người mẹ có thể đảm bảo trẻ đã nhận được dinh dưỡng tốt
nhất có thể. Và để có đủ sữa cho con, người mẹ cần có chế độ ăn uống hợp lý và khoa
học nhất.
Cho con bú đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng rất cần thiết cho bé và đặc biệt người mẹ hãy
cho con bú ít nhất là trong 6 tháng đầu sau sinh.
Trong thời gian cho con bú, người mẹ cần duy trì một chế độ ăn uống cân bằng, lành
mạnh nhằm đảm bảo cung cấp cho cơ thể đầy đủ các chất dinh dưỡng và năng lượng.
Lớp 101160 Trang 14
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Điều này sẽ không chỉ giúp đảm bảo sức khỏe của mình, mà còn đảm bảo cho sức khỏe
của trẻ.
Ở phụ nữ nuôi con bú, nhu cầu năng lượng vào khoảng 2700-3000 kcal/ngày. Người ta
ước tính rằng để tiết 100 ml sữa người mẹ cần tăng 80-95 kcal/ngày và nhu cầu năng
lượng của mẹ cần thiết để tiết sữa nuôi con 650-750 kcal/ngày
Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo rằng, bà mẹ cho con bú cần được cung cấp
thêm khoảng 500 calo (tương đương với lượng calo trong một cốc sữa, một lòng đỏ
trứng gà và một quả chuối hoặc tương đương ăn thêm 2 bát cơm mỗi ngày).
3.1. Nhu cầu các chất sinh năng lượng:
Bổ sung chất đạm và chất béo giúp xây dựng và phát triển cơ thể.
Ngoài ăn đủ cơm bữa ăn bà mẹ cần bổ sun gthêm chất đạm và chất béo giúp cho việc
xây dựng và phát triển cơ thể trẻ. Trước hết cần chú ý đến các nguồn chất đạm từ các
thức ăn thực phẩm như đậu tương, đậu xanh, các loại đậu khác và vừng, lạc. Đây là
những thức ăn có giá rẻ hơn thịt nhưng có hàm lượng chất béo cao hơn giúp tăng năng
lượng bữa ăn và giúp hấp thu tốt các nguồn thức ăn tan trong dầu. Chất đạm động vật
đáng chú ý là từ các loại thuỷ sản như tôm, cua, cá, ốc và nếu có điều kiện nên cố
gắng ăn thêm thịt, trứng, sữa.
Lớp 101160 Trang 15
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
3.1.1. Nhu cầu Protein:
Trong quá trình sống, thường xuyên diễn ra quá trình phân hủy và sinh tổng hợp các
chất, quá trình thay cũ đổi mới về thành phần tế bào. Ðể đảm bảo quá trình phân hủy
và đổi mới hàng ngày cần bổ xung chất protein vào máu. Chất protein ở cơ thể người ta
chỉ có thể tạo thành từ protein của thực phẩm, chất protein không thể tạo thành từ chất
lipit và gluxit.
Giữa thế kỷ 19 Voi, Rubner và Atwater qua nhiều nghiên cứu phân tích thống kê tình
hình ăn uống của nhiều nước đi đến kết luận là trung bình mỗi người mỗi ngày cần
118g protein.
Bản chất của nhu cầu protein: Nhu cầu protein cho duy trì quá trình thay cũ đổi mới, bù
đắp lượng nitơ mất theo da, phân, và trong chu kì kinh nguyệt. Nhu cầu protein để phát
triển cơ thể đang lớn, phụ nữ có thai cần protein để xây dựng tổ chức mới, người mẹ
cho con bú mỗi ngày tiết 500ml sữa có khoảng 10,5g protein. Nhu cầu protein cho quá
trình hồi phục sau một chấn thương (mổ, bỏng) hay sau khi ốm khỏi, cơ thể cần protein
để hồi phục.
Có nhiều phương pháp xác định nhu cầu protein tuy nhiên chưa có phương pháp nào
thật chính xác. Người ta thường sử dụng hai phương pháp: Bilăng ni tơ xác định lượng
ni tơ ăn vào và ni tơ thải ra theo phân, nước tiểu, người ta tìm được nhu cầu protein
bằng cách điều chỉnh lượng ăn vào cho đến khi Bilăng ni tơ cân bằng. Phương pháp
Lớp 101160 Trang 16
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
thứ hai là phương pháp tính từng phần nhu cầu cho lượng nitơ mất đi không tránh khỏi
để duy trì nhu cầu cho phát triển, để chống đỡ các kích thích.
Người ta đã xác định được những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu protein như: Các yếu
tố công kích, thường phải mất cho các yếu tố này tới 10% nhu cầu đó là các tác động
của các stress, phiền muộn, mất ngủ, nhiễm khuẩn nhẹ Nhiệt độ môi trường cũng có
ảnh hưởng tới nhu cầu protein, khi ở môi trường nóng ni tơ mất theo mồ hôi tăng lên.
Khi bị nhiễm khuẩn cơ thể tăng quá trình giáng hóa protein, tổn thương ở các mô bị
nhiễm khuẩn, sốt đều dẫn tới nhu cầu protein tăng lên. Ở người lao động nhu cầu
protein tăng lên không chỉ do nhu cầu năng lượng tăng mà protein còn cần thiết cho
việc tái tạo các thể liên kết photphat sinh năng lượng đòi hỏi cơ chất là protein.
Năm 1985 nhóm chuyên viên hỗn hợp của tổ chức y tế thế giới (OMS) và tổ chức nông
nghiệp thực phẩm ( FAO) đã xem xét lại các kết quả nghiên cứu về cân bằng ni tơ đã đi
đến kết luận là nhu cầu protein của người trưởng thành được coi là an toàn tính theo
protein của sữa bò trong mỗi ngày đối với 1 kg thể trọng là 0,75g cho cả 2 giới.
Trong thực tế, người ta ăn khẩu phần ăn hỗn hợp nhiều loại thực phẩm và ở các nước
phát triển như nước ta thường ăn nhiều thực phẩm nguồn gốc thực vật, protein có giá
trị sinh học thấp hơn nhiều so với trứng và sữa, hơn nữa cũng để đảm bảo an toàn nên
nhu cầu thực tế của protein nâng lên cao hơn. Người ta thường tính nhu cầu thực tệ từ
nhu cầu an toàn theo công thức sau:
Các nhà dinh dưỡng và sinh lý gần như đã thống nhất là nhu cầu tối thiểu về protein là
1g/kg/ngày, nhiệt lượng protein khẩu phần trung bình là 12%.
Nhu cầu protein cao hơn ở phụ nữ cho con bú. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo
rằng, mỗi ngày trong 6 tháng đầu cho con bú cần thêm 25g protein mỗi ngày (bằng với
các protein trong khoảng 1,2 lạng thịt gà).
3.1.2. Nhu cầu lipit:
Từ lâu, khoa học đã chứng minh rằng lipid là nguồn năng lượng cao nhất (1gam lipid
vào cơ thể cung cấp 9,3Kcal, cao gấp hơn 2 lần so với protein 4,1 Kcal/1gam và glucid
4,1Kcal/1gam). Lipid là nguồn cung cấp các acid béo, đồng thời là chất vận chuyển
(carrier) các vitamin tan trong dầu mỡ (như vitamin A, D, E và K). Giá trị sinh học của
các vi chất dinh dưỡng tan trong dầu mỡ này phụ thuộc vào khả năng hấp thu lipid của
cơ thể.
Lớp 101160 Trang 17
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Khi tiêu thụ quá ít lipid sẽ ảnh hưởng đến chức phận của nhiều cơ quan tổ chức
trong cơ thể, đặc biệtlà não bộ và thần kinh ở trẻ nhỏ và trẻ em. Hậu quả là trẻ sẽ bị
chậm tăng trưởng và suy dinh dưỡng do thiếu protein năng lượng.
Ngược lại, tiêu thụ quá nhiều lipid có thể dẫn đến bệnh thừa cân - béo phì, mà tình
trạng này có mối quan hệ rất khăng khít với các bệnh mạn tính không lây và hội chứng
rối loạn chuyển hoá lipid; xử trí thừa cân - béo phì và các bệnh này là hết sức khó
khăn, vất vả.
Tất cả các thực phẩm nguồn gốc động vật, thực vật và cá đều chứa nhiều loại lipid
khác nhau với chất lượng khác nhau. Do đó, để đảm bảo nhu cầu lipid đối với cơ thể cả
về số lượng và chất lượng, cần thiết phải tiêu thụ một cách đa dạng và cân bằng các
loại thực phẩm.
Trong thập kỷ 90 của thế kỷ 20, do thu nhập kinh tế của nhân dân ta còn thấp, nhu
cầu năng lượng từ lipid khuyến nghị đối với người phụ nữ Việt Nam trưởng thành chỉ
đặt ra ở mức 18-20%, tối thiểu cần 15% tổng số năng lượng của khẩu phần. Nhưng
trong những năm gần đây, do mức kinh tế các hộ gia đình đã và đang từng bước được
cải thiện, tỷ lệ năng lượng lipid trong bữa ăn đang tăng nhanh trong những năm qua.
Các kết quả nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy, mức tiêu thụ lipid
trên thực tế tối đa là 18% và xu hướng tiêu thụ của nhân dân ta đang tiếp tục tăng lên.
Vì vậy, nhu cầu lipid có thể điều chỉnh cao lên nhưng phải chú ý đến chất lượng của
lipid ăn vào, một mặt, để giúp cơ thể tăng cường hấp thu các loại vitamin tan trong dầu
mỡ (vitamin A, D, E, K), mặt khác, để chủ động đề phòng thừa cân - béo phì.
Theo WHO, FAO (1993), trên cơ sở khuyến cáo của FAO/WHO/UNU (1985),
đồng thời căn cứ vào truyền thống và xu hướng tiêu thụ lipid thực tế của người Việt
Nam, nhu cầu lipid của bà mẹ và trẻ em hiện nay có thể điều chỉnh ở mức thích hợp
hơn so với khuyến nghị từ thế kỷ trước.
Trong điều kiện hiện nay, Viện Dinh dưỡng Bộ Y tế, đã khuyến nghị mức tiêu thụ
lipid cho người trưởng thành chung cho cả nữ và nam sao cho trong khẩu phần năng
lượng lipid đạt được từ 18-25%, không nên vượt quá giới hạn 25% năng lượng tổng số.
Lớp 101160 Trang 18
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Nhu cầu về lipit hiện nay vẫn còn đang tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ. Người ta
thấy lượng lipit ăn vào của khẩu phần ăn hàng ngày ở các nước khác nhau trên thế giới
chênh lệch nhau rất nhiều. Ở các nước Châu Âu, Bắc Mỹ trong khẩu phần ăn có tới
150 g lipit một ngày tức là chiếm khoảng 50% tổng số năng lượng của khẩu phần,
trong khi đó nhiều nước ở Châu Á, Châu Phi lượng lipit ăn vào không quá 15 - 20g/1
người/1 ngày. Theo kết quả các công trình nghiên cứu cho thấy ở tất cả mọi nơi nếu
muốn nuôi dưỡng tốt lượng lipit nên có là 20% trong số năng lượng của khẩu phần và
không nên vượt quá 25-30% tổng số năng lượng của khẩu phần. Riêng đối với những
người hoạt động thể lực nặng, nhu cầu năng lượng cao trên 4000 Kcal/ngày lượng lipit
tăng lên nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên nhu cầu chất béo còn phụ thuộc vào tuổi, tính chất lao động, đặc điểm dân
tộc, khí hậu. Người ta thấy nhu cầu lipit có thể tính tương đương với lượng protein ăn
vào.
Ở người còn trẻ và trung niên tỷ lệ đó có thể là 1:1 nghĩa là lượng đạm và lipit ngang
nhau trong khẩu phần. Ở người đã đứng tuổi tỷ lệ lipit nên giảm bớt và tỉ lệ lipit với
protein là 0,7:1. Ở người già lượng lipit chỉ nên bằng 1/2 lượng protein.
Phụ nữ có thai và bà mẹ đang cho con bú cần năng lượng lipid ở mức 20-25%, tối
đa có thể tăng lên tới 30% năng lượng của khẩu phần.
Tổng hợp nhu cầu lipid đã điều chỉnh cho phụ nữ theo nhóm tuổi và tình trạng sinh
lý hiện nay được ghi trong bảng 11.
Lớp 101160 Trang 19
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Bảng 11. Tổng hợp nhu cầu lipid khuyến nghị
theo tuổi và tình trạng sinh lý
Nhóm
tuổi/
Tình
trạng sinh
lý
Nhu cầu năng
lượng do lipid
cung cấp hàng
ngày so với năng
lượng tổng số
(%)
Tỷ lệ lipid
động
vật/lipid
tổng số tối
đa (%)
Mức
dao
động
cho
phép
(%)
Giới hạn
tối
đa (%)
Phụ nữ
trưởng
thành nói
chung
18-25 25 50
Phụ nữ
trong lứa
tuổi sinh
đẻ (15-49)
20-25 30 60
Phụ nữ có
thai và cho
con bú
20-25 30 60
3.1.3. Nhu cầu gluxit:
Lớp 101160 Trang 20
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
Nhu cầu gluxit từ trước chủ yếu xác định phụ thuộc vào tiêu hao năng lượng vì cho
rằng gluxit đơn thuần là nguồn cung cấp năng lượng. Ngày nay người ta thấy gluxit có
một số chức năng mà các chất dinh dưỡng khác không thể thay thế được. Ví dụ hoạt
động của tế bào não, tế bào thần kinh thị giác, mô thần kinh đặc biệt dựa vào glucose là
nguồn năng lượng chính. Gluxit còn đóng vai trò quan trọng khi liên kết với những
chất khác tạo nên cấu trúc của tế bào, mô và các cơ quan. Không những thế, chế độ ăn
đảm bảo gluxit còn cung cấp cho có những chất cần thiết khác.
Một số nghiên cứu về nhân chủng học và dinh dưỡng ở một số bộ lạc người ta chủ yếu
ăn thịt động vật và chất béo, lượng gluxit chỉ dưới 20% (người Eskimos). Còn phần lớn
mọi người đều ăn chế độ hỗn hợp với lượng gluxit có từ 56-70% năng lượng. Cho đến
nay nhu cầu về gluxit luôn dựa vào việc thỏa mãn nhu cầu về năng lượng và liên quan
với các vitamin nhóm B có nhiều trong ngũ cốc.
3.2. Nhu cầu chất khoáng:
Hiện nay người ta tìm thấy trong cơ thể con người có khoảng 60 nguyên tố trong bảng
hệ thống tuần hoàn Menđêlêep trong đó vai trò của nhiều nguyên tố chưa được xác
định. Nhưng mọi người đều thấy rõ vai trò của chất khoáng, nếu trong khẩu phần để
nuôi động vật thí nghiệm không có chất khoáng thì động vật nhanh chóng bị chết.
Chất khoáng là thành phần quan trọng của tổ chức xương có tác dụng duy trì áp lực
thẩm thấu, có nhiều tác dụng trong các chức phận sinh lý và chuyển hóa của cơ thể ăn
thiếu chất khoáng sinh nhiều bệnh. Thiếu iốt gây bướu cổ. Thiếu fluo gây hà răng.
Thiếu canxi sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của cơ tim, tới chức phận tạo huyết và đông
máu, gây bệnh còi xương ở trẻ em và xốp xương ở người lớn và người già.
Tăng cường nhu cầu chất khoáng thông qua việc cải thiện khẩu phần thực tế của phụ
nữ nuôi con bú.
Các chất khoáng và vi khoáng là chất dinh dưỡng tuy chỉ cần một lượng nhỏ nhưng lại
có vai tro quan trọng, đặc biệt là trong giai đoạn cơ thể có nhu cầu cao về chất dinh
dưỡng cho phát triển như thời kỳ nuôi con bú.
Các nguyên tố cần thiết: sắt, calci, kẽm của bà mẹ mang thai và nuôi con bú cũng cần
tăng thêm. Calci chiếm khoảng 1/3 khối lượng chất khoáng trong cơ thể và 98% nằm ở
xương và răng. Chính vì thế calci rất cần thiết cho sự phát triển của trẻ đối với phụ nữ
cho con bú. Ở người lớn nhu cầu calci cần khoảng 400-500 mg mỗi ngày, phụ nữ mang
Lớp 101160 Trang 21
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
thai 3 tháng cuối và cho con bú cần khoảng 1000-1200 mg mỗi ngày. Nhu cầu các
vitamin A, B
1
, B
2
, PP và C, D đều tăng hơn so với bình thường.
Bảng nhu cầu dinh dưỡng cho bà mẹ có thai và nuôi con bú theo khuyến nghị của viện
dinh dưỡng:
Đối tượng Năng
lượng
(kcal)
Protein
(g/ngày)
Ca
(mg/ngày)
Fe
(mg/ngày)
Vitamin A
(mgRE/ngày)
Vitamin C
(mg/ngày)
Phụ nữ
18-30 tuổi
2200 55 500 24 500 70
Phụ nữ mang
thai 6 tháng
cuối
+350 +15 1000 30 600 +10
Bà mẹ nuôi
con 6 tháng
đầu
+550 +28 1000 24 850 +30
3.2.1. Sắt:
Trong số chất khoáng cơ thể cần, người ta chú ý trước hết tới sắt (Fe). Cơ thể người
trưởng thành có từ 3-4 gam sắt, trong đó 2/3 có ở hemoglobin là sắc tố của hồng cầu,
phần còn lại dự trừ trong gan. Một phần nhỏ hơn có ở thận, lách và các cơ quan khác.
Mặc dù số lượng không nhiều nhưng sắt là một trong các thành phần dinh dưỡng quan
trọng nhất, có tầm quan trọng cơ bản đối với sự sống. Sắt là thành phần của huyết sắc
tố, myoglobin, các xitrocrom và nhiều enzim như catalaza và các peroxidaza. Như
thành phần của các phức chất ấy và của các men kim loại - hữu cơ, sắt vận chuyển oxy
và giữ vai trò quan trọng trong hô hấp tế bào.
Ðời sống của hồng cầu khoảng 120 ngày nhưng lượng Fe được giải phóng không bị
đào thải mà phần lớn được dùng lại để tái tạo huyết sắc tố. Nhu cầu sắt thay đổi tuỳ
theo điều kiện sinh lý. Trẻ sơ sinh ra đời với một lượng sắt dự trữ khá lớn ở gan và
lách. Trong những tháng đầu, đứa trẻ sống dựa vào lượng sắt dự trữ đó vì trong sữa của
Lớp 101160 Trang 22
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
người mẹ có rất ít chất sắt. Ðó là lý do ngày nay người ta khuyến khích các bà mẹ cho
con ăn sam sớm hơn từ tháng thứ 5 so với trước đây thường là tháng thứ sáu.
Nhu cầu sắt ở lứa tuổi trưởng thành tăng lên nhiều do cơ thể phát triển nhiều tổ chức
mới - mỗi ngày lượng sắt mất đi ở người trưởng thành vào khoảng 1 mg ở nam và 0,8
mg ở nữ nhưng nữ lại có lượng sắt mất thêm theo kinh nguyệt vào khoảng 2 mg/ngày.
Sắt ở thịt được hấp thu khoảng 30%, đậu tương 20%, cá 15%, các thức ăn thực vật như
ngũ cốc, rau và đậu đỗ (trừ đậu tương) chỉ hấp thu khoảng 10%. Vitamin C hỗ trợ hấp
thu sắt còn các phytat, photphat cản trở sự hấp thu sắt. Nhu cầu phụ của người mẹ khi
tiết sữa xấp xi nhu cầu phụ do kinh nguyệt. Do trong thời kỳ có thai và bắt đầu tiết sữa
không có kinh nguyệt nên nhu cầu đối với người phụ nữ có thai và cho con bú cũng
giống như người phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt.
Sắt trong khẩu phần ăn: Sắt có nhiều trong thịt, cá, trứng, các loại nhuyễn thể, trong
ngũ cốc, đậu đỗ các loại và vừng lạc. Sắt do thức ăn cung cấp thường không đáp ứng
được nhu cầu sắt giai tăng trong thời kỳ nuôi con cần phải bổ sung thêm viên sắt theo
chỉ dẫn của bác sĩ.
Nguồn sắt trong thức ăn: sắt có nhiều trong các thức ăn nguồn gốc động vật, các hạt họ
đậu nhất là đậu tương. Các loại rau quả cũng là nguồn sắt quan trọng trong bữa ăn.
Các chế độ ăn hỗn hợp thường chứa khoảng 12-15 mg sắt trong đó 1mg được hấp thu:
chừng ấy đủ cho người nam giới trưởng thành nhưng thiếu đối với thiếu niên và phụ
nữ. Nhu cầu các đối tượng này theo các chuyên viên của các tổ chức y tế thế giới
(OMS) là 24 - 28 mg. Trong trường hợp này cũng như ở những nơi dùng nhiều thức ăn
tinh chế công nghiệp, người ta khuyên nên tăng cường chất sắt vào khẩu phần.
Bệnh thiếu máu thiếu sắt là một bệnh dinh dưỡng có tầm quan trọng lớn, tuy ít khi gây
tử vong, nhưng nó làm hàng triệu người ở trong tình trạng yếu đuối, sức khỏe kém. Trẻ
em học kém do thiếu máu gây buồn ngủ và kém do thiếu máu gây buồn ngủ và kém tập
trung. Người lớn giảm khả năng lao động vì chóng mệt phải nghỉ luôn và nghỉ kéo dài.
Thiếu sắt là triệu chứng phổ biến ở các bà mẹ trong giai đoạn hậu sản, gây nên tình
trạng mệt mỏi kéo dài. Thủ thuật để bổ sung chất sắt hiệu quả nhất là uống thêm nước
trái cây. Các vitamin trong nước trái cây sẽ thúc đẩy quá trình hấp thụ chất sắt trong cơ
thể diễn ra nhanh và mạnh hơn.
Lớp 101160 Trang 23
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
3.2.2. Canxi:
Trong cơ thể canxi chiếm vị trí đặc biệt. Canxi chiếm 1/3 khối lượng chất khoáng trong
cơ thể và 98% canxi nằm ở xương và răng. Cho nên canxi rất cần thiết đối với trẻ em
có bộ xương đang phát triển và với phụ nữ có thai, cho con bú.
Calci trong khẩu phần: Calci có nhiều trong tôm, cua, cá, trứng và sữa.
Trước đây do nghiên cứu thấy lượng canxi hấp thu thấp khí ăn từ chế độ giàu sữa, giàu
canxi chuyển sang chế độ ăn nhiều thực phẩm nguồn gốc thực vật và nghèo canxi, nên
các nhà dinh dưỡng có khuynh hướng đưa nhu cầu canxi hàng ngày lên cao để đảm bảo
an toàn. Nhưng các công trình nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ khoảng sau vài tuần ăn
khẩu phần nhiều thực phẩm nguồn gốc thực vật và ít canxi thì cơ thể đã thích ứng, tiêu
hóa hấp thu được phytat canxi có nhiều trong thực phẩm nguồn gốc thực vật và do đó
nhu cầu canxi có thể đặt ra ở mức thấp hơn. Ở người lớn, 400-500 mg/ngày, phụ nữ có
thai trong 3 tháng cuối và cho con bú cần 1000-1200mg/ngày.
Điều tra khẩu phần của nhân dân ở cả hai miền Nam, Bắc đều có canxi chỉ đạt khoảng
400 mg. Lý do chính vì trong khẩu phần ăn của ta có ít sữa, các loại thủy sản hoàn toàn
bỏ không ăn xương, một ít canxi có trong nước uống.
Trong 100g sữa bò có 120 mg canxi, trong 100g lương thực ( gạo, ngô, bột mì ) chỉ có
khoảng 30 mg canxi. Trong thịt các loại chỉ có từ 10-20 mg canxi nhưng trong các loại
rau đậu đều có trên 60 mg, đặc biệt đậu tương có 165 mg và vừng 1200 mg. Những
loại rau có trên 100 mg canxi trong 100 g rau gồm rau muống, mùng tơi rau rền, rau
đay, rau ngót. Các loại thủy sản thường có nhiều canxi, xương cá cũng là một canxi tốt
nếu ăn kho nhừ.
Tóm lại, trong cơ cấu bữa ăn nên có thêm đậu các loại nhất là đậu tương, có thêm vừng
lạc, rau quả , cá và thủy sản thì ngoài việt có thêm protein và lipit, chúng ta sẽ không lo
thiếu canxi.
3.2.3. Iốt:
Iốt là thành phấn dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Ðó là thành phần cấu tạo của các nội
tố của tuyến giáp trạng tyroxin, tridotyroxin giữ vai trò chuyển hóa quan trọng. Khẩu
phần đủ iốt là một trong các yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến sự tiết nội tố của
Lớp 101160 Trang 24
Dinh dưỡng của người mẹ cho con bú GVHD: Lương Thị Kim Tuyến
tuyến giáp trạng. Khi thiếu iốt tuyến giáp trạng tăng hoạt động, cố gắng bù trừ lượng
thiếu và tuyến giáp phì đại tạo nên bướu cổ.
Bệnh bướu cổ địa phương có mức độ khác nhau thường gặp ở một số đối tượng nhân
dân có khẩu phần nghèo iốt. Iốt trong thức ăn được hấp thu ở ruột non và đi theo 2
đường chính, khoảng 30% được sử dụng bởi tuyến giáp trạng đế tạo hóc môn, phần
còn lại ra theo nước tiểu. Nhu cầu đề nghị của người trưởng thành là 0,14 mg/ngày, ở
phụ nữ là 0,10 mg/ngày. Nhu cầu ở người mẹ cho con bú cao hơn bình thường 1,5 lần.
Nguồn iốt tốt trong thức ăn là các sản phẩm ở biển và các loại rau trồng trên đất nhiều
iốt. Sữa, các loại thức ăn có sữa và trứng là những nguồn Iốt khi các con vật ăn thức ăn
nhiều iốt. Phần lớn ngũ cốc, các hạt họ đậu và củ có lượng iốt thấp. Ở các vùng có
bệnh bướu cổ, phương pháp chắc chắn và thực tế nhất để có lượng iốt đầy đủ là tăng
cường iốt cho muối ăn.
3.2.4. Muối ăn:
Benedict đã nghiên cứu trên một người nhịn ăn thấy rằng trong 10 ngày đầu, cơ thể
người đó thải ra 13,9 g muối, 10 ngày sau 3,1 g và 10 ngày tiếp theo 2,6 g. Như vậy là
trong 30 ngày, người này thải ra khoảng 20% trong số 100 g muối có trong cơ thể.
Bunge đã làm những thí nghiệm trên bản thân mình và thấy rằng người ta có thể sống
không cần ăn thêm muối nhưng nếu có muối thì người ta có thể ăn nhiều loại thức ăn.
Ta ăn nhiều muối hơn nhu cầu cần thiết của cơ thể. Người ta đã phân tích thấy rằng ,
trong thực phẩm hàng ngày dùng để nấu ăn trong thiên nhiên đã có sẵn từ 3-5 g muối,
trong quá trình nấu nướng món ăn người ta cho thêm 5-10 g và trong bữa ăn người ta
dùng thêm khoảng 3-5 g trong nước chấm và muối chấm.
Cho nên trong 1 ngày trung bình ăn thêm 6-10 g muối là vừa. Nhu cầu muối tăng lên
nếu người ta lao động thể lực nặng, nếu khí hậu thời tiết nóng nực và nếu làm việc ở
chỗ nóng. Trong trường hợp này, mồ hôi sẽ ra nhiều và cùng với mồ hôi, cơ thể thải ra
nhiều muối. Lượng muối này cần được bổ sung. Trước đây có đề nghị bổ sung bằng
nước muối. Nhưng sau người ta nhận thấy là uống nước muối riêng sẽ có cảm giác khó
chịu, buồn nôn, gần như ở trạng thái ngộ độc.
Nếu bổ sung muối vào bữa ăn, thức ăn nấu mặn hơn, thêm muối vào nước rau hoặc ăn
cháo với các muối thì người cảm thấy khỏe và dễ chịu hơn. Có thể giải thích là trong
trường hợp này ion natri ở muối đã được các ion ka li ở rau, ở gạo cân bằng, không còn
gây độc nữa.
Lớp 101160 Trang 25