TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
B À I T H I K Ế T C H Ọ C P H Ầ N
Đề tài: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM
VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY DƯỚI THỜI
VUA GIA LONG VÀ VUA MINH MẠNG
GVHD: TS. TRẦN THỊ THANH THANH
SVTT: NGUYỄN VĂN PHƯỚC
MSSV: K37.602.078
LỚP: 3B
TP.HCM, 1/2014
MỤC LỤC
I. Vấn đề ngoại giao Việt Nam giữa các nước phương Tây thời vua Gia
Long (1802 – 1820) 1
1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và đường lối ngoại giao của Gia Long đối
với các nước phương Tây 1
2. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước phương Tây dưới thời vua Gia
Long (1802 – 1820) 2
3. Vấn đề đạo Thiên Chúa trong quan hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây thời Gia Long (1802 – 1820) 4
II. Quan hệ ngoại giao Việt Nam với các nước phương Tây dưới thời vua
Minh Mạng (1820 – 1840) 4
1. Tình hình quốc tế, khu vực và đường lối ngoại giao của Minh Mạng với các
nước phương Tây 4
2. Về quan hệ nước ta với Pháp 6
3. Trong quan hệ với Hoa Kỳ 9
4. Quan hệ ngoại giao với Trung Quốc 12
5. Vấn đề ngoại giao với các quốc gia khác 12
6. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn dưới thời Minh Mạng (1820 – 1840)
và thái độ của Minh Mạng đối với Thiên Chúa giáo 13
7. Đánh giá đường lối đối ngoại thời vua Minh Mạng 14
III. Tổng kết 15
IV. Tài liệu tham khảo 15
1
Đề tài:
QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM
VỚI CÁC NƯỚC PHƯƠNG TÂY DƯỚI THỜI
VUA GIA LONG VÀ VUA MINH MẠNG
Vấn đề đối ngoại giữa các quốc gia luôn là một điểm nhấn then chốt trong
tiến trình của lịch sử. Bởi đường lối đối ngoại đúng đắn sẽ tạo tiền đề cơ sở để
củng cố, mở rộng quan hệ giữa các quốc gia. Lịch sử Việt Nam đã trải qua
mấy nghìn năm lịch sử với những sự hi sinh, gian khổ trong nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước. Vấn đề đối ngoại luôn được chúng ta chú trọng mà triều
Nguyễn là một điển hình cần được xem xét khi nghiên cứu về lịch sử Việt
Nam.
Trong đề tài này, chúng ta sẽ khảo sát đường lối đối ngoại của Việt Nam với
các nước phương Tây thời vua Gia Long (1802 – 1820), thời vua Minh Mạng
(1820 – 1840).
I. Vấn đề ngoại giao Việt Nam giữa các nước phương Tây thời vua Gia
Long (1802 – 1820)
1. Bối cảnh quốc tế, khu vực và đường lối ngoại giao của Gia Long đối
với các nước phương Tây
Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, làm chủ toàn bộ lãnh thổ Đàng
Trong và Đàng Ngoài cũ, Nguyễn Ánh lên ngôi vua niên hiệu là Gia Long,
lập ra nhà Nguyễn. Vua Gia Long lên ngôi trong bối cảnh mà thế giới và
trong nước có nhiều biến động phải đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách mà
lịch sử đặt ra.
Trong giai đoạn này, trên thế giới, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang ở vào
giai đoạn phát triền cực thịnh làm cho nhu cầu về thuộc địa của các nước lớn
2
tăng cao. Các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa được đẩy mạnh. Vùng
Châu Á rộng lớn là một miếng mồi ngon cho các nước đế quốc.
Trước sự bành trướng của các nước đế quốc, nhiệm vụ của các quốc gia châu
Á lúc này là bảo vệ nền độc lập dân tộc. Có rất nhiều quốc gia châu Á đã
không chống chọi được sức mạnh vũ bão của chủ nghĩa thực dân phương Tây
ngoại trừ Nhật Bản và Thái Lan sớm nhận thức được cục diện chính trị thế
giới và đã có những bước đi phù hợp để bảo vệ chủ quyền.
Bên cạnh đó, lúc bấy giờ, vấn đề tôn giáo cũng là một bài toán cho triều
Nguyễn bởi sự xâm nhập của đạo Thiên Chúa – một công cụ phục vụ đắc lực
cho sự xâm lược thuộc địa của các nước phương Tây. Các giao sĩ đã trở thành
những kẻ tiên phong cho chính quốc trong việc truyền bá, giảng đạo, núp
bóng với danh nghĩa giáo sĩ, thầy tu.
2. Quan hệ của triều Nguyễn với các nước phương Tây dưới thời vua Gia
Long (1802 – 1820)
Trong quan hệ với Pháp, sau khi lên cầm quyền, vua Gia Long đã cho những
người Pháp có công giúp cho ông ta về nhiều mặt trong cuộc chiến chống Tây
Sơn làm quan trong triều. Họ được đối đãi rất hậu, mỗi khi vào chầu vua họ
không cần phải lễ lạy mà chỉ khấu đầu năm cái.
Trong thời kỳ này, nước Pháp đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp,
kinh tế tư bản Pháp lúc bấy giờ đã xếp hàng thứ nhì thế giới sau nước Anh do
đó nhu cầu về nguyên liệu, nhân công, thị trường rất lớn. Ngày 25 tháng 11
năm 1801 Toàn quyền Pondichery là Charpentier de Cossigny đã đề nghị
Chính phủ Pháp cử gấp sứ thần và tàu chiến sang Việt Nam để “ký kết một
Hiệp ước liên minh hữu nghị và thương mại” với chúa Nguyễn. Tuy nhiên,
việc này đã bị gác lại.
Trên thực tế, từ năm 1802 đến 1812, do bận chiến tranh ở châu Âu, nên Pháp
không có hoạt động buôn bán gì đáng kể ở Việt Nam cũng như các nước khác
trong khu vực. Sau khi Đế chế I của Napoleon hoàn toàn sụp đổ vào năm
3
1815, chiến tranh đã chấm dứt ở châu Âu, việc giao thương của người Pháp
lại được mở rộng. Đến năm 1817 những chiếc tàu mang cờ Pháp đã xuất hiện
trên đất nước ta.
Khi tàu Henry và tàu Lapaix khi đến Đà Nẵng và Sài Gòn đã được vua Gia
Long giúp đỡ tận tình, như vua đã cho các quan địa phương giúp thuỷ thủ
đoàn mua bán, miễn thuế… nhờ đó mà hàng Pháp sang Việt Nam bán rất
chạy. Tuy vậy, có một sự kiện đã khiến vua Gia Long đề phòng Pháp khi năm
1817, tàu Pháp La Cybele đến cửa Hàn, viên thuyền trưởng đã đến Huế và
nhắc lại Hiệp ước Veraailles 1787 làm cho vua Gia Long phật ý.
Trước sự
kiện đó, Thủ tướng Pháp là Richelieu đã cố gắng tìm cách để có thể thiết lập
quan hệ buôn bán thường xuyên với Việt Nam. Triều đình Huế đã có phần lo
ngại trước các phái viên, các tàu buôn và các chiến hạm Pháp.
Năm 1819, tàu của Henry của Pháp đến Việt Nam, vua Gia Long cũng cho
phép họ đến Huế, miễn thuế. Liên tiếp các tàu chở hàng từ Pháp đã đến Việt
Nam.
Nhìn chung, dưới triều vua Gia Long, quan hệ thương mại Việt – Pháp còn
chưa bị gây khó khăn. Việc buôn bán giữa hai nước diễn ra khá thuận lợi. Vua
Gia Long tạo điều kiện cho thương nhân, ưu tiên cho họ nhưng không cho họ
đặc quyền nào. Mọi đề nghị ký kết các hiệp ước thương mại từ Pháp đều bị
vua Gia Long từ chối.
Trong quan hệ với nước Anh, quan hệ Việt Anh không phát triển thuận lợi vì
trước khi Gia Long lên ngôi giữa vua Gia Long và người Anh đã có xích mích
khi một chiếc thuyền buôn của chúa Nguyễn do Pháp chỉ huy đã bị người Anh
bắt giữ.
Khi vua Gia Long lên ngôi (1802), người Anh bắt đầu đặt mối quan hệ thông
thương với Việt Nam. Năm 1803, J.W. Roberts đến Việt Nam để đặt quan hệ
thông thương với triều đình Huế nhưng đã bị vua Gia Long từ chối.
Năm 1804, người Anh lại sai sứ đến Việt Nam hiến phẩm vật và đưa thư xin
cho được đi lại buôn bán ở Đà Nẵng. Vua Gia Long lại tiếp tục từ chối nhận
4
quốc thư phẩm vật của người Anh. Tuy nhiên, Gia Long cũng chỉ thị: “từ nay
người Anh muốn đến buôn bán ở Việt Nam thì sẽ được đối xử như với người
của bất cứ nơi nào khác”.
Sau đó, phái bộ Anh tiếp tục 3 lần đưa thư xin được đặt quan hệ thông thương
nhưng đều bị vua Gia Long từ chối. Về sau, do nhu cầu mua vũ khí, người
Anh vẫn đem hàng hoá đến bán nhưng vua Gia Long vẫn giữ thái độ kỳ thị.
Nhìn chung, dưới thời vua Gia Long, nhà vua có thái độ thiện chí với các
thương đoàn người Pháp nhưng lại có thành kiến với người Anh. Nhà vua cho
họ là bọn Man Di, lòng dạ khó lường, phải ngăn ngừa từ xa do vậy việc buôn
bán với người Anh bị hạn chế.
Về phần quan hệ với Hoa Kỳ, năm 1802, một công ty tàu biển lớn của Hoa Kỳ
đã phái một chiếc tàu tên là Fame đến Việt Nam tìm kiếm nguồn hàng mới là
đường và cà phê. Ngày 21/5/1803 tàu cập cảng Đà Nẵng và đã được vua Gia
Long cấp phép buôn bán. Nhờ giấy phép của vua Gia Long, tàu chạy dọc bờ
biển tìm chỗ buông neo, buôn bán nhưng gió thổi mạnh tàu không vào được
bờ. Ngày 10/6/1803, tàu Fame rời Việt Nam đi Phi Luật Tân.
Mười sáu năm sau, cũng có nhiều tàu Mĩ đến Việt Nam và họ nhận được sự
đón tiếp tử tế từ phía quan lại Việt Nam cũng như nhân dân. Nhìn chung, tất
cả các tàu Mĩ đến Việt Nam thời kỳ này đều nhắm vào mục đích tìm kiếm thị
trường và thiết lập quan hệ giao thương với Việt Nam. Có thể nói, thời vua
Gia Long, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ chưa phát triển.
Chúng ta cần nói thêm về hai quốc gia láng giềng là Chân Lạp và Xiêm La,
thời kỳ Gia Long cai trị cũng là thời kỳ Việt Nam khẳng định ảnh hưởng của
mình: năm Đinh Mão (1807), vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân không theo
Xiêm La nữa mà xin về thần phục vua Việt Nam là Nguyễn Ánh, lập lệ cống
tiến mỗi 3 năm 1 lần. Ba người em của Nặc Ông Chân (Ang Chan II) là Nặc
Ông Nguyên (Ang Suguon), Nặc Ông Lem tức Nặc Ông Em (Ang Im), và
Nặc Ông Đôn (Ang Duong) muốn tranh quyền của anh mình nên sang Xiêm
La cầu cứu. Xiêm La đòi Nặc Ông Chân chia quyền nhưng ông từ chối, Xiêm
5
La liền cho quân sang đánh và buộc Nặc Ông Chân bỏ chạy sang cầu cứu Việt
Nam. Vua Gia Long viết thư trách cứ Xiêm La và Xiêm La đáp lại là họ chỉ
giúp anh em Nặc Ông Chân giảng hòa chứ không đối kháng với Việt Nam.
Gia Long liền cho Lê Văn Duyệt kéo 10.000 quân sang buộc Xiêm La cho
Nặc Ông Chân về nước và rút quân hoàn toàn ra khỏi Chân Lạp. Lê Văn
Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnom Penh) và thành La-Lêm. Khi
xây xong Gia Long cho một tướng tên là Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân
sang trấn giữ và xác lập quyền "bảo hộ" của Việt Nam tại Chân Lạp
.
3. Vấn đề đạo Thiên Chúa trong quan hệ của triều Nguyễn với các nước
phương Tây thời Gia Long (1802 – 1820)
Đây là một vấn đề gây ra sự trở ngại trong quan hệ giữa nhà nước phong kiến
Việt Nam với các nước phương Tây, đặc biệt là với nước Pháp. Do mối quan
hệ gần gũi với Bá Đa Lộc và chịu ơn người Pháp trong cuộc chiến với triều
Tây Sơn, Gia Long vẫn cho đạo Thiên Chúa được truyền bá tương đối thuận
lợi. Các giáo sĩ người Pháp đã đẩy mạnh việc phát động trong dân chúng ở
Việt Nam phát triển các cơ sở Đạo Thiên Chúa, thu nạp giáo dân trên cơ sở
khuếch trương thế lực chính trị và tinh thần cho nước Pháp… Vua Gia Long
thực sự lo ngại việc này, nhất là khi các giáo sĩ Pháp ủng hộ việc nhà vua đưa
con trai hoàng tử Cảnh lên làm vua thay vì hoàng tử Đảm. Vua Gia Long đã
khinh bỉ đạo Thiên Chúa từ đó.
Nhìn chung, trong suốt thời kỳ của mình, Gia Long chủ trương ôn hoà. Ông
không thể chống đạo một cách công khai, cũng không thể “cải đạo”. Ông hiểu
rõ hơn ai sự nguy hiểm từ những người đi truyền đạo, ảnh hưởng của Thiên
Chúa giáo với hoàng tử Cảnh và các thần dân của mình. Trong tình thế vừa
cậy nhờ người Pháp xong, Gia Long chưa thể cấm đạo và làm mất lòng người
Pháp ngay lập tức được. Ông từng ra lệnh: “Từ rày về sau, dân các tỉnh, xã
6
nào có nhà thờ Gia Tô đổ nát thì phải đưa trình quan trấn mới được tu bổ lại,
còn việc xây dựng nhà thờ mới đều cấm chỉ”.
Vua Gia Long có thái độ và cách ứng xử mang tính dung hoà trong quan hệ
với Pháp, nhưng cương quyết và cứng rắn từ chối mọi yêu cầu từ phía nhà
nước Pháp. Ông không hề chống lại các giá trị vật chất – tinh thần phương
Tây, ông bảo vệ các truyền thống dân tộc Việt Nam. Vua Gia Long thể hiện
một đối sách ngoại giao nhu hoà, uyển chuyển qua vấn đề tôn giáo. Chính
sách ngoại giao mềm dẻo đã giúp Gia Long rất nhiều trong việc ổn định đất
nước sau một thời gian dài nội chiến.
II. Quan hệ ngoại giao Việt Nam với các nước phương Tây dưới thời vua
Minh Mạng (1820 – 1840)
1. Tình hình quốc tế, khu vực và đường lối ngoại giao của Minh Mạng
với các nước phương Tây
Vua Minh Mạng từ nhỏ vốn là người thông minh, tôn sùng Nho giáo và đặc
biệt không thiện cảm cho lắm với tôn giáo phương Tây, vì vậy Gia Long
quyết định chọn vua Minh Mạng lên nắm quyền với mong muốn làm những
việc mà ông chưa làm được.
Thời bấy giờ, tình hình trong nước và quốc tế tiếp tục có những chuyển biến
phức tạp khiến Minh Mạng có những thay đổi trong chính sách ngoại giao của
mình. Ngoài ra, vấn đề tôn giáo cũng là nhân tố tác động đến chính sách ngoại
giao của vua Minh Mạng. Núp dưới chiêu bài đi truyền giáo, các giáo sĩ
phương Tây và tôn giáo của mình ngày càng xâm nhập mạnh mẽ vào trong
nước, ảnh hưởng đến nền Nho giáo chính thống và ngày càng phục vụ đắc lực
cho chính sách xâm lược thuộc địa của các nước tư bản khiến vua Minh Mạng
lo ngại và tức giận.
Minh Mạng về cơ bản trung thành với đường lối chính trị của cha mình. Ông
tỏ ra dứt khoát trong việc khước từ người phương Tây, kể cả người Pháp.
7
Ta có thể thấy rằng, từ năm 1820 đến năm 1825, thời gian này vua Minh
Mạng mới kế vị ngai vàng, ông cần ổn định quyền lực cá nhân, ổn định triều
chính, nên ông chưa có thể điều chỉnh lớn trong chính sách ngoại giao với các
nước phương Tây. Đường lối ngoại giao của ông thời kỳ này được triển khai
trên cơ sở truyền thống.
Trong khoảng thời gian từ 1825 cho đến 1831, sự hiện diện của các nước tư
bản phương Tây ở châu Á ngày càng gia tăng là một lời cảnh báo cho vua
Minh Mạng về sự an nguy của đất nước. Ông tiếp tục củng cố triều đại và đất
nước trên nền tảng của ý thức hệ Nho giáo để chống đỡ các tư tưởng mới lạ
của phương Tây, chủ yếu là đạo Thiên Chúa.
Việc bang giao với nước ngoài có hạn và truyền giáo bị cấm nhưng Minh
Mạng vẫn cho phép tàu buôn các nước tới buôn bán (nhưng chỉ được phép
thông thương tại cảng Đà Nẵng). Như vậy, vấn đề buôn bán với phương Tây
không bị triều đình Huế ngăn cấm, nhưng vì lí do an ninh và vấn đề truyền
giáo nên triều đình Huế chỉ cho mở cửa biển Đà Nẵng để thuyền buôn
phương Tây đến trao đổi hàng hoá. Do vậy, Minh Mạng với các nước phương
Tây không hoàn toàn bế quan toả cảng mà có mở cửa song rất hạn chế.
Sự kiện Lê Văn Khôi khởi binh dấy loạn đã đặt vấn đề ngoại xâm cho triều
Nguyễn suy gẫm. Lê Văn Khôi cầu cứu Xiêm La và trong cuộc nổi loạn này
có sự tham gia của các giáo sĩ người Pháp. Vua Minh Mạng đã tăng cường
đường lối ngoại giao biệt lập với Pháp vì nên độc lập, an ninh quốc gia có
nguy cơ bị xâm phạm.
Từ năm 1832 đến năm 1837 đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với
Pháp hoàn toàn không mang tính chất ôn hoà nữa khi vua Minh Mạng không
muốn tiếp xúc với các nước phương Tây. Nhưng cuộc chiến tranh thuốc phiện
lần thứ nhất ở Trung Hoa là một hồi chuông cho các quốc gia châu Á còn
đóng kín cửa. Ông cho rằng nếu cứ tiếp tục đường lối ngoại giao như cũ thì
một cuộc xung đột Việt Pháp có thể xảy ra giống như ở Trung Quốc.
8
Trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây, sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, cũng như tình hình các quốc gia phong kiến lần lượt
rơi vào tay giặc, vua Minh Mạng đã có những nhận thức mới như phòng vệ
những nơi hiểm yếu trên bờ biển. Vua Minh Mạng cũng hiểu cần phải có sự
tăng cường thăm dò dự định của các cường quốc ở châu Âu để làm thay đổi
chính sách ngoại giao của mình. Giai đoạn 1838 – 1840 được coi là thời kỳ
định hợp tác quốc tế của vua Minh Mạng.
2. Về quan hệ nước ta với Pháp
Trong những năm đầu lên ngôi, đường lối chính trị của Minh Mạng so với
Gia Long không có thay đổi lớn. Với Pháp, nhà vua vẫn thể hiện thiện chí,
lòng biết ơn, nhưng khi tình hình quan hệ quốc tế ngày một thay đổi, nước
Pháp sau khi ổn định tình hình trong nước tìm cách nối lại những liên hệ với
Việt Nam nhằm đạt được những cam kết với nước ta trên lĩnh vực thương
mại, chính trị. Thời gian này được xem là giai đoạn hòa hoãn (1820 – 1824)
trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước phương Tây dưới thời Minh
Mạng.
Đi theo đường lối đối ngoại của vua Gia Long đã hoạch định, Minh Mạng khi
lên ngôi vẫn đối xử nhã nhặn, hoà hoãn với Pháp. Năm 1821, J.B. Chaigneau
được vua Pháp cử sang Việt Nam dâng thư và phẩm vật của vua Luis XVIII
đồng thời xin lập thương ước. Minh Mạng cho phép người Pháp đến buôn bán
ở Việt Nam nhưng từ chối việc thành lập một thương ước giữa hai nước.
Ngay lần đầu tiên, Minh Mạng đã phủ nhận việc giao hảo với người Pháp.
Chính phủ Pháp hy vọng sẽ đạt được vài kết quả tốt về thông thương nhưng
không ngờ sứ giả của vua Pháp lại nhận được sự bất hợp tác từ triều đình
Huế.
Năm 1822, một chiếc thuyền Pháp là Cleopatre do đại tá Courson de la Ville
Hélio đến Đà Nẵng xin được tiếp kiến vua Việt Nam qua chức vụ đặc sứ của
vua Pháp. Mặc dù Chaigneau tìm mọi cách để vận động nhưng Minh Mạng
vẫn từ chối hội kiến với Courson de la Ville Hélio. Nguyên nhân là vì tàu
9
Cleopatre chở các giáo sĩ ngoại quốc và định lợi dụng không ai theo dõi sẽ thả
các giáo sĩ xuống bờ hoạt động truyền giáo.
Năm 1824, Luis XVIII lại phái hai chiếc thuyền Thétis và Esperauce đến Việt
Nam dâng quốc thư và phẩm vật xin giao hiếu và thông thương nhưng Minh
Mạng cũng từ chối đồng thời không nhận thư và phẩm vật của vua Pháp.
Những hành động cùa người Pháp đều mong muốn xác định đọc quyền của
Pháp đối với Việt Nam, trong phạm vi cạnh tranh với các nước tư bản khác
nhưng đều không thành.
Năm 1825, Pháp lại tiếp tục mọi cố gắng để thiết lập mối quan hệ ngoại giao
với Việt Nam nhưng vẫn vấp phải sự cự tuyệt không muốn kí kết một hiệp
ước chính thức giữa hai nước. Minh Mạng viện lý do là trong triều không ai
biết tiếng Pháp để đón tiếp sứ thần Pháp.
Tình thế đó khiến Minh Mạng sau khoảng 5 năm đi theo đường lối ôn hòa của
vua Gia Long, đã chuyển dần từ chính sách mềm dẻo, hòa hoãn sang chính
thức cứng rắn trong quan hệ với Pháp.
Năm 1825, Chaigneau trở lại Việt Nam với tư cách là đặc sứ của Hoàng đế
Pháp, triều đình Huế đón tiếp vị đặc sứ trên rất chu đáo kèm với thư gởi cho
Minh Mạng, vua Pháp gửi theo nhiều tặng phẩm như: đồng hồ, đèn, các bức
vẽ, gương và nhiều chế phẩm của Pháp. Vua Nguyễn nhận thư và gởi lại tặng
vật cho vua Luis XVIII như da voi, da hổ, the lụa…nhưng trong thư trả lời
Minh Mạng tỏ ý lạnh nhạt, ông viện lí do hai nước quá xa và bất đồng về
ngôn ngữ, thông dịch tiếng Pháp tại Việt Nam hiếm hoi. Về việc kí kết một
thương ước Việt-Pháp, Minh Mạng trả lời dứt khoát: ‘Nước Đại Nam đã có
định lệ rõ ràng, các nước ngoài đã áp dụng xưa nay, nếu muốn khỏi phiền
phức cho cả hai bên, quả nhân tưởng không nên lập thêm, hay là lập riêng một
thương ước khác”. Cũng với lập luận đó, Minh Mạng từ chối sứ giả của tất cả
các nước khác đến Việt Nam thông thương. Thực chất của vấn đề “hạn
thương” là “nhà vua sợ rằng các trao đổi với phương Tây, kẻ đang nắm những
kỹ thuật tiến bộ sễ làm nguy hại nền độc lập và trật tự quốc gia”.
10
Minh Mạng từ chối các thương ước nhưng ông không cấm tàu bè và thương
nhân Pháp và các nước khác đến Việt Nam buôn bán. Tất cả các chuyến đi
của Pháp đến Việt Nam đều không thành công trong việc thương thuyết về
một cam kết với triều Nguyễn. Đối với những cuộc tiếp xúc phi chính trị, vua
Minh Mạng không hề ngăn cản một cách phi lí, trường hợp nhà khoa học trẻ
người Pháp đã chững minh nhận định trên. Diar là một nhà nghiên cứu Pháp,
ông đến Việt Nam và được nhà Nguyễn cho phép tự do đi tham quan các trấn
ở miền Nam để nghiên cứu. Đối với các tàu thuyền ngoại quốc bị thiên tai,
vua có chủ trương giúp đỡ tận tình, tạo điều kiện cho họ sớm hoạt động trở
lại.
Vua Minh Mạng không kí những văn bản trên các lĩnh vực kinh tế, ngoại giao
với Pháp nhưng từ năm 1820 – 1825 việc buôn bán và truyền đạo của người
Pháp tại Việt Nam chưa hề bị ngăn cấm. Dù dè chừng và thận trọng trong
quan hệ với Pháp, nhưng Minh Mạng vẫn định hướng đường lối ngoại giao
mà Gia Long đã đề ra trong năm đầu trị vì của ông.
Từ năm 1825 – 1831, tình hình nước ta có nhiều khó khăn như: thiên tai, dịch
bệnh lan tràn. Tình trạng đói kém xảy ra làm cho xã hội rối loạn. Năm 1825,
có vụ nổi dậy tại trấn Nghệ An, qua năm 1826, người Thổ nổi lên ở Nam
Định…Phong trào nổi dậy ở miền Bắc rất mạnh đến năm 1827 triều đình mới
ổn định được. Trong nước thì khó khăn như vậy, bên ngoài lại nhiều biến cố
xảy đến với các quốc gia lân cận: Anh chiếm một phần Miến Điện…Minh
Mạng không thể không lo ngại đến các thế lực phương Tây, ông dè dặt hơn
đối với người Pháp. Ngay cả với hai người Pháp còn lại ở triều đình là
Vannier và Chagneau cũng bị một số quan lại xa lánh.
Trong năm 1825, có một chiếc tàu Pháp là Thetis tới cập bến cửa Hàn, mang
theo quốc thư và tặng phẩm của hoàng đế Pháp, nhưng vua Minh Mạng từ
chối không nhận thư và tặng phẩm. Sau đó, năm 1829, Eugene Chaigneau
được cử sang Việt Nam làm đại sứ nhưng Minh Mạng không chấp nhận.
Trong thời gian này, tòa lãnh sự Pháp tại Huế bị vô hiệu và đến năm 1830 bị
11
đóng cửa vĩnh viễn.
Năm 1830 là năm ghi nhận sự cố gắng cuối cùng của
Pháp với sự kiện đại tá Laplace được cử đến Việt Nam xin thông thương.
Viên đại tá này đã có những hành động sai trái, sử triều Nguyễn ghi lại hành
động của ông ta là: “Người Pháp lại hiện tiện lên núi Tam Thai đứng trông;
nhơn nói muốn có một người hướng đạo dẫn qua các hạt Bắc thành vẽ đồ; rồi
chạy tàu đi”. Đến tháng 1-1831, triều đình Nguyễn hạ lệnh trục xuất chiếc tàu
của Laplace. Việc bất thành, Eugene Chaigneau cho người lên núi Non Nước
xem xét địa thế dinh Quảng Nam, triều đình Huế biết được đã yệu cầu
Chaigneau và tàu Favorite do Laplace chỉ huy phải rời khỏi Việt Nam”. Ngày
24-1-1831, tàu Favorite cùng Chaigneau rời khỏi Việt Nam.
Năm 1831 có thể coi là năm chấm dứt những cố gắng ngoại giao của Pháp
hòng kí kết hòa ước kể cả ngoại giao lẫn thương mại với triều Nguyễn. Mặc
dù sau năm 1831 vẫn có các tàu Pháp cập bến Đã Nẵng, nhưng họ không
mang tính chất ngoại giao nữa.
Như vậy, trong khoảng thời gian từ 1825 – 1831, tất cả các nhân viên mà
Pháp cử sang làm công tác ngoại giao với triều Minh Mạng đều không thể
thuyết phục được triều Nguyễn kí kết những hiệp ước mà họ mong muốn.
Nguyên nhân của sự thất bại này không chỉ thuộc về sự bảo thủ hay cứng rắn
trong đường lối chính sách đối ngoại của triều Nguyễn, mà còn do những âm
mưu chính trị của thực dân Pháp. Những sứ giả người Pháp sang Việt Nam
thường với ý đồ phô trương thanh thế, lực lượng và có những yêu cầu vô lý
khó chấp nhận, thậm chí có những sứ đoàn đi mang theo những giáo sĩ thâm
nhập trái phép lãnh thổ Việt Nam. Đến năm 1832 thì Pháp hoàn toàn không
tìm cơ hội giao thương và tiếp xúc chính trị với Việt Nam nữa.
Từ năm 1832 trở đi lịch sử biến chuyển nhanh chóng, tại nước Pháp dưới sự
thống trị của nền quân chủ tư sản do vua Luis Philippe đứng đầu, cuộc cách
mạng công nghiệp đã được tiến hành, nền kinh tế Pháp trải qua giai đoạn phát
triển quan trọng và đòi thêm thị trường. Trong nước, triều đình tăng cường và
củng cố chuyên chính trung ương.
12
Sau khi chiến tranh thuốc phiện kết thúc với phần thắng thuộc về Anh quốc,
đã gây nên sự phấn khích cho các nươc Âu - Mĩ giấc mộng bành trướng tại
châu lục rộng lớn này trở thành hiện thực gần gũi hơn với các nước phương
Tây. Triều đình Huế nhận thức nhanh chóng vấn đề trên, tiếp theo đó là sự bất
thành của việc “cấm đạo”, “bài đạo” ở trong nước, có thể nhận thấy, dù có
ngăn cản, hạn chế, việc truyền đạo vẫn cứ được tiến hành. Càng ngăn cản thì
lòng tin của giáo dân càng tăng lên, có nhiều trường hợp “tử vì đạo” xảy ra.
Vua Minh Mạng nhận thức rõ đường lối ngoại giao của mình sẽ không có
hiệu quả thực tế trong hoàn cảnh này. Tình hình mới đã đặt triều đình Huế
trước sự lựa chọn: tiếp tục đi theo con đường ngoại giao kểu phương Đông,
hoặc mở cửa tiếp xúc với phương Tây. Minh Mạng đã chọn con đường thăm
dò để “mở cửa”. Cuối năm 1839, để đối phó với tình hình biến động đang xảy
ra dồn dập xung quanh, Minh Mạng cho tăng cường phòng bị những nơi quan
yếu, hải cảng, xây nhiều đồn lũy kiên cố phòng bị các cửa biển, tăng số lượng
thuyền chiến… Điều này cho thấy Minh Mạng khi bắt đầu thăm dò để đổi
mới đường lối đối ngoại, ông vẫn có ý thức tăng cường sức mạnh phòng bị
đất nước, đề cao cảnh giác với bên ngoài. Sau đó, ông bắt đầu tiến hành các
bước thăm dò để đi đến một chính sách hợp tác với phương Tây.
Đặc biệt, Minh Mạng đã cử một sứ đoàn sang Pháp và Anh nhằm mục đích
thương thuyết và thiết lập quan hệ chính thức với hai nước này. Sứ đoàn có
nhiệm vụ làm việc để đi tới kí kết một hiệp ước liên minh chính trị - kinh tế
với Anh và Pháp mua hàng hóa. Sứ đoàn sang Pháp do quan Tư vụ Trần Viết
Xương đẫn đầu.
Tháng 11-1840, sứ đoàn Việt Nam đến Pháp, Trần Viết Xương vận động xin
gặp hoàng đế Pháp, nhưng Luis Philippe từ chối. Pháp bắt bẻ sứ thần ta không
mang quốc thư và thành phần sứ không thuộc phẩm hàm đúng hàng sứ giả.
Phía Pháp cho rằng chính sứ của ta không thể đại diện cho vua Nguyễn. Cũng
vào lúc này tại Paris đã có những ảnh hưởng không có lợi cho phái bộ. Với
những bản tường trình của các vị thừa sai đang hoạt động ở Việt Nam gửi về
13
cho Hội ngoại quốc truyền giáo ở Paris. Vài tháng trước khi phái đoàn Việt
Nam sang Paris, giáo hoàng Gregoire XVI đã viết một là thư cho giáo sĩ ở
Việt Nam nói về cảnh khổ cực của giáo sĩ Pháp tại Việt Nam. Bức thư đã gây
nên sự căm hờn trong giới Thiên Chúa giáo tại Pháp.
Có thể nói đây là cơ hội sau cùng cho mối quan hệ Việt – Pháp nhưng đã bị
bỏ lỡ. Sau thất bại ngoại giao tại Pháp, sứ đoàn của Việt Nam lên đường sang
nước Anh, nhưng tại đây, sứ mệnh cũng bất thành, đoàn Việt Nam lên đường
trở về Pháp. Khi đoàn về tới Huế, vua Minh Mạng đã băng hà vào ngày
21/1/1841.
3. Trong quan hệ với Hoa Kỳ
Năm 1826, Tổng lãnh sự Hoa Kỳ ở Batavia (Đông Ấn thuộc Hà Lan, tức
Indonesia) là John Shillaber tiếp tục thúc giục chính phủ Hoa Kỳ cố gắng thiết
lập các quan hệ thương mại với các quốc gia Viễn Đông, trong đó có Việt
Nam. Năm 1831, Hoa Kỳ cũng đã nghĩ đến việc thiết lập một cơ quan đại
diện ở Việt Nam như người Pháp. Shillaber được cử sang để thương lượng
với Minh Mạng nhưng không thành công.
Năm 1831, Edmund Roberts, đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Andrew
Jackson đến Việt Nam, nhen lên một cơ hội mới trong quan hệ giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ. Nhiệm vụ của Edmund trong chuyến đi này là kí kết một Hiệp
ước thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
Vào cuối năm 1832, phái đoàn Hoa Kỳ đầu tiên đã đến Việt Nam xin đặt quan
hệ thông thương. Vua Minh Mạng từ chối nhưng vẫn cho phép phái đoàn Mĩ
được buôn bán ở đây nhưng phải tuân theo luật pháp của quốc gia áp dụng
cho người nước ngoài; ngoài ra Minh Mạng còn chỉ định nếu người Mĩ tới lần
nữa thì cho tàu đậu tại Sơn Trà, họ được phép thông thương ở đây nhưng
không được phép xây nhà ở hay mở phố mua bán.
Tuy kết quả không như ý muốn của phái đoàn Mĩ nhưng họ đã chiếm được
nhiều cảm tình của triều đình Huế. Đây là lần thứ hai người Mĩ sang giao
14
thiệp với nước ta nhưng tiếc là họ không biết luật pháp của Việt Nam. Dù
vậy, vẫn có thể coi phái đoàn E.Roberts đến Việt Nam năm 1832 là phái đoàn
ngoại giao chính thức đầu tiên của Hoa Kỳ được cử tới Việt Nam Nhằm thiết
lập quan hệ giao thương chính thức giữa hai nước.
Bốn năm sau, năm 1836, chính phủ Hoa Kỳ một lần nữa lại cử Edmund
Roberts tới Việt Nam. Việc này chứng tỏ chính phủ Mĩ rất chú ý tới việc
thông thương với các nước ở khu vực châu Á. Lần này tàu theo đúng quy định
của triều đình Huế đến đậu tại bán đảo Sơn Trà. Tại đây, phái đoàn tiếp xúc
với các giới chức địa phương và nhân viên của Ty thương bạc (cơ quan phụ
trách về ngoại giao). Họ cho biết phái đoàn Mĩ tỏ ra lễ phép cung kính nhưng
do bất đồng ngôn ngữ nên không hiểu ý của phái đoàn Mĩ. Các giới chức của
triều đình lúc này lại có hai khuynh hướng khác biệt, đối lập nhau, tập trung
theo hai khuynh hướng rõ rệt. Một phái gồm những quan lại thủ cựu, không
muốn quan hệ với người nước ngoài. Đại diện cho khuynh hướng này là Thị
lang nội các Hoàng Quýnh vì ông cho rằng người Hoa Kỳ vốn xảo quyệt khó
lường. Phái còn lại gồm những người từng ra nước ngoài thấy được cái lợi
của việc thông thương và nền văn minh phương Tây khuyên triều đình nên
mở rộng ngoại giao cho người Mĩ. Đại diện cho phái thứ hai là quan Thị lang
bộ Hộ Đào Tri Phú, một nhân vật từng xuất ngoại, ông có đường lối ngoại
giao mềm dẻo sáng suốt. Vua Minh Mạng có thái độ rộng rãi, hòa dịu thuận
lời yêu cầu của Đào Tri Phú, nhưng khi sứ Quảng Nam ra tới Đà Nẵng thì
Ed.Roberts bị bệnh nặng phải rời cảng.
Có thể nói sứ bộ của triều đình Huế lúc đó gồm những vị quan có tầm nhìn xa
trông rộng, có tinh thần phóng khoáng, biết nhận thức việc lợi hại trong chính
sách ngoại giao. Rất tiếc số này trong triều lại quá ít vì thế chính sách đối
ngoại dưới thời Minh Mạng gặp nhiều thiếu sót.
Về phía Mĩ, tuy hai lần sang Việt Nam không đạt kết quả gì đáng kể nhưng
phái đoàn của Ed.Roberts đã mang lại cảm tình đầu tiên, sâu đậm tại triều
15
đình Huế. Có lẽ nếu Ed.Roberts không lâm bệnh, cuộc thương thuyết có lễ sễ
tốt đẹp và nước ta giao thiệp với Mĩ sớm hơn lịch sử sau đó. Nhìn chung,
chúng ta có thể thấy, những ý định và mong muốn của phía Hoa Kỳ thiết lập
quan hệ giao thương với Việt Nam đã diễn ra trong khuôn khổ các quan hệ
bình thường giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền.
Với nước Anh, ngay khi vua Minh Mạng vừa lên ngôi, tổng đốc Anh Warren
đã gửi một phái đoàn tới Việt Nam do bác sĩ John Crawfurd đứng đầu với ý
định đặt quan hệ thông thương. Phái đoàn rời cảng Ford William (Ấn Độ) vào
ngày 21 tháng 11 năm 1821 lên đường đến Việt Nam. Ngày 22/8/1822, phái
bộ Anh tới Phú Quốc và hai ngày sau tới Vũng Tàu.
Ngày 2/9/1822, Crawfurd hội kiến Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Hai người trao
đổi với nhau những vấn đề cần thiết để lập quan hệ thông thương giữa hai
nước. Ngày 15/9/1822, phái bộ Anh tới cửa Hàn, được đón tiếp nồng hậu.
Bản thân John Crawfurd cũng gây được cảm tình với cư dân địa phương.
Ngày 23/9/1822, triều đình chấp nhận cho sứ bộ Anh tới Huế để gặp vua
Minh Mạng. Hai ngày sau, sứ bộ Anh tới Huế. Sứ bộ Anh bày tỏ sự mong
muốn được kết mối giao hảo với Việt Nam nhưng vì John Crawfurd không
phải là sứ giả chính thức của Anh nên vua Minh Mạng không đồng ý tiếp sứ
bộ Anh. Tất cả những phẩm vật do sứ bộ Anh tặng vua Minh Mạng đều bị gửi
trả lại với việc không nhận uỷ nhiệm thư.
Đối với người Anh, vua Minh Mạng thể hiện đường lối ngoại giao hoàn toàn
bị động trước tình thế và tránh xa người Anh giống như người Pháp. Chuyến
đi của John Crawfurd đã không thành công khi không ký được một hiệp ước
ngoại giao giữa hai nước. Theo chỉ thị của vua Minh Mạng, tàu Anh có quyền
đến buôn bán tại các hải cảng như hải cảng Sài Gòn, cửa Hàn (Đà Nẵng),
Thuận An (Huế).
Đầu năm 1837, một tàu buôn người Anh qua bãi Hoàng Sa bị cạn, hơn 90
người phải ghé vào trú ở bãi biển Bình Định. Khi biết tin, vua Minh Mạng
cho bố trí chỗ ở và cung cấp tiền gạo cho họ. Chủ tàu và những quan chức
16
người Anh trên tàu rất cảm động. Minh Mạng còn cho Nguyễn Tri Phương và
một số người tuỳ tùng đem tàu đưa những người Anh này sang Hạ Châu
(Singapore) để từ đấy họ về nước.
Về cuối đời, trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản phương Tây
vua Minh Mạng phần nào đã có những nhận thức mới. Cuối năm 1839 đầu
năm 1840, Minh Mạng đã cho người đi các nơi để tận mắt quan sát kỹ thuật
phương Tây. Đặc biệt, ông còn cử một phái đoàn sang châu Âu để xem xét
tình hình tại các nước này, dò la thái độ của các nước, trong đó cố gắng điều
đình với chính phủ Pháp nhằm đặt quan hệ hữu nghị. Tất cả những việc làm
đó chứng tỏ thái độ mềm dẻo của Minh Mạng với người phương Tây trước
tác động của tình hình thế giới và khu vực.
Vua Minh Mạng cũng đã tổ chức một phái bộ sang Anh với mong muốn thiết
lập mối quan hệ ngoại giao với nước Anh. Ngày đầu tiên đến London, sứ bộ
xin yết kiến với Thủ tướng Anh Melbourn và Bộ trưởng Palmerston. Trong
buổi tiếp xúc, Palmerson đã từ chối đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
4. Quan hệ ngoại giao với Trung Quốc
Giống như vua cha, Minh Mạng chủ trương tiếp tục triều cồng và giữ quan hệ
ngoại giao hữu hảo với nhà Thanh. Khi lên ngôi, ông đã nhận sự phong vương
của vua nhà Thanh. Tuy nhiên, các vua Việt Nam thời nhà Nguyễn duy trì
đường lối đối nội tự chủ. Theo nhận xét của giáo sư Yu Insun, các vua nhà
Nguyễn chỉ xưng thần với nhà Thanh một cách hình thức, còn thực chất họ
cho rằng họ bình đẳng với nhà Thanh. Các phái đoàn đi cống của Việt Nam
ngoài việc đưa đồ tiến cống còn thực hiện việc trao đổi mua bán sản phẩm
không có trong nước, vì Trung Quốc không cho phép thương nhân Việt Nam
sang Trung Quốc, còn Việt Nam duy trì lệnh cấm dân chúng xuất cảnh để
ngăn chặn việc xuất lậu vật phẩm sang Trung Quốc như gạo, muối, vàng bạc,
đồng, sừng trâu, ngà voi, v.v
17
Việc duy trì quan hệ triều cống chỉ có ý nghĩa tượng trưng, vì đến cuối đời
Minh Mạng, cứ bốn năm một lần nhà Nguyễn mới phải cử sứ sang cống, đồng
thời nhà Thanh cắt giảm yêu cầu vật phẩm triều cống cho triều Tây Sơn và
nhà Nguyễn chỉ còn phân nửa so với nhà Lê, nên giá trị vật chất không đáng
kể. Tuy nhiên các đoàn đi sứ đều được lệnh ghi chép cẩn thận tình hình bên
Trung Quốc để báo cáo lại cho nhà vua. Các sứ thần không hoàn thành nhiệm
vụ này đều bị trách phạt. Đây có lẽ là một phần lý do khiến vua Minh Mạng
có thể nhận định đúng việc nhà Thanh ngày càng suy yếu, và dự đoán chính
xác nhà Thanh sẽ thất bại trong cuộc xung đột với nước Anh một khi cuộc
chiến tranh Nha phiến nổ ra.
5. Vấn đề ngoại giao với các quốc gia khác
Trong quan hệ với Xiêm La, vào thời Minh Mạng, giữa Xiêm La (Thái Lan,
do nhà Chakri trị vì) với Đại Nam thường xảy ra chiến tranh. Năm 1827, quân
Xiêm xâm lược Vạn Tượng (Vientiane), vua xứ này là A Nộ (Anouvong)
chống không nổi, phải cầu cứu triều đình Đại Nam. Minh Mạng sai thống chế
Phan Văn Thúy mang viện quân sang giúp nhưng bị quân Xiêm đánh bại.
Năm 1828, Phan Văn Thúy và Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Khoa Hào tiếp tục
đem 3.000 quân và 24 voi chiến đưa A Nộ về Trấn Ninh, rồi tiến vào Vạn
Tượng) nhưng đạo quân Nhà Nguyễn – A Nộ lại bị quân Xiêm đập tan. Chán
nản, vua Minh Mạng hạ lệnh bãi bỏ và chỉ phòng vệ ở vùng biên giới. A Nộ
sau đó chạy về Trấn Ninh và bị bắt nộp cho quân Xiêm.
Quân Xiêm được đà đánh dấn vào các miền phụ cận Quảng Trị. Thống chế
Phạm Văn Điển cùng Tham tán Quân vụ Lê Đăng Doanh cùng với các đạo
quân Nguyễn ở Lào phải đi ngăn quân Xiêm, đằng khác gửi thư trách cứ họ.
Xiêm La trả lời khiêm nhượng rồi rút quân. Tuy vậy, họ vẫn ngấm ngầm giúp
Chân Lạp nổi lên chống triều đình Nguyễn hoặc lấn lướt Vạn Tượng và các
xứ quy phục triều đình.
18
Năm 1833, theo lời kêu gọi của Lê Văn Khôi, Xiêm La mang quân vào nội
địa Nam Hà và Chân Lạp, nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh bại năm 1834.
Với Ai Lao, thời Minh Mạng, lãnh thổ Đại Nam rộng lớn hơn cả. hiều vùng ở
Ai Lao đã xin thuộc quyền bảo hộ của Đại Nam. Các vùng nay là Sầm Nứa,
Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An,
Quảng Trị đều được sáp nhập và trở thành các châu, phủ của Đại Nam.
Với Chân Lạp, sau khi phá được quân Xiêm, Trương Minh Giảng cùng Tham
tán Lê Đại Cương lập đồn Đại Nam gần Nam Vang (tức Phnôm Pênh) để bảo
hộ Chân Lạp (Cambodia).
Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua Nặc Ông Chân của Chân Lạp qua đời mà
không có con trai nối dõi, nên quyền bính chuyển sang cho Trà Long và Lê
Kiên - hai người Chân Lạp làm quan cho Việt Nam. Đến năm Ất Mùi (1835),
Trương Minh Giảng lập con gái Nặc Ông Chân là công chúa Angmey tức
Ngọc Vân công chúa lên làm quận chúa. Trương Minh Giảng đổi Chân Lạp
thành Trấn Tây thành, rồi chia làm 32 phủ và 2 huyện, và đặt các chức quan
cai quản mọi việc quân sự và dân sự.
Do quan lại người Việt ở Chân Lạp làm nhiều điều ức hiếp, nhũng nhiễu dân
Chân Lạp; do nhà Nguyễn bắt Ngọc Vân công chúa đem về Gia Định, đày
Trà Long và Lê Kiên ra miền Bắc Đại Nam, dân Chân Lạp oán hận và nổi dậy
chống quân Đại Nam ở khắp nơi. Em trai của Nặc Ông Chân là Nặc Ông Độn
đã làm loạn với sự giúp đỡ của Xiêm La. Quan quân nhà Nguyễn đánh dẹp
không nổi, nên sau khi vua Minh Mạng qua đời, quan quân Đại Nam phải bỏ
Trấn Tây thành mà rút về An Giang.
6. Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn dưới thời Minh Mạng (1820 –
1840) và thái độ của Minh Mạng đối với Thiên Chúa giáo
Chính sách “bài đạo” dưới triều vua Minh Mạng là một nhân tố tạo nên sự
cản trở và khó khăn lớn trong quan hệ Việt Nam với các nước phương Tây,
chủ yếu là Pháp trong thời kỳ này. Thực chất, chính sách này bắt nguồn từ
19
nhu cầu tự vệ và ý thức của giai cấp phong kiến cầm quyền trong vấn đề bảo
vệ độc lập dân tộc và thống nhất văn hoá truyền thống, Việc truyền đạo vào
thời điểm này không đơn thuần là truyền bá tôn giáo mà ẩn theo nó là một âm
mưu xâm lược.
Vào lúc bấy giờ, các giáo sĩ đã lợi dụng danh nghĩa truyền giáo để đi sâu vào
địa phương của Việt Nam, tiến hành điều tra, dò xét tình hình các mặt rồi báo
cáo về nước. Họ còn mua chuộc, dụ dỗ lôi kéo dân chúng chống lại triều đình,
báo cáo các tin quan trọng cho Chính phủ Pháp.
Để đối phó lại, triều đình Huế đã có những biện pháp cứng rắn như bắt bớ,
giam cầm, thậm chí là xử tử các giáo sĩ. Vua Minh Mạng đã cho thấy một
cách ứng xử lúng túng, vụng về đối với nước Pháp. Ông đã cho ban hành 5
chỉ dụ liên quan đến vấn đề “cấm đạo”, nhưng biện pháp mà ông đưa ra chưa
có hiệu quả. Triều đình nhà Nguyễn bấy giờ thiếu sáng suốt khi chưa phân
biệt lòng yêu nước và đức tin của tôn giáo để có những chủ trương, đường lối
phù hợp. Đáng lí ra, triều đình Huế phải chủ động mở cửa đón các giáo sĩ vào,
đồng thời biết tích cực sớm duy tân đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh thì
sẽ nâng cao lòng yêu nước của giáo dân để họ gắn bó với triều đình và chính
nhân dân sẽ giúp cho chính quyền địa phương phát hiện ra những âm mưu
xâm lược từ nước ngoài tới.
Chắc hẳn Minh Mạng không thể quên người giúp đỡ, đồng thời là cố vấn thân
cận của cha ông cũng chính là một giáo sĩ truyền đạo. Và chính vị giáo sĩ này
đã mang tới bản hiệp ước giữa Nguyễn Ánh với triều đình Pháp mà nếu nhìn
lại nội dung của bản hiệp ước này, người ta sẽ không thể vô tư khi xem hoạt
động giáo sĩ chỉ là sự truyền đạo thông thường. Từ Bá-đa-lộc, Nguyễn Ánh đã
hi vọng nhận được sự viện trợ về mặt vật chất, nhân lực, và những viện trợ
quân sự từ chính phủ Pháp để đánh lại nghĩa quân Tây Sơn mà trong con mắt
của người Pháp đó là những kẻ tiếm quyền. Trong khi đó, Pigneau lại hi vọng
20
sẽ nhận được sự bảo trợ của hoàng đế cho những hoạt động truyền giáo của
ông. Chắc hẳn điều này sớm được đặt ra trong những bàn luận của quan lại
triều đình Huế và nó cũng tác động tới nhận thức của Minh Mạng khi ông
bước vào tuổi trưởng thành đưa tới sự ác cảm của ông với Kitô giáo. Ngay cả
trước khi Minh Mạng lên ngôi hoàng đế thì lối ứng xử của ông với các tín đồ
Kitô giáo đã dẫn tới sự lo lắng của cộng đồng giáo dân khi ông lên nắm
quyền. Đầu năm 1820, người ta đã quan sát thấy: với các tín đồ Kitô giáo và
người ngoại quốc, người ta lo ngại rằng chính sách trục xuất khỏi vương quốc
hoặc tiêu diệt họ sẽ được ban hành vì ông ta (Minh Mạng) là kẻ thù không đội
trời chung của cả hai loại người kể trên
.
Tuy nhiên, trong quá khứ không phải ông là người đầu tiên thi hành biện pháp
cứng rắn với tôn giáo này và cũng không phải ngay khi cầm quyền, ông đã thi
hành ngay biện pháp đuổi giáo sĩ và giết hại giáo dân. Sự hà khắc trong chính
sách của triều đình Huế đối với Kitô giáo và giáo sĩ chỉ thực sự bắt đầu từ
năm 1833. Cũng nên nhìn nhận rằng chính sách cấm đạo của vua Minh Mạng
hoàn toàn nhắm vào mục đích duy trì trật tự xã hội mà nhà vua tin rằng là bị
đe bởi những du hặc của đạo Gia tô. Nhất là khi những cuộc khởi nghĩa hay
âm mưu lật đổ ông bị phát hiện đều có sự tham gia của lực lượng giáo dân và
sự ủng hộ của giáo sĩ nước ngoài như cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi, hay
hành động lôi kéo giáo dân và giáo sĩ trong âm mưu lật đổ ngai vàng của
người cháu gọi ông bằng chú ruột. Vì vậy không nên nhìn nhận chính sách
tôn giáo của triều Nguyễn như một biểu hiện của “bế quan toả cảng”. Sự ác
cảm của Minh Mạng đối với Kitô giáo còn là do những thông tin sai lệch từ
những cận thần mang tới cho ông: Tả phó đô ngự sử viện Đô sát Phan Bá Đạt
tâu rằng: “…Mã Song khai rằng thầy thuốc nước hắn, nhân người sắp chết,
khoét lấy con mắt, phơi khô, hợp với hai vị a nguỵ và nhữ hương, tán nhỏ chế
thuốc, trị bệnh ho đờm. Lại tục truyền rằng tà giáo Tây dương thường khoét
mắt người, và cho một trai, một gái, ở chung nhà có tường ngăn cách, lâu
21
ngày động dục tình, nhân đấy đập cho chết bẹp, lấy nước (xác chết đó) hoà
làm bánh thánh, mỗi khi giảng đạo cho mọi người ăn, khiến cho mê đạo
không bỏ được. Cả đến người theo đạo, khi trai, gái, lấy vợ chồng, thì đạo
trưởng đem người con gái vào nhà kín, với danh nghĩa là giảng đạo, thực là để
dâm ô”. Điều này mang tới mối lo ngại thực sự cho nhà vua bởi theo nhãn
quan Nho giáo của ông thì đó đều là những điều cấm kỵ, phạm vào thuần
phong mỹ tục – nền tảng đạo đức cơ bản mà ông muốn dựa vào để giáo hoá
dân chúng.
7. Đánh giá đường lối đối ngoại thời vua Minh Mạng
Trong 20 năm trị vì vua Minh Mạng đã thực hiện một đường lối ngoại giao rõ
ràng có định hướng, có điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới.
Dưới thời vua Minh Mạng, Việt Nam trở thành một quốc gia có uy tín và thể
hiện được sự tự cường trong khu vực. Có thể nói, chính sách ngoại giao
‘không phương Tây” là một chính sách sai lầm có tính nhất quán mà vị vua
khởi nghiệp là Gia Long đặt ra, các vị vua kế cận triển khai thực hiện và hứng
chịu hậu quả.
Nói về vua Minh Mạng và những chính sách của ông còn có nhiều điều phải
bàn. Từ khi lên ngôi cho đến lúc băng hà, trong vòng hai mươi năm trị vì đất
nước, Minh Mạng có lúc được coi là “Minh quân” của Việt Nam bởi những
công lao đối với lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và văn hoá Việt Nam nói
riêng. Nhưng ông cũng bị coi là một “bạo chúa” của triều Nguyễn bởi những
chính sách cấm đạo ngặt nghèo.
III. Tổng kết
Thế kỷ XIX là thời kỳ chuyển hướng lịch sử không chỉ với Việt Nam mà
cũng là tình hình chung của nhiều nước phương Đông khi các thế lực thực
dân đã can thiệp vào khu vực một cách trực tiếp hơn. Lúc bấy giờ, các nước
phưong Tây đã tiến hành xong hai cuộc đại cách mạng là cách mạng tư sản và
22
cách mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản cũng dần chuyển từ giai đoạn tự do
cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc thì phương Đông nói chung, trong đó có
Việt Nam vẫn ở thời kỳ phong kiến. Nhà Nguyễn, dưới thời vua Gia Long
được dựng lên trong bối cảnh đất nước trải qua một thời kỳ chia cắt kéo dài,
sự thống nhất về lãnh thổ và chủ quyền mới chỉ đạt được tương đối; tiếp nối
sự nghiệp vua cha để lại, Minh Mạng phải gánh vác nhiệm vụ đưa đất nước
của ông bước qua giai đoạn khủng hoảng song những biến đổi khôn lường
của tình hình khu vực đã buộc ông phải lựa chọn một thái độ thận trọng, đôi
khi là cảnh giác cao.
Vào đầu thế kỷ XIX hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đòi hỏi Việt Nam
phải tăng cường mở rộng các mối quan hệ quốc tế, thắt chặt mối quan hệ quốc
tế nhất là với phương Tây để bảo vệ hữu hiệu lợi ích và an ninh đất nước.
Nhưng triều Nguyễn đã thực hiện đường lối ngoại giao “khép kín” và đóng
cửa. Xu thế này đã đi ngược lại xu thế phát triển của thế giới và là một chính
sách ngoại giao tiêu cực, sai lầm.
IV. Tài liệu tham khảo
Tài liệu sách
1. Đỗ Bang, Nguyễn Minh Tường, Chân dung các vua Nguyễn, Tập 1,
NXB Thuận Hóa.
2. Nguyễn Thế Anh, Kinh tế xã hội Việt Nam dưới thời các vua triều
Nguyễn, NXB Văn học.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 4, NXB Giáo Dục
Việt Nam.
4. Trần Nam Tiến, Ngoại giao giữa Việt Nam với các nước Phương Tây
dưới triều Nguyễn, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM.
5. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương
lịch sử Việt Nam, Tập 1, NXB Giáo Dục Việt Nam.
Tài liệu mạng
23
6. khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
7. lichsuvietnam.vn
8. lichsuvietnam.info