Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nghiên cứu phản ứng với rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) và tình hình sâu bệnh hại, thiên địch chính trên một số giống lúa nhập nội tại Thành Phố Huế trong vụ Đông Xuân 2008-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 55 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực chính của
nước ta và nhiều nước trên thế giới, nó có vai trò rất quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Lúa có thể trồng được ở nhiều điều kiện môi trường khác nhau,
hiện nay cây lúa được trồng ở 113 quốc gia trên thế giới, phân bố chủ yếu ở
những nước có vĩ tuyến từ 30-40
0
vĩ tuyến Nam đến 48-49
0
vĩ tuyến Bắc. Với
90% diện tích trên tổng diện tích trồng lúa ở toàn cầu. Khoảng 40 % dân số
trên thế giới sống bằng lúa gạo, sử dụng lúa gạo làm nguồn lương thực chính,
25% sử dụng lúa gạo trên 1/2 khẩu phần thức ăn hằng ngày. Lúa gạo có ảnh
hưởng tới ít nhất 65% dân số thế giới, sản xuất lúa gạo chủ yếu tập trung ở
các nước châu Á với mức tiêu dùng hàng năm khoảng 180-200 kg/người, còn
châu Mỹ, châu Âu khoảng 100 kg/người.
Ở nước ta sản xuất lúa gạo giữ vai trò quan trọng trong nền sản xuất nông
nghiệp, chiếm gần 50% GDP của nông nghiệp. Trong những năm qua, diện tích
đất nông nghiệp có xu hướng giảm xuống nhưng do năng suất lúa tăng lên nên
sản lượng thóc không ngừng tăng lên. Hiện nay, năng suất lúa bình quân của
Việt Nam vào khoảng 48,9 tạ /ha xếp thứ hai sau Indonexia. Diện tích gieo trồng
lúa Việt Nam là 7326,2 nghìn ha xếp thứ hai sau Trung Quốc.
Nước ta nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng có diện tích trồng lúa
khá lớn và vấn đề dịch hại luôn được quan tâm đúng mức. Đã nhiều năm nay
các loài dịch hại luôn là đối tượng trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất lúa, vì
vậy việc nghiên cứu thành phần và diễn biến một số sâu bệnh hại chính trên
các giống lúa sẽ có ý nghĩa thực tế rất lớn cho người dân trồng lúa.
Nông dân ở mỗi vùng do hệ thống canh tác khác nhau mà đòi hỏi các
giống lúa khác nhau. Ở những vùng thiếu đói thì yêu cầu giống lúa cho năng


suất cao là chính, vùng lương thực dư thừa lại cần giống lúa đáp ứng yêu cầu
của xuất khẩu. Các vùng trồng cây vụ Đông ở miền Bắc và cấy vụ lúa Hè Thu
ở miền Trung và miền Nam đòi hỏi các giống lúa ngắn ngày để thu hoạch
sớm, giải phóng đất sớm tránh bão lụt. Trong một vùng thì tùy vào điều kiện
đất đai mà yêu cầu về giống lúa cũng khác nhau, vùng đất chua phèn cần cung
cấp các giống lúa chịu mặn, chịu phèn, vùng không có hệ thống tưới tiêu yêu
1
cầu các giống lúa chịu hạn,… Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về giống
cho nông dân thì việc đưa một số giống mới vào sản xuất đang được thực
hiện,thử nghiệm để chọn ra được loại giống mới có khả năng chống chịu với
sâu bệnh và cho năng suất cao.
Trong các loài dịch hại, thì rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) là một trong
những đối tượng sâu hại nghiêm trọng nhất cho lúa ở Việt Nam nói riêng và thế
giới nói chung. Rầy nâu không những gây hại trực tiếp bằng cách chích hút nhựa
luyện ở thân, lá lúa làm cho lúa thâm đen, cây héo, nếu bị nặng có thể gây cháy
rầy, mà còn gây hại gián tiếp đó là làm môi giới truyền bệnh lúa cỏ, lúa lùn xoắn
lá nên tác hại của rầy nâu lại càng nghiêm trọng hơn.
Hiện nay, để phòng trừ rầy nâu, có rất nhiều biện pháp như biện pháp
canh tác, hóa học, sinh học,… nhưng biện pháp sử dụng giống kháng rầy vẫn
được chú ý hơn cả vì đây là một biện pháp chủ động và có hiệu quả kinh tế
cao, đặc biệt là không gây ô nhiễm môi trường.
Trước tình hình trên việc tuyển chọn và lai tạo các giống lúa có khả năng
kháng rầy và cho năng suất cao, phẩm chất tốt là một trong những yêu cầu bức
thiết trong việc sản xuất lúa gạo ở nước ta. Việc tìm ra giống kháng rầy đối với
những giống lúa nhập nội là một việc rất có ý nghĩa cho người sản xuất.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu phản ứng với rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) và tình hình sâu bệnh
hại, thiên địch chính trên một số giống lúa nhập nội tại Thành Phố Huế
trong vụ Đông Xuân 2008-2009”.
1.2 Mục đích

Đánh giá khả năng kháng rầy nâu của các giống lúa nhập nội tại Thừa
Thiên Huế.
Chọn ra giống lúa có khả năng kháng rầy và ít nhiễm các đối tượng sâu hại
khác nhằm phục vụ cho sản xuất và làm vật liệu cho việc nghiên cứu tiếp theo.
Xác định thành phần và mức độ phổ biến của các đối tượng gây hại chủ
yếu trên các giống lúa nhập nội tại Thừa Thiên Huế.
1.3. Yêu cầu
Nắm vững diễn biến thời tiết khí hậu tại Thừa Thiên Huế.
Biết được nguồn gốc của các giống lúa nghiên cứu.
Nắm rõ các thành phần sâu bệnh hại chính trên lúa.
Nắm được đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của rầy nâu.
2
Biết được một số thiên địch bắt mồi ăn thịt của rầy nâu trên đồng ruộng.
Nắm vững các quy trình kỹ thuật áp dụng cho thí nghiệm.
Nắm rõ phương pháp bố trí thí nghiệm ngoài đồng ruộng và trong
phòng thí nghiệm.
Nắm vững các phương pháp theo dõi các chỉ tiêu đối với từng loài dịch hại.
Biết cách ghi số liệu chính xác và khoa học.
Biết xử lý số liệu.
Mô hình hoá các số liệu, nhận xét, đánh giá, phân tích số liệu một cách
chính xác và khoa học.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình sản xuất lúa
*Trên thế giới:
Hiện nay, trên thế giới cây lúa được trồng ở nhiều khu vực và nhiều vùng
khí hậu khác nhau. Diện tích, năng suất, sản lượng lúa trong những năm qua
có nhiều thay đổi, điều đó được thể hiện qua bảng 2.1.
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa trên thế giới từ năm 2000 - 2007

Năm
Chỉ tiêu
2000 2001 2002 2003 2005 2007
Diện tích
(triệu ha)
154,1 152,0 147,7 149,2 153,5 137,5
Năng suất
(tạ/ha)
39,0 40,0 39,0 39,0 40,0 41,0
Sản lượng
(triệu tấn)
599,0 598,0 578,0 538,0 614,0 626,7
(Nguồn: />Qua bảng số liệu ta thấy diện tích trồng lúa của thế giới là rất lớn, nhưng
sau năm 2000 diện tích trồng lúa có xu hướng giảm xuống, từ năm 2000 đến
năm 2007 diện tích giảm từ 154,1 triệu ha xuống còn 137,5 triệu ha, nguyên
nhân là do việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, quá trình đô thị hóa phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại. Mặc dầu, diện tích gieo trồng lúa ngày càng
giảm nhưng năng suất và sản lượng không ngừng tăng lên, từ năm 2000 đến
2007 năng suất tăng từ 39 tạ/ha lên 41 tạ/ha, sản lượng tăng từ 599 triệu tấn
lên 626,7 triệu tấn, nguyên nhân là do việc đầu tư thâm canh tăng năng suất
về khoa học kỹ thuật, giống, phân bón,…
Trong đó, diện tích trồng lúa chủ yếu tập trung ở châu Á, chiếm khoảng
85% diện tích và 90% sản lượng lương thực thế giới, thấp nhất là châu Úc chỉ
chiếm 0,12% diện tích và 0.3% sản lượng của thế giới. Châu Á vốn là cái nôi
của nền sản xuất lúa nước và là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc
sản xuất lúa.
4
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất lúa gạo ở một số nước Châu Á (2006)
Chỉ tiêu
Nước

Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
Trung Quốc 29.380 6,2 182.156
Ấn Độ 43.700 3,1 135.470
Indonexia 11.400 4,7 53.580
Nhật Bản 1.688 6,3 10.634
Thái Lan 10.072 2,9 29.208
Việt Nam 7.324 4,8 35.155
Australia 169 6,3 1.064
Mỹ 1.341 7,6 10.191
Thế Giới 154.323 4,1 632.724
( Số liệu thống kê của FAO, 2006 ) [24].
Qua bảng số liệu ta thấy diện tích lúa châu Á tập trung chủ yếu ở 2 nước
là Trung Quốc và Ấn Độ, 4 nước đạt năng suất cao nhất là Mỹ đạt 7,6 tấn/ha,
Trung Quốc, Nhật Bản, Australia đạt 6,2 - 6,3 tấn/ha.
Mặc dầu, trong vài thập kỹ qua sản xuất lúa gạo đã có những tiến bộ
đáng kể nhưng năng suất và chất lượng vẫn chưa cao. Vì vậy, việc ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật thâm canh như sử dụng giống mới, bón phân cân đối, phòng
trừ sâu bệnh, … để tăng năng suất và chất lượng ở những vùng trọng điểm lúa
của thế giới để đáp ứng nhu cầu lương thực ngày càng cao là hết sức cần thiết.
*Ở Việt Nam:
Ngày nay, sản xuất lúa gạo là nguồn lương thực và thu nhập chính của đa
số nông dân. Trong giai đoạn 1999 - 2002 sản lượng lúa tăng bình quân năm
khoảng 4,9%, trong đó năng suất lúa tăng 3,0% năm và diện tích gieo trồng
tăng 1,8% năm. Năm 2003 sản xuất lúa gạo đã chiếm gần 50% GDP nông
nghiệp (không bao gồm Lâm và Ngư nghiệp) [18].

Theo báo cáo của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, năm 2004 sản
lượng lương thực đạt mức kỷ lục là 35,9 triệu tấn, vượt mục tiêu Đại hội
Đảng lần thứ IX đề ra là 1,5 triệu tấn, tăng so với năm 2003 là 1,3 triệu tấn,
góp phần nâng khối lượng xuất khẩu gạo lên 4,06 triệu tấn, giá trị kim ngạch
xuất khẩu đạt 941 triệu USD, giúp Việt Nam vững vàng ở vị trí nước xuất
khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới [19].
5
Hiện nay, năng suất lúa bình quân của Việt Nam vào khoảng 48,9 tạ/ha
xếp thứ 2 sau Indonexia, diện tích gieo trồng lúa Việt Nam là 7326,2 nghìn ha
xếp thứ 2 sau Trung Quốc [31].
Năm 2007 với mục tiêu đề ra là tập trung thực hiện thâm canh đồng
bộ, mở rộng diện tích ở các tỉnh miền Bắc và sử dụng giống lúa chất lượng
cao để tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất lúa, tích
cực phòng chống dịch bệnh trên cây lúa đặc biệt là Rầy nâu, vàng lùn, lùn
xoắn lá,…[20].
Tình hình sản xuất lúa gạo của nước ta trong những năm qua được thể
hiện ở bảng 2.3.
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam qua các năm
Năm
Diện tích
(1000ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000tấn)
s1975 5.600,0 21,2 10.293,0
1980 5.600,0 20,8 11.674,0
1989 5.895,0 32,2 18.990,0
1990 6.042,8 31,8 19.225,1
2000 7.666,3 42,4 32.529,5

2003 7.452,2 46,3 34.568,8
2004 7.443,8 48,2 35.887,8
2005 7.339,5 49,5 36.341,0
2006 7.324,4 48,9 35.826,8
2007 7.201,0 41,0 35.867,5
Nguồn :http//:Faostat.fao [32].
Qua bảng số liệu ta thấy qua các năm từ 1975-2007 năng suất và sản
lượng lúa của Việt Nam ngày càng tăng, năng suất tăng từ 20-50 tạ/ha, sản
lượng tăng từ 10-36 triệu tấn/ha. Nguyên nhân là do việc đầu tư thâm canh,
áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất. Sau năm 2000 diện tích
trồng lúa có xu hướng giảm, giảm từ 7,6 triệu ha xuống còn 7,2 triệu ha.
Nguyên nhân do cơ cấu cây trồng, quá trình đô thị hóa để phù hợp với xu
thế phát triển của thế giới. Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng
thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan.
6
* Tình hình sản xuất lúa ở Thừa Thiên Huế:
Thừa Thiên Huế là một tỉnh miền Trung thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có
diện tích gieo trồng cây lương thực là 64.211 ha trong đó lúa 51.316 ha, màu
12.905 ha.
Với hơn 75% dân số sống bằng nghề nông, các vùng trồng lúa ở Thừa
Thiên Huế thường bị phân tán, không tập trung lớn để chuyên canh, thời tiết
khí hậu khắc nghiệt. Khí hậu hằng năm phân hóa thành 2 mùa rõ rệt mùa mưa
và mùa khô, lượng mưa phân bố không đồng đều thường tập trung từ tháng 9
đến tháng 12 gây lũ lớn ở đầu vụ Đông Xuân, ngược lại từ tháng 4 đến tháng
8 lại khô hạn gây khó khăn cho sản xuất vụ Hè Thu. Nhưng nhìn chung tình
hình sản xuất lúa trong 12 năm trở lại đây có nhiều tiến bộ, nó được thể hiện ở
bảng 2.4.
Bảng 2.4. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Thừa Thiên Huế
qua các năm
Năm

Diện tích
( 1000 ha )
Năng suất
( tạ/ ha )
Sản lượng
( 1000 tấn )
1996 49.493 37,7 1.865,9
1997 50.084 39,2 1.963,3
1998 49.852 37,7 1.879,4
1999 51.041 42,3 2.159,0
2000 51.341 38,3 1.966,4
2001 51.644 39,7 2.050,3
2002 51.827 40,7 2.109,4
2003 51.648 45,6 2.355,1
2004 51.316 48,6 2.493,9
2005 50.457 46,6 2.351,3
2006 50.241 50,3 2.527,1
2007 50.419 51,5 2.596,7
( Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2007) [25]
Nhìn chung tình hình sản xuất lúa ở Thừa Thiên Huế trong những năm
qua khá ổn định, Trong 12 năm từ năm 1996 -2007 diện tích gieo trồng lúa
chỉ giao động trong khoảng 49-51 ngàn ha, năng suất tăng không đáng kể giao
động từ 37- 50 tạ/ha, một mặt là do điều kiện thời tiết khắc nghiệt mặt khác là do
nông dân chưa đẩy mạnh đầu tư thâm canh. Hiện nay, diện tích trồng lúa của
Thừa Thiên Huế đang có xu hướng giảm đi, nguyên nhân là do đất trồng lúa
được chuyển sang trồng hoa màu và phục vụ cho các hoạt động sản xuất khác.
Để tăng sản lượng lúa thì việc đầu tư thâm canh tăng năng suất là tất yếu.
7
*Một số thành tựu trong công tác nghiên cứu và chọn tạo giống
lúa mới

Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI đã nghiên cứu ra nhiều giống lúa mới khắc
phục được những nhược điểm như đỗ ngã, đẻ nhánh kém, dễ nhiễm bệnh, …
Chương trình cải tiến lúa được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phát triển giống có dạng hình thấp cây, thân cứng, khả năng
đẻ nhánh cao, có thời gian sinh trưởng ngắn,… Ví dụ như giống IR8
Giai đoạn 2: Đưa gen kháng vào dạng hình thấp cây cải tiến cho năng
suất cao và ổn định ví dụ như IR26, IR42,…
Giai đoạn 3: Phát triển những giống chín sớm với dạng hình thấp cây,
kháng được một số sâu bệnh hại quan trọng, năng suất cao ví dụ như IR6,
IR36, IR35366 [1].
Nhiều loại côn trùng gây hại, vi khuẩn, nấm,… trên cây lúa có tính đa
dạng về địa lý và thời gian. Tính đa dạng này thường được biểu hiện thông
qua sự khác nhau về độc tính và sự khác biệt về cây chủ có tính kháng. Các
nhà khoa học đã sử dụng phương pháp phân tích RFLP và RADP để tạo ra
các giống lúa kháng bệnh như kháng đạo ôn, kháng bệnh bạc lá [15].
Sử dụng ưu thế lai đối với cây lúa được bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20, nhiều công trình nghiên cứu về ưu thế lai cây lúa thành công ở
nhiều nước như Nhật Bản 1958, Mỹ 1969, Ấn Độ 1973, Viện nghiên cứu lúa
quốc tế IRRI năm 1977, gần đây Trung Quốc là nước đạt được nhiều thắng
lợi trong việc sử dụng ưu thế lai [5].
Song song với việc chọn tạo giống lúa năng suất cao và chống chịu sâu
bệnh thì công tác nghiên cứu cải tạo giống lúa chất lượng cao của các nước
trên thế giới ngày càng phát triển. Những năm thập niên 70 của thế kỹ XX
IRRI đã thực hiện chương trình cải tạo các giống lúa chất lượng cao nhằm
nâng cao năng suất và khả năng chống chịu [4].
Hiện nay, nhiều giống lúa mới được tạo ra nhờ áp dụng các tiến bộ khoa
hoc kỹ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về giống lúa sản xuất.
2.2. Tình hình nghiên cứu sâu bệnh hại lúa và thiên địch
Để đóng góp vào quá trình phát triển của nền nông nghiệp toàn cầu thì
hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có nhiều công trình

nghiên cứu về sâu bệnh hại lúa và đã có được những kết quả đáng kể.
8
Theo tính toán của tổ chức lương thực và nông nghiệp thế giới (FAO) thì
hằng năm sâu bệnh làm mất từ 15 - 30% tổng sản lượng nông nghiệp trên thế
giới, ở nhiều nước tỷ lệ này cao hơn có trường hợp lên đến 50%. Riêng đối
với lúa và ngũ cốc hàng năm trên thế giới thiệt hại do sâu bệnh gây ra lên đến
100 triệu tấn, số lương thực này đủ để nuôi 450 triệu người ăn trong 1 năm,
sâu bệnh là một trong những nguyên nhân gây nên thiệt hại trên [6].
Điều tra những yếu tố hạn chế năng suất lúa ở các vùng trồng lúa chính ở
Nam Á và Đông Nam Châu Á những năm gần đây, sau khi một số giống lúa
thấp cây được phổ biến trong sản xuất các nhà khoa học nông nghiệp ở các nước
đã thống nhất ý kiến cho sâu bệnh là trở ngại lớn nhất và phổ biến nhất [2].
Vấn đề sâu bệnh luôn là vấn đề lớn đối với nghề trồng lúa ở vùng châu Á
nhiệt đới vốn có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của sâu bệnh
(ẩm, nóng, có nhiều loài cây chủ,…) [2].
*Về sâu hại:
Theo PGS. Nguyễn Công Thuật ở phía Bắc qua điều tra cơ bản (1967-
1968), đã phát hiện có 88 loài sâu hại lúa, còn ở miền Nam (1977-1979) đã
phát hiện được 78 loài, trong đó có 6 loài gây hại chủ yếu như: Rầy nâu, sâu
cuốn lá nhỏ, sâu đục thân bướm 2 chấm, bọ xít dài, sâu năn, sâu phao và 15
loài gây hại thứ yếu [28]. Theo kĩ sư Nguyễn Văn Hạ, Trung tâm Bảo vệ thực
vật miền Trung qua điều tra sâu bệnh hại lúa ở miền Trung từ năm 1984-1988
đã xác định được 6 loài sâu hại chính đó là: sâu đục thân bướm 2 chấm, sâu
cuốn lá nhỏ, sâu phao, rầy nâu, rầy lưng trắng, bọ xít dài, sâu năn [27]. Theo
Ths. Lê Văn Hai qua nghiên cứu điều tra sâu hại lúa vùng đầm phá tại Thừa
Thiên Huế đã xác định được 6 loài sâu hại chính đó là: Sâu cuốn lá nhỏ, sâu
cuốn lá lớn, sâu năn, bọ xít dài, châu chấu lúa, bọ xít xanh, trong đó sâu cuốn
lá nhỏ, bọ xít lúa và sâu năn là phổ biến nhất [23].
Tình hình sâu hại diễn biến rất phức tạp, có những loài trong năm trước
đây gây hại thứ yếu thì nay trở thành gây hại chủ yếu, ví dụ như sâu cuốn lá

nhỏ trước những năm đầu của thập niên 60 là loài sâu gây hại thứ yếu, đến
thập niên 70 nó là loài sâu hại chủ yếu ở những vùng trồng lúa. Vào năm
2002 tổng diện tích bị nhiễm sâu cuốn lá nhỏ là 998,139 ha trong đó diện
tích bị nhiễm nặng là 275,503 ha [21]. Như bọ xít dài hại lúa ở tỉnh Nghệ
An, Thanh Hóa gây thiệt hại nặng từ năm 1986 -1987 làm giảm 20-30%
9
năng suất, vì thế cần thường xuyên theo dõi để có biện pháp phòng trừ kịp
thời và hợp lý [29].
* Về bệnh hại:
Theo kết quả điều tra năm 1903-1904 của Phạm Quý Hiệp và cộng tác
viên đã phát hiện có tới 28 loài bệnh hại lúa [14]. Hiện nay, đã ghi nhận trên
dưới 40 loài bệnh hại lúa trong đó bệnh do nấm gây ra đóng vai trò chủ yếu
và chiếm trên 80% số bệnh hại [16].
Ở Thừa Thiên Huế, vụ xuân 1994 - 1995 có 17 nghìn ha bị nhiễm đạo ôn
chiếm 56,38% diện tích. Hiện nay các giống lúa trong vụ xuân như IR1749,
IR38, nếp, CR203 bị nhiễm đạo ôn khá nặng [23]. Bệnh đạo ôn được phát hiện
đầu tiên ở Italia năm 1560 sau đó là Trung Quốc năm 1637, Nhật Bản 1760, Mỹ
1906, Ấn Độ 1913, Việt Nam 1921 ở vùng Nam Bộ. Trong những năm 1956
-1961 bệnh đã phát sinh phá hại nghiêm trọng nhiều nơi ở miền Bắc như Hải
Phòng, Thái Nguyên, Bắc Giang, …Vụ Đông Xuân năm 1991-1992 ở miền Bắc
diện tích lúa bị nhiễm bệnh đạo ôn là 292.000 ha, miền Nam là 105.000 ha [12].
Năm 2002 diện tích bị nhiễm đạo ôn là 208.349 ha.
Theo kết quả điều tra sâu bệnh hại lúa ở miền Trung từ năm 1984-1988 của
kĩ sư Nguyễn Văn Hạ thì bệnh khô vằn đã trở thành nghiêm trọng và phổ biến ở
tất cả các vụ [28]. Bệnh khô vằn là bệnh khá nghiêm trọng, năm 2001 tổng diện
tích lúa bị nhiễm khô vằn là 725.420 ha, năm 2002 là 880.315 ha [16].
Bệnh đốm nâu là bênh gây hại phần lớn diện tích gieo trồng lúa trong
những năm gần đây. Ở miền Bắc nước ta từ năm 1969 - 1970 bệnh đã xuất
hiện ở nhiều vùng, vụ mùa năm 1971 bệnh đã trở thành phổ biến ở khắp các
vùng trồng lúa nước ta [12].

* Về thiên địch:
Phòng trừ sinh học (Biological control) đối với sâu hại là biện pháp sử
dụng kẻ thù tự nhiên của loài sâu hại đó để diệt trừ chúng bằng cách bảo vệ,
tạo điều kiện cho các loài này có mặt trên đồng ruộng [13].
Thành phần thiên địch trên ruộng lúa đã phát hiện khoảng 415 loài
thuộc 14 bộ, 58 họ, 241 giống của các lớp côn trùng, nhện, nấm và tuyến
trùng. Bộ cánh màng có số lượng loài lớn nhất: 165 loài (chiếm 39,7% tổng
số loài thiên địch); thứ hai là bộ cánh cứng: 95 loài (22,8%); thứ 3 là bộ cánh
nửa: 70 loài (16,8%); đứng thứ 4 về số lượng loài là bộ nhện lớn: 49 loài
10
(11,8%). Còn các bộ khác, mỗi bộ mới ghi nhận được 1 hoặc vài loài là thiên
địch trên ruộng lúa [8].
Ở Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu theo dõi số lượng của những
nhóm nhện lớn bắt mồi ăn thịt chính trên những giống nhiễm rầy nâu (nếp
TK90 và giống kháng rầy nâu CR203) cho thấy: Ở những ruộng cấy giống
nhiễm rầy nâu có số lượng nhện ăn thịt cao hơn rõ ràng so với ruộng lúa
cấy giống kháng rầy. Sự khác biệt này có ý nghĩa là nơi có nhiều rầy nâu
thì sẽ có nhiều nhện lớn ăn thịt, chúng là những thiên địch quan trọng và
nguy hiểm đối với rầy nâu [3].
Theo nghiên cứu của Barion et all (1984) cho biết thành phần nhện bắt
mồi ăn thịt trên đồng ruộng lúa khá phong phú và ông đã thống kê được 217
loài nhện lớn bắt mồi ăn thịt trên đồng lúa của 12 nước thuộc vùng Đông và
Đông Nam châu Á, trong khi đó ở Nhật Bản có 90 loài, Đài Loan 75 loài,
Thái Lan 62 loài, Philippin 51 loài. Riêng ở Trung Quốc đến năm 1991 đã ghi
nhận có 295 loài nhện lớn bắt mồi ăn thịt trên đồng ruộng lúa [9].
2.3. Những nghiên cứu về rầy nâu và giống kháng rầy nâu
2.3.1. Những nghiên cứu về rầy nâu
Rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) bộ cánh đều Hemoptera họ muội nâu
Delphacidae là một loài sâu hại phổ biến ở nước ta, trước đây cũng như hiện
nay, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Từ giữa những năm 1977 rầy nâu đã

phát sinh thành dịch lớn gây thiệt hại nặng cho lúa ở nhiều tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long [33].
Ở nước ta, lần đầu tiên rầy nâu phát sinh thành dịch hại lúa vào cuối năm
1931 tại Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Cần Thơ, Rạch Giá,
Bến Tre, … Mức độ thiệt hại lên đến 50% và một số nơi bị mất trắng. Năm 1932
dịch rầy nâu lại xảy ra ở các tỉnh trên nhưng sớm hơn ngay từ đầu tháng 9.
Sau năm 1954, ở miền Bắc rầy nâu vẫn được coi là một trong 3 loài rầy
phát sinh phổ biến và có khi gây tác hại nặng trên lúa, 2 loài rầy kia là rầy
lưng trắng Sogata furcifera Horvath và rầy xám Delphacodes striatella [33].
Vụ mùa năm 1973 ba loại trên gây hại nặng cho lúa ở khắp các vùng
miền Bắc. Trước năm 1967, ở miền Nam rầy nâu có xuất hiện nhưng không
gây thiệt hại đáng kể, từ năm 1968 trở đi do trồng rộng rãi các giống lúa mới
ngắn ngày năng suất cao loại IR (thần nông) nên rầy nâu càng ngày càng trở
nên nghiêm trọng [33].
11
Rầy nâu phân bố rộng ở nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Triều
Tiên, Băngladet, Ấn Độ, Indonexia, Thái Lan, Malaixia, Philippin, Việt Nam,
Campuchia, Lào, Srilanca, Java, …Ngoài cây lúa nó có thể sống trên nhiều
loài ký chủ như cỏ lồng vực, cỏ môi, cỏ công viên, cỏ mần trâu, cỏ chỉ, cỏ
tranh, cỏ sâu róm, cỏ đuôi chó, cỏ gấu, cỏ bông, cỏ chân nhện,…[14].
Số liệu thống kê cho thấy rầy nâu đã xuất hiện và gây hại cho vùng trồng
lúa lớn nhất của nước ta từ những năm của thập niên 1970 rồi từ đó đến nay
nó luôn được xem là đối tượng gây hại rất quan trọng trên cây lúa. Rầy nâu đã
gây hại nặng (cháy rầy) trong các năm 1978, 1991, 1992, 2005. Ngoài ra, rầy
còn là tác nhân lan truyền virus gây ra 2 loại bệnh rất nguy hiểm đó là bệnh
vàng lùn và bệnh lúa lùn xoắn lá gây thiệt hại nhiều trong các năm 1979,1993,
1999, 2000, 2002, 2006 đặc biệt có một khoảng thời gian khá dài từ năm 1993
-2005 diện tích và mật độ rầy xuất hiện ở mức khá cao [33].
Vòng đời rầy nâu rất ngắn 25-30 ngày, số lứa 12-13 lứa trong một năm,
các lứa quan trọng trong năm thường nằm trong mùa mưa khống chế được

mật độ của các lứa này có tác dụng rất lớn.
Để phòng chống rầy nâu có thể sử dụng nhiều biện pháp như dùng bẫy
đèn, trồng cây bẫy là những giống lúa nhiễm rầy chín sớm, dùng dầu hỏa,
mazut, diezen rải đều trên mặt ruộng, mật độ gieo trồng hợp lý, sử dụng phân
bón cân đối, hợp lý, chế độ nước thích hợp, luân canh cây trồng, dùng thuốc
hóa học để dập dịch khi rầy nâu bùng phát về số lượng [28]. Tuy nhiên cần
thực hiện các biện pháp tổng hợp một cách có trọng điểm nhưng đồng bộ thì
mới đạt hiệu quả mong muốn [13].
Một trong những biện pháp hiện nay đang được nghiên cứu và sử dụng
để phòng chống rầy nâu rất có hiệu quả là biện pháp dùng giống kháng rầy.
Biện pháp này vừa mang lại hiệu quả cao, an toàn cho người và đông vật vừa
không gây ô nhiễm môi trường.
2.3.2. Những nghiên cứu về giống kháng rầy nâu.
Trồng giống kháng rầy nâu là biện pháp phòng trừ hiệu quả nhất. Đa số
các giống lúa cải tiến đang được trồng hiện nay đều có mang gen kháng rầy
nâu, trong quá trình gieo trồng nếu thấy giống đang gieo trồng bị nhiễm rầy
nâu thì nên thay giống mới kháng rầy nâu. Nguyên nhân do nòi của rầy nâu
(Biotype) luôn thay đổi thích nghi với giống kháng để sinh tồn. Việc lai tạo và
12
chọn giống kháng rầy nên được tiến hành liên tục để luôn có giống kháng
thay thế khi giống đang được gieo trồng trở nên nhiễm rầy [31].
Mỗi giống lúa bị rầy nâu phá hại với mức độ khác nhau tùy theo mức
độ thích nghi của rầy với giống đó. Khả năng này phụ thuộc vào phản ứng của
rầy với đặc điểm lí sinh và hóa sinh của giống và diễn ra theo các giai đoạn
sau: 1) phản ứng định hướng nhờ đó rầy đến được cây chủ; 2) phản ứng thức
ăn quyết định sự lấy thức ăn; 3) việc sử dụng những thức ăn đã ăn vào quyết
định dinh dưỡng của rầy; 4) sinh trưởng của rầy non cho đến giai đoạn trưởng
thành phụ thuộc vào sự lấy thức ăn cũng như vào dinh dưỡng; 5) sự sống sót
của rầy trưởng thành và sản lượng trứng cũng phụ thuộc vào sự lấy thức ăn và
dinh dưỡng; 6) quá trình đẻ trứng quyết định số trứng đẻ ra; 7) sự nở của

những trứng đã đẻ ra. Bảy phản ứng trên quyết định số lượng rầy nâu tồn tại
trong một thời gian nhất định. Bất cứ phản ứng nào bị rối loạn cũng làm cho
cây không thích hợp với rầy do đó chống được rầy ở một mức độ nào đó [6].
Từ năm 1966, Viện nghiên cứu lúa quốc tế đã tiến hành những thí nghiệm
khác nhau nhằm xác định các nguồn chống rầy, nhờ chọn lọc hàng loạt với 26
nghìn ha lúa đã chọn khoảng 500 giống chỉ bị thiệt hại ở các mức điểm từ 1-5.
Để thử lại tính chống chịu của chúng với 3 biotype rầy nâu, khi thử nghiệm lại
đã xác định được 268 giống chống biotype 1, 110 giống chống biotype 2, 95
giống chống biotype 3. Tuy nhiên những giống chống được biotype này không
nhất thiết cũng chống được biotype khác, đã xác định được khoảng 50 giống
hoặc dòng chọn lọc chống được cả 3 biotype của rầy nâu, không giống nào mẫn
cảm với biotype 1 lại chống được các biotype 2 và 3 [6].
Khi rầy nâu có điều kiện chọn giữa giống chống rầy với giống mẫn cảm
với rầy dần dần một số lượng sẽ tụ tập ở giống mẫn cảm. Ba thí nghiệm trong
năm 1977 ở viện quốc tế nghiên cứu lúa khẳng định những giống IR sau
chống được rầy nâu IR32, IR2863-38-1-2, IR4432-103-6-4, IR4570-83-3-2 và
IR5853-118-3. Các giống PTB19, PTB21, PTB33 và Sinna sivappu chống
khỏe với 3 biotype trong nhà kính và bị rầy nâu phá hại ở mức thấp nhất trên
đồng ruộng [9].
Định hướng chiến lược đến 2015 và tầm nhìn đến 2020 là nghiên cứu
chọn tạo bộ giống lúa (lúa thuần, lúa lai, lúa đặc sản,… có năng suất, chất
lượng khá, có khả năng kháng rầy nâu, sâu đục thân, sâu năn, các giống lúa
kháng bệnh vàng lùn-lùn xoắn lá, kháng bệnh đạo ôn, bạc lá, tạo được các
13
giống kháng đa gen để khắc phục được sự biến dị của các nòi độc tính dịch
hại, góp phần giảm thiểu sử dụng thuốc hóa học BVTV bảo vệ mùa màng và
an toàn với môi trường [9].
2.4. Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.4.1. Cơ sở lý luận
Theo điều tra những yếu tố hạn chế năng suất lúa thì sâu bệnh là trở

ngại lớn nhất và phổ biến nhất, cây lúa cũng như nhiều cây trồng khác luôn bị
nhiều đối tượng sâu bệnh gây hại.
Việc phòng chống bằng thuốc hóa học không đúng cách, không đúng
đối tượng, không hợp lý không những gây độc hại cho con người, động vật,
gây ô nhiễm môi trường mà còn làm cho một số loài sâu bệnh hại trước đây là
thứ yếu trở thành dịch hại chủ yếu gây thiệt hại nặng cho người sản xuất.
Để hạn chế việc sử dụng thuốc hóa học việc đưa các giống có năng suất
cao, chống chịu với sâu bệnh vào sản xuất đã đưa lại hiệu quả cao và an toàn
với môi trường.
Tuy nhiên, sau một thời gian sử dụng các giống này bị thoái hóa và dễ
bị nhiễm sâu bệnh, sâu bệnh hại phát triển dưới một hình thức cao hơn, phong
phú hơn hình thành các biotype mới làm cho các giống này mất tác dụng.
Nguyên nhân là do kỹ thuật canh tác không phù hợp, đặc biệt là việc chuyển
đổi cơ cấu cây trồng với toàn bộ diện tích là giống kháng làm cho sâu không
còn thức ăn, để tồn tại chúng phải tiến hóa dưới những hình thức cao hơn.
Trên đồng ruộng nếu cùng trồng loại giống nhiễm và giống kháng rầy
nâu thì khi đó rầy nâu sẽ tập trung ở những giống nhiễm, giống kháng sẽ được
bảo vệ, vì thế trong sản xuất cơ cấu khoảng 60% diện tích trồng giống kháng
là phù hợp.
Hơn nữa, một giống lúa kháng được loại sâu hại này chưa chắc đã
kháng được các loài sâu hại khác, việc đưa các giống lúa ra ngoài sản xuất để
kiểm nghiệm có ý nghĩa thực tế rất lớn cho việc sản xuất, đó là tìm ra được
giống lúa kháng rầy nâu nhưng ít bị nhiễm các đối tượng sâu hại khác.
2.4.2. Cơ sở thực tiễn
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, trên 80% dân số
sống bằng hoạt động sản xuất nông nghiệp, hằng năm sâu bệnh phát sinh gây
nhiều thiệt hại cho ngành sản xuất nông nghiệp.
14
Ở nước ta nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, cây lúa được trồng
quanh năm và thường xuyên có mặt trên đồng ruộng, điều đó đã tạo điều kiện

cho sâu bệnh thường xuyên có nơi cư trú. Mặt khác với thực trạng sản xuất
manh mún, hệ thống canh tác không phù hợp cộng với điều kiện khí hậu nóng
ẩm, mưa nhiều đã tạo điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát sinh, phát triển
như bệnh đạo ôn, khô vằn, đốm nâu, sâu cuốn lá nhỏ, sâu năn, đặc biệt là rầy
nâu. Thực tế trong quá trình sản xuất nhiều giống trước đây là giống kháng
bây giờ đã trở thành giống nhiễm như khang dân, 13/2, …trước đây kháng
bệnh đạo ôn hiện nay đã bị nhiễm đạo ôn. Hơn nữa, việc lạm dụng thuốc hóa
học vào trong việc phòng chống các đối tượng sâu bệnh hại đang ngày càng
phổ biến, dư lượng thuốc hóa học trong nông sản ngày càng nhiều gây độc
cho con người và vật nuôi. Chính vì vậy biện pháp giống là biện pháp chắc
chắn nhất và hiệu quả nhất để đưa nền nông nghiệp thế giới cũng như nền
nông nghiệp nước ta trở thành nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp bền
vững. Thực tế hiện nay cũng đã cho thấy, số lượng giống chống chịu với sâu
bệnh và cho năng suất cao ngày càng nhiều đáp ứng được nhu cầu về giống và
an ninh lương thực.
Với những cơ sở nêu trên thì biện pháp giống vẫn là biện pháp hàng
đầu trong quá trình sản xuất lúa, công tác chọn tạo giống, khảo ngiệm giống
để chọn ra được giống cho năng suất cao, ổn định, chống chịu được với các
đối tượng sâu hại và phù hợp với điều kiện sản xuất tập quán của mỗi vùng là
công việc thường xuyên và thiết thực.
15
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Rầy nâu: Thu thập ở khu vực Thừa Thiên Huế.
Giống lúa nghiên cứu.
Nghiên cứu phản ứng với rầy nâu trên 12 giống lúa nhập nội và một
giống lúa đối chứng là khang dân trong phòng thí nghiệm của bộ môn Bảo vệ
thực vật, Khoa Nông Học, Trường ĐHNL Huế.
Nghiên cứu các đối tượng sâu bệnh hại, thiên địch chính trên 23 giống lúa

nhập nội ngoài đồng ruộng tại hợp tác xã Hương Long, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trong thời gian từ tháng 5/1/2009 đến
tháng 9/5/2009.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá phản ứng với rầy nâu của các giống lúa nhập nội theo các
phương pháp của IRRI.
- Điều tra thành phần, mức độ phổ biến và diễn biến mức độ gây hại của
một số sâu bệnh, thiên địch trên các giống lúa nghiên cứu.
- Điều tra diễn biến mật độ các loại thiên địch bắt mồi ăn thịt của các loại
sâu hại trên đồng ruộng.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Để có đủ quần thể rầy nâu và độ đồng đều (về tuổi và dinh dưỡng) của nó
khi đưa vào nghiên cứu chúng tôi tiến hành thu thập rầy nâu ngoài đồng ruộng
tại 3 địa điểm là Hương Long, Trung tâm nghiên cứu cây trồng Tứ Hạ, Hương
Sơ. Sau đó nhân nuôi trên giống lúa nhiễm rầy (HT1) trong phòng thí nghiệm.
3.3.1. Đánh giá phản ứng của các giống lúa thí nghiệm với rầy nâu theo
phương pháp IRRI
- Phương pháp trong cốc mạ của IRRI: Gieo tất cả các giống lúa nghiên
cứu vào cốc nhựa (cốc nhựa có thể tích khoảng 200ml), mỗi giống gieo vào
15 cốc, mỗi cốc gieo 1 hạt, khi cây mạ được 2 lá (khoảng 7 ngày tuổi) chọn ra
mỗi giống 10 cốc, chọn cốc có cây mạ khỏe và đồng đều, dùng ống nhựa bằng
mica cắm cố định cây mạ trong cốc. Rồi tiến hành thả rầy non tuổi 2 vào mỗi
cốc, đầu trên của ống nhựa được che bằng vải mỏng. Tiến hành làm thí
nghiệm trên 12 giống nhập nội và một giống đối chứng là Khang dân, theo
16
dõi chỉ tiêu cấp hại và số lượng rầy sống sót vào 5 và 7 ngày sau lây nhiễm.
Biểu hiện tác hại của rầy trên cây mạ được phân cấp như sau:
Cấp 0: >=70% số lượng rầy chết và cây mạ khỏe
Cấp 1: <70% số lượng rầy chết và cây mạ khỏe.
Cấp 3: Cây mạ biến vàng bộ phận (≤50%)

Cấp 5: Hầu hết các bộ phận của cây bị biến vàng (>50%)
Cấp 7: Cây mạ héo
Cấp 9: Cây mạ chết
Cấp hại và mức độ kháng rầy nâu:
Cấp hại Mức độ kháng
Cấp 0- Cấp 3 Kháng (K)
Cấp 3,1- Cấp 4,5 Kháng vừa (KV)
Cấp 4,6- Cấp 5,5 Nhiễm vừa (NV)
Cấp 5,6- Cấp 7,0 Nhiễm (N)
Cấp 7,1- Cấp 9,0 Nhiễm nặng (NN)
- Phương pháp trong hộp mạ của IRRI: Gieo tất cả các giống lúa cần
đánh giá vào chung một khay lớn, 1 giống gieo thành một hàng dài 15cm theo
chiêu rộng của khay. Trong mỗi khay các hàng giống được đặt theo ngẫu
nhiên. Đến ngày thứ 7 sau khi gieo, tỉa để mỗi giống thí nghiệm còn 10
cây/hàng, sau đó dặt vào lồng, giữ mực nước trong khay khoảng 1-2cm để tạo
độ ẩm cần thiết cho rầy nâu sống. Tiến hành thả rầy tuổi 2 vào khay, trung
bình 3con/cây. Việc thả rầy lên các giống thí nghiệm phải làm đồng đều. Thí
nghiệm được lặp lại 3 lần. Theo dõi chỉ tiêu cấp gây hại của cây mạ vào 5 và
7 ngày sau lây nhiễm. Số lượng rầy ghi được trên mỗi giống cho thấy tính
thích ứng hay không thích ứng đối với giống đó. Căn cứ vào cấp gây hại để
xác định mức độ kháng rầy của từng giống.
* Cấp hại và triệu chứng cây mạ bị hại:
Cấp 1: cây mạ khỏe.
Cấp 3: <50% các bộ phận bị hại, bị biến vàng
Cấp 5: >50% các bộ phận bị hại, bị biến vàng
Cấp 7: Cây mạ héo
Cấp 9: Cây mạ chết
17
*Cấp hại và mức độ kháng rầy nâu:
Cấp hại Mức độ kháng

Cấp1- Cấp 3 Kháng (K)
Cấp 3,1- Cấp 4,5 Kháng vừa (KV)
Cấp 4,6- Cấp 5,5 Nhiễm vừa (NV)
Cấp 5,6- Cấp 7,0 Nhiễm (N)
Cấp 7,1- Cấp 9,0 Nhiễm nặng (NN)
3.3.2. Điều tra theo dõi những loài sâu bệnh chủ yếu
.Để xác định lại kết quả trong phòng thí nghiệm chúng tôi tiến hành bố trí
thực nghiệm ngoài đồng ruộng
Thí nghiệm trên 23 giống lúa, không nhắc lại và một giống đối chứng là
Khang dân. Mỗi giống tương ứng với một ô thí nghiệm, diện tích mỗi ô 10m
2
.
Do thứ tự của các giống không liên tục, để thuận lợi trong việc điều tra theo
dõi chúng tôi quy định thay đổi ký hiệu một số giống như sau: G3 (thay cho
G24), G6 (thay cho G25), G8 (thay cho G26), G9 (thay cho G29), G10 (thay
cho G30), G20 (thay cho G31).
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
Lúa bảo vệ
Lúa
bảo
G1 G2 G3 G4 G5 G6
G7 G8 G9 G10 G11 G12
G13 G14 G15 G16 G17 G18
G19 G20 G21 G22 G23 G24(đ/c)

Lúa bảo vệ
Chúng tôi tiến hành điều tra thành phần và diễn biến một số đối tượng
sâu bệnh hại và thiên địch trên đồng ruộng theo phương pháp điều tra của Cục
Bảo vệ thực vật.
*Đối với sâu hại:

Điều tra khung 40 cm x 50 cm = 0,2 m
2
. Đếm số sâu có trong khung.
Riêng đối với rệp thì tính 10 dảnh trên một điểm.
18
Đối với các loại rầy thì dùng khay 20cm x 30 cm. Ở đáy khay có tráng
một lớp dầu nhờn. Đặt khay nghiêng 45
0
so với cây lúa, đập nhẹ hai đập, diện
tích đập bằng diện tích khay. Sau đó tiến hành phân loại và đếm số lượng rầy
có trong khay. Để giảm sai số thường lấy số rầy trên khay nhân hệ số 2.
Điều tra tính mật độ sâu (con/m
2
) đối với các đối tượng như: Sâu cuốn lá,
rầy nâu, sâu keo,
Tính theo công thức:
Mật độ SVH (con/m
2
) = Tổng số SVH điều tra/ tổng số m
2
điều tra.
*Đối với bệnh hại:
Đối với bệnh trên thân (khô vằn, tiêm hạch,…) : Điều tra 10 dảnh ngẫu
nhiên/ điểm.
Đối với bệnh trên lá(đạo ôn lá, đốm nâu, tiêm lửa,…): Điều tra toàn bộ
số lá của 5 dãnh ngẫu nhiên/ điểm.
Điều tra tính tỷ lệ bệnh và chỉ số bệnh đối vơí các bệnh trên lá và phân
cấp gây hại theo bảng sau:
C0: không bị hại
C1: <1% diện tích lá bị hại .

C3: 1-5% diện tích lá bị hại.
C5: 5-25% diện tích lá bị hại.
C7: 25-50% diện tích lá bị hại.
C9: >50% diện tích lá bị hại.
Đối với bệnh trên thân (bệnh khô vằn. tiêm hạch) thì phân cấp hại như sau:
Cấp 0: Không bị hại
Cấp 1: <1/4 diện tích bẹ lá bị bệnh.
Cấp 3: >1/4 đến 1/2 diện tích bẹ lá bị bệnh.
Cấp 5: >1/4 đến 1/2 diện tích bẹ lá, cộng lá thứ 3, thứ 4 bị bệnh nhẹ
Cấp 7: >1/2 đến 3/4 diện tích bẹ lá và các lá phía trên bị hại.
Cấp 9: Vết bệnh leo tới đỉnh cây lúa, các lá nhiễm nặng, một số cây chết.
Các chỉ tiêu theo dõi:
- Tỷ lệ bệnh (%) = A/B .100
Trong đó: A - số lá ( dãnh, bẹ, ) bị bệnh
B - tổng số lá (dãnh, bẹ, ) điều tra
- Chỉ số bệnh (%) = ∑ (a.b)/N.T . 100
Trong đó: a - số lá (dãnh, bẹ, ) bị bệnh ở mỗi cấp
19
b - cấp bệnh tương ứng
N - tổng số lá (dãnh, bẹ, ) điều tra
T - cấp bệnh cao nhất
3.3.3. Điều tra theo dõi các loại thiên địch bắt mồi trên đồng ruộng
Điều tra khung 40 cm x 50 cm = 0,2 m
2
. Đếm số thiên địch có trong
khung, sau đó quy ra mật độ con/m
2
Phương pháp xử lý số liệu.
Tiến hành tổng hợp số liệu theo phần mềm:
Microsoft Office Excel 2003

20
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Phản ứng của các giống lúa thí nghiệm với rầy nâu theo phương
pháp của IRRI
Trong tập đoàn 23 giống lúa nhập nội để chọn ra được giống lúa có khả
năng kháng rầy nâu, những giống này có thể gieo trồng ra đồng ruộng hoặc
làm vật liệu cho việc nghiên cứu lai tạo ra các giống kháng rầy. Do điều kiện
không cho phép trong phòng thí nghiệm chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu
12 giống trong tổng số 23 giống nghiên cứu theo 2 phương pháp của IRRI.
4.1.1. Cấp hại và mức độ kháng của các giống lúa đối với quần thể rầy
nâu ở Thừa Thiên Huế theo phương pháp trong cốc mạ của IRRI
Phương pháp trong cốc mạ của IRRI thể hiện đúng bản chất của tính
kháng. Khi không có sự lựa chọn về nguồn thức ăn thì bắt buộc rầy nây muốn
tồn tại nó phải sử dụng loại thức ăn đó. Đối với các giống nhiễm thì rầy nâu
dễ dàng tồn tại và phát triển, đối với các giống kháng thì chúng sẽ bị chết. Kết
quả thu được thể hiện ở bảng 4.1.
Bảng 4.1. Phản ứng của các giống lúa đối với quần thể rầy nâu ở Thừa
Thiên Huế theo phương pháp trong cốc mạ của IRRI
S
T
T
Giống
Cấp gây hại sau
lây nhiễm (TB±SE)
Mức độ kháng
sau lây nhiễm
Tỷ lệ rầy sống sót
sau lây nhiễm
5 ngày 7 ngày 5 ngày 7 ngày 5 ngày 7 ngày

1 G4 4,7±0,87 5,7±0,83 NV N 83% 57%
2 G5 3,6±0,76 4,6±0,92 KV NV 60% 53%
3 G6 3,6±0,72 5,4±1,10 KV NV 53% 47%
4 G9 5,1±0,73 5,7±0,78 NV N 63% 53%
5 G13 3,3±0,96 4,0±0,89 KV KV 73% 57%
6 G14 2,6±0,82 3,4±0,92 K KV 53% 47%
7 G15 4,2±0,44 5,0±0,52 KV NV 77% 63%
8 G18 4,5±0,72 5,4±0,42 KV NV 63% 60%
9 G19 4,6±0,88 5,6±0,57 NV N 70% 63%
10 G20 2,6±0,70 3,6±0,98 K KV 70% 50%
11 G22 3,1±0,67 5,3±0,81 KV NV 63% 53%
12 G23 3,3±0,87 4,5±1,07 KV KV 60% 50%
13
KD
(Đ/C)
4,6±0,5 6,2±0,44 NV N 83% 67%
21
Qua bảng 4.1 chúng tôi có một số nhận xét như sau:
Sau lây nhiễm 5 ngày cấp hại biến động giữa các giống từ 2,6 - 5,1, mức
độ kháng của các giống lúa từ kháng đến nhiễm vừa, tỷ lệ rầy sống sót giao
động từ 53% -83%. Hai giống có biểu hiện kháng là G14 và G20, bốn giống
có biểu hiện nhiễm vừa là G4, G9, G19, KD còn lại 7 giống có biểu hiện
kháng vừa. Hai giống có tỷ lệ rầy sống sót cao nhất là G4 và KD 83% phù
hợp với khả năng thích nghi của rầy trên giống nhiễm vừa. Sang ngày thứ 7
sau lây nhiễm thì đã có sự thay đổi. Bốn giống có biểu hiện kháng vừa là
G13, G14, G20, G23, bốn giống có biểu hiện nhiễm là G4, G9, G19, G13, còn
lại 5 giống có biểu hiện nhiễm vừa, không có giống nào có biểu hiện nhiễm
nặng. Cấp hại giao động giữa các giống từ 3,4 ± 0,29 đến 6,2 ± 0,44, tỷ lệ rầy
sống sót giảm xuống, giữa các giống giao động từ 47 – 67 %, KD vẫn là
giống có tỷ lệ rầy sống sót cao nhất 67%.

4.1.2. Cấp hại và mức độ kháng của các giống lúa đối với quần thể rầy
nâu ở Thừa Thiên Huế theo phương pháp trong hộp mạ của IRRI
Phương pháp trong hộp mạ của IRRI với mục đích kiểm tra lại mức độ
kháng của các giống lúa nghiên cứu. Phương pháp thức ăn có sự lựa chọn tức
là có sự hỗ trợ của các giống nhiễm nhằm ứng dụng đưa các giống này ra gieo
ngoài đồng ruộng.
Kết quả thu được thể hiện ở bảng 4.2.
22
Bảng 4.2: Phản ứng của một số giống lúa đối với rầy nâu theo phương pháp trong hộp mạ của IRRI
STT Giống
Cấp gây hại sau lây nhiễm
(TB±SE)
Mức độ kháng sau lây nhiễm
Số rầy có lại trên cây sau
lây nhiễm (TB±SE)
5 ngày
TN
1
chết hết
7 ngày
5
ngày
TN
1
chết
hết
7 ngày 5 ngày
TN
1
chết hết

7 ngày
1 G4 3,8±0,24 5,5±0,20 6,8±0,15 KV NV N 1,2±1,02 0,6±0,67 0,4±0,33
2 G5 4,7±0,28 5,2±0,21 6,2±0,26 NV NV N 1,6±2,40 1,3±0,80 0,6±0,88
3 G6 4,9±0,26 5,1±0,12 6,9±0,15 NV NV N 2,2±0,88 1,4±1,20 1,0±0,58
4 G9 3,3±0,21 4,9±0,26 7,0±0,12 KV KV N 1,3±1,86 0,7±0,88 0,7±0,88
5 G13 3,7±0,49 4,1±0,73 5,3±0,24 KV KV NV 1,0±1,15 0,8±0,88 0,3±0,58
6 G14 2,9±0,23 4,1±0,15 4,5±0,23 K KV KV 1,7±0,88 1,3±1,20 1,0±0,33
7 G15 3,9±0,15 5,1±0,22 5,9±0,29 KV KV N 0,9±1,8 0,5±0,88 0,2±0,33
8 G18 4,9±0,22 5,7±0,37 6,4±0,09 NV NV N 1,4±0,88 1,0±1,20 0,8±0,33
9 G19 4,4±0,38 5,8±0,20 6,9±0,09 KV KV N 0,8±1,33 0,5±1,45 0,3±0,33
10 G20 2,7±0,09 3,8±0,18 4,4±0,20 K KV KV 0,9±1,73 0,6±0,87 0,3±0,88
11 G22 3,4±0,38 5.1±0,32 6,6±0,12 KV KV N 1,2±0,88 0,6±0,58 0,5±0,67
12 G23 4,0±0,32 4,6±0,11 5,5±0,15 KV KV NV 1,7±1,15 0,7±1,15 0,4±0,58
13 KD 4,5±0,13 5,4±0,58 6,6±0,38 KV NV N 2,7±2,19 2,1±1,15 1,7±0.53
23
Qua bảng 4.2 chúng tôi có một số nhận xét:
Kết quả thí nghiệm trong hộp mạ khá phù hợp so với kết quả trong cốc
mạ. Kết quả cho thấy sau 5 ngày lây nhiễm chỉ có hai giống có biểu hiện
kháng là G14 và G20, ba giống có biểu hiện nhiễm vừa là G5, G6, G18, tám
giống còn lại có biểu hiện nhiễm vừa, không có giống nào có biểu hiện
nhiễm đễn nhiễm nặng. Do có giống chuẩn nhiễm TN
1
nên mức độ bị hại của
các giống giảm. Cấp hại giữa các giống giao động từ 2,7±0,09 đến 4,9±0,22.
Số lượng rầy có trên cây thể hiện khả năng thích nghi của rầy đối với giống
đó, Giống KD có số lượng rầy trên cây là nhiều nhất 2,7±2,19, các giống còn
lại giao động từ 0,8±1,33 đến 2,2±0,88 con/cây. Trong phương pháp khay mạ
chúng tôi có đánh giá thêm mức độ bị hại của các giống thí nghiệm sau khi
giống chuẩn nhiễm TN
1

chết hết (khoảng 6 ngày sau khi lây nhiễm). Sau khi
giống TN
1
chết hết thì có 8 giống có biểu hiện kháng vừa là các giống G9,
G13, G14, G15, G19, G20, G22, G23, cấp hại chênh lệch nhau khá nhiều,
giao động từ 3,8±0,18 đến 5,8±0,20, năm giống có biểu hiện nhiễm vừa là
G4, G5, G6, G18, KD, không có giống nào có biểu hiện nhiễm đến nhiễm
nặng. Số rầy có trên cây giảm xuống, giữa các giống giao động từ 0,5±1,45
đến 2,1±1,15. Qua 7 ngày sau lây nhiễm thì cấp hại, mức độ kháng, số rầy có
trên cây thay đổi rất nhiều, hai giống có biểu hiện kháng vừa là G14, G20 với
cấp hại tương ứng là 4,5±0,23; 4,4±0,20, hai giống có biểu hiện nhiễm vừa là
giống G13, G23 còn lại 9 giống đều có biểu hiện nhiễm, không có giống nào
có biểu hiện nhiễm nặng.Số rầy có trên cây giảm xuống rất nhiều giao động từ
0,3±0,58 đến 1,7±0.53.
4.2. Tình hình sâu bệnh hại trên các giống lúa nghiên cứu
4.2.1. Thành phần sâu bệnh và thiên địch trên các giống lúa nghiên cứu
Thành phần sâu bệnh hại và thiên địch trên lúa rất đa dạng và phong
phú. Việc nghiên cứu chúng có ý nghĩa rât quan trọng trong công tác phòng
trừ. Ở mỗi vùng, mỗi địa phương và trên mỗi giống khác nhau thành phần sâu
bệnh hại, thiên địch là không giống nhau. Trong quá trình sản xuất lúa, nếu ta
nắm được thành phần sâu bệnh, thiên địch trên các giống lúa ở các điều kiện
canh tác khác nhau, chúng ta sẽ có sơ sở xây dựng biện pháp phòng trừ sâu
bệnh có hiệu quả, trên cơ sở xác định rõ những đối tượng sâu bệnh, thiên địch
quan trọng, phổ biến và thường xuyên gây hại trên đồng ruộng.
Qua điều tra chúng tôi ghi nhận được thành phần sâu bệnh, thiên địch và
mức độ phổ biến của chúng trên các giống lúa nghiên cứu ở bảng 4.3a và
bảng 4.3b.
24
Bảng4.3a: Thành phần sâu hại và mức độ phổ biến của chúng qua các
giai đoạn điều tra

S
T
T
Tên Việt Nam Tên khoa học
Mức độ phổ biến qua
các giai đoạn
3 lá
Đẻ
nhánh
Làm
đòng
Trổ-
chín
Sâu hại
1 Sâu cuốn lá nhỏ Cnaphalorcocis medinalis
Guenee.
0 + ++ ++
2 Sâu cuốn lá lớn Parnara guttata Bremer et
Grey
0 0 + +
3 Sâu keo Spodoptera mauritia 0 0 + 0
4 Sâu đo xanh Naranga aenescens Moore. + + 0 0
5 Rệp muội Rhopalosiphum padi + 0 0 0
6 Rầy nâu Nilarpavata lugens Stal. 0 0 + +
7 Rầy lưng trắng Sogatella furcifera
Horvarth.
0 0 + +
8 Rầy xanh đuôi
đen
Nephotettix nigropictus

Stal.
0 0 + +
9 Rệp Xanh + + 0 0
10 Bọ trĩ Phaloeothrips oryzae
Matsumura.
+ + + 0
11 Sâu đục thân 2
chấm
Tryporyza incertulas
Walker
0 + + +
Ghi chú: 0 : Không phổ biến
+ : Ít phổ biến (tần suất xuất hiện < 25%)
++ : Phổ biến (tần suất xuất hiện 25 – 50%)
+++ : Rất phổ biến (tần suất xuất hiện > 50%)
25

×