CHƯƠNG III
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
3.1. Những vấn đề cơ bản về tài chính DN
3.1.1. Bản chất, chức năng và vai trò của TCDN
•
Doanh nghiệp có thể được hiểu là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh doanh.
•
Nếu dựa vào tính chất pháp lý thì ở Việt nam theo Luật doanh nghiệp năm 2005,
có các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau:
- Doanh nghiệp tư nhân
- Công ty hợp danh
- Công ty cổ phần
- Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
•
Nếu xét trên góc độ cung cầu vốn trong nền kinh tế thì doanh nghiệp được chia
thành doanh nghiệp tài chính kinh doanh tiền tệ và doanh nghiệp phi tài chính
kinh doanh hàng hóa dịch vụ thông thường. Trong chương này chỉ đề cập đến
doanh nghiệp phi tài chính
•
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có số vốn
ban đầu để mua sắm những yếu tố cần thiết như tư liệu lao động, đối tượng lao
động và sức lao động. Trong hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường
xuyên của doanh nghiệp, các quỹ tiền tệ được hình thành, phân phối và sử dụng,
thể hiện bằng các luồng tiền đi vào và các luồng tiền tệ đi ra khỏi doanh nghiệp
tạo thành sự vận động của các luồng tài chính doanh nghiệp. Đó là biểu hiện bên
ngoài của tài chính doanh nghiệp
•
Trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp
phát sinh các quan hệ kinh tế, được gọi là các quan hệ tài chính như:
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Đó là những quan hệ phát sinh trong
quá trình các doanh nghiệp nộp các khoản thuế, lệ phí và các khoản phải nộp khác
cho Nhà nước, quan hệ về nhận tài trợ, như trợ giá, bù lỗ…,cho vay ưu đãi từ Nhà
nước cho các doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể khác thể hiện trong việc góp vốn,
vay vốn, cho vay vốn…trong việc thanh toán đối với các hoạt động mua hoặc bán tài
sản, vật tư, hàng hóa, dịch vụ…
- Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp, như quan hệ trả lương, trợ cấp, thưởng,
phạt vật chất…đối với người lao động, quan hệ thanh toán giữa các bộ phận trong
doanh nghiệp, phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, hình thành sử dụng
và sử dụng quỹ của doanh nghiệp.
3.1.1.1. Khái niệm
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn tài
chính gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong hoạt động sản
xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt tới mục tiêu nhất định.
3.1.1.2. Đặc điểm của tài chính doanh nghiệp
Là một khâu của hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp thể hiện những điểm
khác biệt với các khâu tài chính khác, thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
.
- Thứ nhất: Là khâu cơ sở của hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp gắn liền
với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong quá trình
hoạt động, sự vận động của quỹ tiền tệ đặc biệt - vốn kinh doanh – luôn gắn liền
với các yếu tố vật tư và lao động. Cùng với quỹ tiền tệ này, các quỹ tiền tệ khác
có trong doanh nghiệp luôn được tạo lập, bổ sung do kết quả sản xuất kinh
doanh mang lại và phục vụ cho chính quá trình sản xuất kinh doanh đó.
- Mọi sự vận động của các nguồn tài chính trong doanh nghiệp đều nhằm đạt tới
mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng giống như các khâu tài chính khác,
tài chính doanh nghiệp có chức năng khách quan, đó là chức năng phân phối và
chức năng giám đốc. Nhờ có chức năng phân phối mà các doanh nghiệp có khả
năng động viên khai thác và thu hút các nguồn tài chính trong nền kinh tế để
hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau khi đã hình thành vốn kinh doanh, để sử dụng vốn, một lần nữa phải có sự
tham gia của chức năng phân phối. Lúc này phân phối vốn đồng nghĩa với việc
đầu tư vốn: đầu tư bên trong hay đầu tư bên ngoài. Lợi nhuận thu được là yếu tố
quan trọng nhất, quyết định phương hướng và cách thức đầu tư của doanh
nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình kinh doanh của doanh nghiệp là thu
lợi nhuận, vì thế ngoài khả năng phân phối, tài chính doanh nghiệp còn có cả khả
năng giám sát, dự báo hiệu quả của quá trình phân phối.
•
Chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp có khả năng phát hiện những
khuyết tật trong khâu phân phối để từ đó điều chỉnh quá trình phân phối nhằm
thực hiện phương hướng, mục tiêu, chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, chức năng khách quan của tài chính doanh nghiệp phát huy
đến mức nào lại phụ thuộc vào sự nhận thức một cách tự giác và hoạt động chủ
quan của người quản lý trong khi sử dụng chức năng của tài chính. Đó chính là
vai trò của tài chính doanh nghiệp.
3.1.1.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có các vai
trò chủ yếu sau đây:
- Đảm bảo huy động đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có vốn kinh
doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện là xác định đúng đắn nhu
cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó phải
lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời
các nhu cầu vốn để hoạt động của các doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp
nhàng, liên tục với chi phí huy động vốn thấp nhất.
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát
triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc
đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn ra dự án đầu tư tối ưu; lựa chọn và huy
động nguồn vốn có lợi nhất cho hoạt động kinh doanh, bố trí cơ cấu vốn hợp lý, sử
dụng các biện pháp để tăng vòng quay của vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn
kinh doanh.
-
Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh.
Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo ra sức
mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định
giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ và thông qus hoạt động
phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ lương,
thực hiện các hợp đồng kinh tế…
- Giám sát kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực nhất
mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính mà
các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình kinh doanh
của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để từ đó đưa ra các
quyết định điều chính các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tới mục tiêu đã định.
Kết luận: Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động
trước hết là phụ thuộc vào sự nhận thức và vận dụng các chức năng của tài
chính, sau nữa còn phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài
chính doanh nghiệp và các nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài
chính doanh nghiệp
3.1.2. Tổ chức tài chính doanh nghiệp
3.1.2.1. Khái niệm
Tổ chức tài chính doanh nghiệp là việc hoạch định chiến lược về sử dụng tài chính
và hệ thống các biện pháp để thực hiện chiến lược đó nhằm đạt được mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định
3.1.2.2. Các nhân tổ ảnh hưởng đến tổ chức TCDN
+ Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp
Hình thức pháp lý của doanh nghiệp khác nhau sẽ chi phối đến việc tổ chức, huy
động vốn, quản lý vốn và phân phối kết quả kinh doanh. Chẳng hạn:
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước vốn điều lệ ban đầu có thể được ngân sách nhà nước
đầu tư toàn bộ hoặc một phần, Nhà nước quy định quản lý vốn và phân phối kết quả
kinh doanh.
+ Đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn là do chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra, cũng có
thể huy động thêm từ bên ngoài dưới hình thức đi vay nhưng không được phép phát
hành chứng khoán trên thị trường để tăng vốn. Hoạt động quản lý vốn, phân phối thu
nhập thuộc quyền của chủ doanh nghiệp.
+ Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn thì vốn diều lệ của công ty là do các thành
viên đóng góp. Trong quá trình hoạt động vốn có thể tăng lên bằng cách kết nạp
thêm thành viên mới, trích từ quỹ dự trữ hoặc đi vay bên ngoài nhưng không
được phép phát hành chứng khoán. Việc phân phối kết quả sản xuất kinh doanh
do các thành viên quyết định, mức lợi nhuận các thành viên nhận được phụ
thuộc vào vốn đóng góp…
+ Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh
Tùy theo ngành sản xuất là công nghiệp khai thác hay công nghiệp chế biến, doanh
nghiệp hoạt động sản xuất hay doanh nghiệp thương mại, dịch vụ; doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh có tính chất thời vụ hay doanh nghiệp sản xuất kinh doanh liên tục sẽ
quyết định sự khác nhau về cơ cấu vốn kinh doanh và tốc độ luân chuyển vốn của
doanh nghiệp.
+ Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới
hoạt động của doanh nghiệp như điều kiện về kinh tế, thị trường, lãi suất, cơ
sở hạ tầng của nền kinh tế, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ,
chính sách kinh tế, tài chính của Nhà nước…