Khái niệm hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong
hoạt động của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn sơ khai của hoạt động ngân
hàng, những nghiệp vụ này chỉ đơn thuần là hoạt động cất giữ các tài sản có giá nhắm
mục đích đảm bảo an toàn, và lúc này, người phải trả phí là người gửi tiền chứ không
phải là các ngân hàng, các khoản tiền chỉ được xem đơn thuần là vật được kí gửi chứ
hoàn toàn không đóng vai trò là nguồn vốn đối với các ngân hàng thương mại, tiền lúc
này không được xem là tiền tệ theo đúng nghĩa của nó, vì không có khả năng luân
chuyển, khong sinh ra được lợi nhuận. Khi nhu cầu tín dụng gia tăng, nghiệp vụ ngân
hàng phát triển, vị thế đó bị đảo ngược, ngân hàng là người phải trả phí (lãi suất – giá cả
của tín dụng), và nguồn tiền được kí gửi thay đổi vai trò của nó, trở thành nguồn vốn khả
dụng và lớn nhất của các ngân hàng thương mại hiện nay[1]. Chính vì vậy, trái ngược với
quá khứ, ngân hàng là người phải đi nài nỉ khách hàng gửi tiền. Nếu trước đây, ngân hàng
là người bị động trong quan hệ này thì hiện nay, hầu hết tất cả các ngân hàng đều có các
chính sách, phương thức để lôi kéo nguồn tiền gửi này và chính vì vậy các phương thức
huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, phong phú và đa dạng hơn. Có thể nói, hiện
nay, hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức quan trọng và liên
quan đến sự sống còn của các ngân hàng thương mại.
Xuất hiện khá lâu đời và không ngừng phát triển, thay đổi cùng với sự phát triển của các
ngân hàng thương mại, nội hàm của khái niệm hoạt động huy động vốn đã có những thay
đổi rất đáng kể, cả về quy mô và các hình thức thể hiện. Hơn nữa, gần như không tìm
được một định nghĩa hoàn thiện về hoạt động này cũng như không có được sự thống nhất
hoàn toàn giữa các quan điểm. Đặc biệt, là sự khác biệt trong cách hiểu khi đề cập vấn đề
này dưới các khía cạnh khác nhau.
Phổ biến nhất là việc sử dụng thuật ngữ này trong các khía cạnh không chuyên, đặc biệt
là ngôn ngữ thường nhật của xã hội và báo chí. Khía niệm huy động vốn được sử dụng ở
đây đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể nói là hẹp và không rõ rang
nhất, trong nhiều trường hợp có sự không thống nhất trong nội hàm của bản thân khái
niệm. Nhưng nhìn chung, phổ biến nhất, khái niệm này được dùng chủ yếu đề cập đến
một hoạt động đặc trưng nhất của các ngân hàng thương mại, đó là nhận tiền gửi và dưới
các hình thức cơ bản nhất, cụ thể là nhận tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi có và
không có kì hạn khác.
Một cách không chính thức, dưới khía cạnh kinh tế cũng có khá nhiều cách tiếp cận với
riêng khái niệm này, tuy cũng khá tương đồng nhau và phạm vi thường rộng hơn khái
niệm được đề cập ở trên nhưng nội hàm của chúng thường không đồng nhất. Cách tiếp
cận thông thường nhất hiện nay trong các nghiên cứu của các chuyên ngành kinh tế, tài
chính ngân hàng là tiếp cận khái niệm huy động vốn từ nguồn gốc của các nguồn vốn.
Chẳng hạn, nguồn vốn được chia thành vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn tiếp
nhận, vốn khác. Chính vì vậy, hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại lúc này
bao gồm cả việc khởi tạo nguồn vốn ban đầu cho sự hình thành vốn điều lệ và cả việc tạo
lập nguồn vốn cấp 2 (một bộ phận của nguồn vốn tự có) của ngân hàng thương mại.[2]
Tuy nhiên, khi nhắc đến nghiệp vụ huy động vốn của các ngân hàng thương mại, một số
tài liệu chuyên ngành đôi lúc cũng có cách tiếp cận hẹp hơn. Chẳng hạn, trong một số
giáo tài liệu giảng dạy của các trường khối kinh tế tài chính khi đề cập đến các hình thức
của ngiệp vụ huy động vốn thường chỉ bao gồm: Hình thức tiền gửi thanh toán, hình thức
tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, các hình thức tiền gửi đặc biệt khác[3]. Có thể xem
đây là một cách tiếp cận thiên về tính kinh tế và mang nặng tính nghiệp vụ nhưng thiết
nghĩ đôi lúc có khả năng gây tâm lí thiên lệch đối với các chủ thể tiếp nhận. Vẫn biết rằng
khi tiếp cận từ khía cạnh này, quan điểm của nhà nghiên cứu đang cố nhấn mạnh tính lợi
nhuận trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Có nghĩa rằng, nếu loại trừ các
hình thức khác (ví dụ như các khoản vay trong thị trường liên ngân hàng) trong việc đảm
bảo nguonf vốn, đảm bảo khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại, vô hình
chung đã bỏ qua một trong những kênh quan trọng nhất trong việc đảm bảo sự hoạt động
bình thường, an toàn của các ngân hàng.[4]
Với vai trò là một đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành khoa học pháp lí, đối với vấn đề
này, tác giả chủ động tiếp cận dưới khía cạnh pháp lí. Trong các giáo trình Luật Ngân
hàng cũng như các văn bản luật hiện nay đều chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về vấn đề
này nhưng thông qua các quy định của pháp luật cũng cho ta phần nào hình dung mọt
cách chính xác nhất nội hàm của khái niệm này. Cụ thể, tại chương 3 mục 1 Luật các Tổ
chức tín dụng quy định 4 hình thức của hoạt động huy động vốn:
1. Nhận tiền gửi
2. Phát hành giấy tờ có giá
3. Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng
4. Vay vốn của ngân hàng nhà nước
Theo triết học Mác Lê – nin, khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản
ảnh những đặc tính bản chất của sự vật, chính vì vậy, nó là “điểm nút”, là nền tang của
hoạt động tư duy. Hiểu rõ, xác định chính xác khái niệm rất quan trọng. Vì thế, trước khi
đi vào các vấn đề cụ thể, tác giả sẽ thử xác định tính hợp lí trong việc xác định nội hàm
của khái niệm hoạt động huy động vốn dưới các hình thức được liệt kê trên, có so sánh
với các quan điểm được đề cập ở trên.
Thông thường để xác định một hoạt động nào đó có thuộc một nội hàm khái niệm được
xác định trước hay không thì về cơ bản hoạt động đó phải thể hiện đầy đủ các thuộc tính
được thể hiện trong khái niệm đó. Cụ thể, trong trường hợp này muốn xác định một hoạt
động nào đó có nên được xem là một hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
hay không trước tiên cần xác định được các thuộc tính cơ bản nhất của khái niệm và
chúng sẽ được xem như là các tiêu chí để trên đó làm căn cứ cho việc xác định hoạt động
đó. Rõ rang việc liệt kê một loạt các hành vi không thể nói lên bản chất của hoạt động đó,
tuy nhiên, đối với một văn bản pháp lí thì đây lại là cách thể hiện tương đối tiện dụng và
không gây tranh cãi. Tuy nhiên, yếu điểm của phương pháp này là mang tính khiêng
cưỡng và dễ dàng bị lạc hậu khi cơ sở hạ tầng có những thay đổi. Nếu có thể đưa ra một
khái niệm thể hiện chính xác bản chất của hiện tượng rõ rang tính bền vững của quy định
sẽ lâu dài hơn. Dù phát sinh những nghiệp vụ hiện đại hơn thì nó vẵn luôn thể hiện đúng
bản chất của hoạt động đó.
Đối với khái niệm này, tác giả tiếp cận dưới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt chủ thể:
Vấn đề này đã được xác định khá cụ thể ngay trong tên của khái niệm, ở đây hành động
này đựơc giới hạn ở các chủ thể là các ngân hàng thương mại. Tuy khá rõ rang nhưng
cũng tồn tại khá nhiều những mâu thuẩn. Nếu căn cứ vào mặt chủ thể thực hiện hành vi,
rõ rang hành vi này chỉ có thể được xác định khi có sự tồn tại của một ngân hàng thương
mại. Vậy căn cứ vào khía cạnh này ta có thể khẳng định hoạt động huy động vốn nhằm
tạo lập nguồn vốn điều lệ trong giai đoạn hình thành ngân hàng thương mại không thuộc
nội hàm khái niệm này. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh này, không thể loại trừ tất cả các hoạt
động liên quan đến việc tạo lập nguồn vốn tự có của các ngân hàng, vì như đã được trình
bày ở trên, nguồn vốn này cấu thành từ rất nhiều thành phần và có thể được hình thành
qua nhiều giai đoạn, những nguồn vốn được tạo lập sau khi hình thành ngân hàng thương
mại (chẳng hạn nguồn vốn cấp 2) thì không thể bị loại trừ.
Thứ hai, về đối tượng chiụ tác động:
Vấn đề này không có quá nhiều sự tranh cãi, đó chính là nguồn vốn – tiền tệ, bởi vì đó
chính là công cụ hoạt động, là “hàng hóa”, là “phương tiện” kinh doanh của ngân hàng
thương mại, cũng giống như máy móc đối với các công xưởng. Tuy nhiên, vấn đề ở đây
chính là trước đến nay chưa từng sự phân định trong thành phần các nguồn vốn này với
mục đích xây dựng một khái niệm hoàn thiện về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại. Như đã được nhắc đến nhiều lần như ở trên, ngân hàng đầu tiên vẫn là một
doanh nghiệp, nhưng là một doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Cũng giống
như mọi doanh nghiệp thông thường khác, nó luôn có một nguồn vốn thuộc sở hứu tự
thân nó làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh của mình. Đây là nguồn vốn của doanh
nghiệp, đối với ngân hàng là nguồn vốn tự có, nó là nguồn vốn theo đúng nghĩa của nó
đối với hoạt động của một doanh nghiệp và khi này, thuật ngữ nguồn vốn đồng nghĩa với
tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên thuật ngữ nguồn vốn được để cập ở đây đối với các
ngân hàng thương mại trong trường hợp này nên được hiểu dưới một khía cạnh hoàn toàn
khác, nó không pahir là nguonf vốn mà chủ doanh nghiệp bỏ ra để kinh doanh. Ngân
hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, nếu nguồn vốn như được nói ở trên nguồn
tiền mà chủ doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư vào kinh doanh thì nguồn vốn của ngân hàng ở
đây là “hàng hóa” của ngân hàng thương mại, ngân hàng như một người cung ứng dịch
vụ, cụ thể hơn, nó giống như một đại lí, lấy “hàng hóa” – tức nguồn tiền từ nơi này (nơi
thừa tiền) để cung ứng cho nơi có nhu cầu. Tuy không có một sự hoạch toán rõ rang giữa
nguồn vốn của tự có và nguồn vốn này trong hoạt động của các ngân hàng thương mại
nhưng trên thực tế có thể nhận thấy vai trò đó được thể hiện khá rõ rang. Nguồn vốn tự
có của ngân hàng chỉ chiếm 5% - 10% nguồn vốn của ngân hàng thương mại và chủ yếu
dùng vào việc mua tài sản cố định làm cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh, lập các
quỹ dự trữ và vai trò chính yếu của nó là như vật làm tin, tạo lập niềm tin cho sự tồn tại
bền vững của nó. Việc thuật ngữ nguồn vốn được sử dụng cho cả hai loại nguồn vốn (vốn
của doanh nghiệp nói chung và vốn – như một hàng hóa của ngân hàng) vì người ta căn
cứ vào vai trò của nó đối với cả nền kinh tế nói chung, vốn hay tư bản là giá trị mang lại
giá trị thặng dư và quan trọng nhất là vì nó cùng là tiền tệ mà không quan tâm nhiều đến
vai trò thực sự của nó đối với các chủ thể sử dụng nó (một hệ quy chiếu mới). Tóm lại,
Khái niệm nguồn vốn được đề cập trong nội hàm khái niệm này là theo nghĩa thứ hai, tức
như là một “hàng hóa” của riêng các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng thương
mại nói riêng. Lúc này, hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại có thể
được hình dung một cách dễ hiểu hơn là hoạt động “tìm kiếm các nguồn hàng” cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Việc khẳng định lại khái niệm sẽ cho ta thấy rõ vì sao huy động vốn lại được xem như
một loại nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, cũng giống như các laoij hình kinh doanh
khác cũng có những nghiệp vụ riêng của mình phục vụ riêng cho hoạt động kinh doanh.
Hiểu rõ khái niệm nguồn vốn trong hoạt động huy động vốn giúp ta tiến thêm một bước
trong việc xác định khái niệm, bản chất của hoạt động huy động vốn của các ngân hàng
thương mại. Có thể khẳng định, một hoạt động chỉ có thể được xem là hoạt động huy
động vốn của ngân hàng thương mại khi nhằm mục đích thu hút, tìm kiếm, gia tăng
nguồn vốn không thuộc sở hứu của ngân hàng. Chính vì vậy, căn cứ vào tiêu chí này, các
nổ lực gia tăng nguồn vốn tự có không thuộc nhóm hành vi huy động vốn của các ngân
hàng thương mại được đề cập trong phạm vi đề tài này.
Thứ ba, về khía cạnh khách thể của hành vi, một cách trực tiếp hơn, đó chính là mục
đích, cái mà chủ thể thực hiện hành vi muốn đạt được. Mục đích chính của kinh doanh là
lợi nhuận, vai trò của nguồn vốn ngân hàng – tư bản cũng là lợi nhuận. Vì vậy, loại hình
doanh nghiệp đặc biệt này – các ngân hàng thương mại cũng hoạt động vì mục tiêu chính
là lợi nhuận, và chính vì vậy, các hoạt động “tìm kiếm nguồn hàng”, cụ thể là hoạt động
huy động vốn cũng xuất phát vì mục tiêu lợi nhuận, đây vẫn luôn là mục tiêu tiên quyết.
Tuy nhiên, không những chụi rang buộc bởi các quy định của pháp luật, rang buộc ở bản
thân vai trò mà nó nắm giữ, mà còn vì sự tốn tại của chính nó, khác biệt với các laoij hình
doanh nghiệp khác, hoạt động của nó còn hướng đến mục tiêu quan trọng không kém
chính là sự an toàn, cụ thể ở đây là đảm bảo khả năng thanh toán, đây là yêu cầu sống còn
đối với sự tồn tại của các ngân hàng thương mại và cả các đối tượng khác hoạt động
trong cùng lĩnh vực. Chính vì vậy, theo quan điểm của tác giả, xuất phát từ đặc tính của
các ngân hàng thương mại, hoạt động huy động vốn cũng đồng thời hướng đến cả 2 mục
tiêu trên. Như được đề cập ở trên, một số quan điểm, đặc biệt thuộc chuyên ngành kinh
tế, khi đề cập đến nghiệp vụ huy động vốn chỉ đề cập đến các nghiệp vụ mà mang lại hiệu
quả kinh tế còn các hoạt động huy động vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, đảm
bảo tỉ lệ an toàn tín dụng của các ngân hàng thường không đuocj đè cập. Thiết nghĩ, các
nghiệp vụ huy động vốn này (vay trên thị trường liên ngân hàng, vay ngân hàng trung
ương,…) tuy không trực tiếp mang lại lợi nhuận nhưng thực sự nó cũng đảm bảo nguồn
tiền tahnh toán cho các ngân hàng, đảm bảo cho sự hoạt động bình thường và thông suốt
của nó. Đối với các nguồn vốn này, trong một giới hạn nhất định về thòi gian, nó không
mang lại nguồn thu, thậm chí đôi khi còn âm lợi nhuận nhưng đó là yêu cầu thiết yếu và
là đặc trưng của loại hình hoạt động này. Về đặc tính, nguồn tiền này cũng được các ngân
hnagf sử dụng như một công cụ, một hàng hóa phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
mình. Sự khác biệt về chủ thể (cho vay) và vai trò mang tính tức thời của nó không làm
thay đổi bản chất của một nguồn vốn tín dụng.
Căn cứ vào tiêu chí này, có thể khẳng định việc xếp các hoạt động huy động vốn khá đặc
trưng như: vay vốn của ngân hàng nhà nước[5], vay vốn của các tổ chức tín dụng khác
vào nhóm các hoat động huy động vốn của tổ chức tín dụng là hợp lí.
Thông quan một số những phân tích trên tác giả chỉ cố xây dựng một số các tiêu chí
nhằm xác định một hoạt động có được xem là hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại hay không. Các tiêu chí này được xây dựng dụa trên bản chất của hoạt động,
hoàn toàn không căn cứ trên những thể hiện cụ thể của hành vi. Chính vì vậy, với sự phát
triển của thị trường tài chính ngày càng đa dạng và phong phú như hiện nay, dù các hình
thức thể hiện nó đa dạng, thay đổi nhanh chóng đến mức nào, vẫn có thể vận dụng làm
căn cứ để xác định.
Có thể tạm thời đưa ra định nghĩa như sau: “Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng
thương mại là hoạt động mà trong đó các ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng
từ các chủ thể khác nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó
theo đúng các quy định pháp luật”.
[1] Các nguồn tiền kí gửi hay còn gọi là các tài sản nọ của ngân hàng thương mại là
nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Các ngân hàng trên
thế giới tài sản nợ chiếm khoản từ 90% - 95% trên tổng số nguồn vốn của các ngân hàng,
đối với các ngân hàng thương mại việt nam, ti lệ này thấp hơn.
[2] Nguồn vốn cấp 2 được hình thành thông qua các thành phần như:
• 50% giá trị tăng thêm của tài sản cố định.
• 40% giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu
tư, góp vốn)
• Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành
có kì hạn ban đầu, thời hạn còn lại trước khi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông tối
thiểu là 5 năm;
• Các công cụ khác thỏa mãn điều kiện có kì hạn ban đầu tối thiểu trên 10
năm;
• Dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tổng tài sản có rủi ro.
[3] Khoa kế toán – tài chính – ngân hàng, đại học mở thành phố hồ chí minh, đề cương
hướng dẫn nghiệp vụ ngân hàng thương mại.
[4] Tác giả đề cập đến nguồn vốn từ trên thị trường liên ngân hàng (dù đây chỉ là nguồn
vốn mang tính cứu cánh hổ trợ cho các ngân hàng khi gặp những khó khăn vì thiếu tiền
mặt thanh toán tạm thưoif trong một giai đoạn rất ngắn) vì trên thực tế, các ngân hàng
muốn đảm bảo được sự ổn định của nguồn vốn này (tức sẽ vay được bất cứ khi nào ngân
hàng cần đến – dĩ nhiên là với một lãi suất hợp lí) thì luôn phải có một sự chú trọng thích
đáng. Trước đây, điều kiện để có thể tiếp cận nguồn vốn này nhanh chóng, thuân lợi
thường dựa trên mối quan hệ giao hảo giữa các ngân hàng trong những khoản thời gian
nhất định, tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, các ngân hàng khi muốn đảm bảo được sự
ổn định của nguồn vốn này cũng như muốn xây dựng một môi trường tài chính an toàn
hơn thường kí kết trước các hợp đồng tín dụng tương lai rang buộc đối tác hoặc bản thân
mình sẽ cung cấp một nguồn vốn tức thời cho một ngân hàng khi được yêu cầu và với lĩa
suất tương thích nào đó. Chính vì vậy, theo quan điểm của tác giả, đảm bảo sự ổn định
của nguồn vốn này cũng quan trọng không kém và muốn có sự đảm bảo đó cần có sự đầu
tư dài hạn và hợp lí.
[5] Vào năm … sẽ đổi tên thành ngân hàng trung ương.