TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP HCM
ĐỀ TÀI:
KHAI THÁC VÀNG
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS. Phan Thị Giác Tâm Nhóm 20
(ngày học: thứ 4, tiết: 456)
Danh sách nhóm:
Lớp MSSV TÊN
DH10GE 10173010 Trần Công Huấn
DH10KM 10143006 Nguyễn Xuân Cường
DH10KM 10143073 Trần Thị Mỹ Thoa
1
TP.HỒ CHÍ MINH, 10/2011
Lời mở đầu:
Từ thời cổ xưa, vàng được xem là một biểu tượng của quyền lực và của cải.
Trong nhiều xã hội, vàng được xem là một chất thần kỳ có khả năng che chở
con người tránh được bệnh tật và tà ma. Vào thời xưa, những tượng thần và
các ngôi đền được trang trí bằng vàng. Vàng có gì đặc biệt đến nỗi nó luôn
luôn quý giá vậy ?
Vàng là một nguyên tố kim loại . Số nguyên tử là 79. Khối lượng nguyên tử
là 197.2 .
Tính quý giá của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước tiên là tính hiếm có
của nó, kế đến là tính tiện dụng, rồi đến tính thẩm mỹ, sau cùng là tính ít bị
phản ứng hoá học đối với không khí và nước.
Vàng được dùng trong công nghiệp vì nó không bị xỉn màu, gia công được,
gần như không thể huỷ hoại, bền , có tính phản chiếu và dẫn điện. Khoảng
10% sản lượng vàng hàng năm được sử dụng cho các quy trình công nghiệp.
Vàng được tính bằng đơn vị trong ounce (31,1 gam). Một ounce có thể kéo
thành một sợi dài 80km.
Những lớp mạ vàng dày 0,000024mm được dùng để tản nhiệt từ các ống thải
khí của động cơ phản lực.
Phi thuyền không gian được bảo vệ chống lại các tia phóng xạ nhờ một lớp
vàng mỏng.
Vàng dẫn điện tốt và không bị xỉn màu nên nó được sử dụng rộng rãi trong
các máy vi tính và các vật dụng tiêu thụ điện.
Vàng pha với dầu được dùng để vẽ hoa văn trên các đồ sứ và thuỷ tinh.
Vàng cũng được dùng trong việc chế tạo ngói lợp nhà vì có tính phản quang
tốt.
Vàng được chỉ định làm thuốc trị cho nhiều loại bệnh như ung thư và viêm
2
khớp, nó cũng được sử dụng rộng rãi trong ngành nha. Vàng cũng được sử
dụng cho mục đích trang trí. Ta có thể thấy nhiều tác phẩm bằng vàng được
sáng tạo từ nhiều nền văn minh lớn của thời xa xưa.
Đồ trang sức được làm bằng vàng gồm : nhẫn, bông tai, vòng cổ, vòng đeo
tay, dây chuyền, v.v thậm chí vàng được sử dụng để trang trí trên bút máy,
bật lửa, ly tách, v.v
Đồ trang sức bằng vàng được chế tạo theo 4 tiêu chuẩn : 22,18,14 và 9 cara.
Vàng 18 cara là 18 phần vàng ròng trên 24 phần vàng, nghĩa là 18 cara
tương đương với 75 % vàng ròng. Vàng 24 cara thì quá mềm đối với hầu hết
các công dụng.
Đồng tiền vàng đầu tiên do vua Croesus xứ Lydia phát hành vào thế kỷ thứ 6
trước công nguyên. Ngày nay, vàng vẫn giữ một vai trò quan trọng trong hệ
thống tiền tệ quốc tế.
Tuy nhiên, cũng vì những lợi ích mà vàng đem lại đặc biệt là giá trị về mặt
kinh tế, trong sản xuất công nghiệp và làm trang sức của vàng rất cao. Từ
khi phát hiện được kim loại vàng có trong tự nhiên và nhận biết được giá trị
của nó nên con người rất chú trọng và đẩy mạnh khai thác kim loại quý này.
Hiện nay ở Việt Nam việc khai thác vàng diễn ra hết sức phức tạp. bên cạnh
những doanh nghiệp khai thác vàng đúng quy định còn xuất hiện những cá
nhân, tổ chức khai thác trái phép tạo ra nhiều bất cập và hệ lụy đến môi
trường cũng như ảnh hưởng đến kinh tế và các vấn đề chính trị, xã hội,
Bất cập không chỉ dừng lại ở câu chuyện tổn thất tài nguyên và nguồn thu
ngân sách mà hệ lụy từ việc cấp phép khai thác khoáng sản tràn lan cũng
khiến nhiều hộ gia đình điêu đứng vì thiếu hoặc mất hẳn đất sản xuất. Phần
lớn các mỏ khai thác tại một số địa phương chưa xây dựng bãi thải theo
đúng quy định, gây bồi lấp dòng chảy, ruộng vườn; làm thu hẹp diện tích đất
lâm nghiệp; gây hỏng cầu cống, đường sá… Một số ít doanh nghiệp tuy thực
hiện đền bù hoặc đưa máy móc vào dọn dẹp đất thải nhưng nhiều vướng mắc
vẫn chưa ngớt phát sinh, liên quan trực tiếp đến việc bồi thường và cải tạo
đất.
Từ đó chúng ta cần phải giải quyết bài toán cấp bách này như thế nào là hợp
lí nhất.
3
1.Giá trị của vàng (sử dụng và ứng dụng) 5
4
1.Giá trị của vàng (sử dụng và ứng dụng)
1.1.Trao đổi tiền tệ
Vàng đã được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới như một phương tiện
chuyển đổi tiền tệ, hoặc bằng cách phát hành và công nhận các đồng xu
vàng hay các số lượng kim loại khác, hay thông qua các công cụ tiền giấy có
thể quy đổi thành vàng bằng cách lập ra bản vị vàng theo đó tổng giá trị tiền
được phát hành được đại diện bởi một lượng vàng dự trữ.
Tuy nhiên, số lượng vàng trên thế giới là hữu hạn và việc sản xuất không gia
tăng so với nền kinh tế thế giới. Ngày nay, sản lượng khai thác vàng đang
sụt giảm. Với sự tăng trưởng mạnh của các nền kinh tế trong thế kỷ 20, và
sự gia tăng trao đổi quốc tế, dự trữ vàng thế giới và thị trường của nó đã trở
thành một nhánh nhỏ của toàn bộ các thị trường và các tỷ lệ trao đổi tiền tệ
cố định với vàng đã trở nên không thể duy trì. Ở đầu Thế chiến I các quốc
gia tham gia chiến tranh đã chuyển sang một bản vị vàng nhỏ, gây lạm phát
cho đồng tiền tệ của mình để có tiền phục vụ chiến tranh. Sau Thế chiến
II vàng bị thay thế bởi một hệ thống tiền tệ có thể chuyển đổi theo hệ thống
Bretton Woods. Bản vị vàng và tính chuyển đổi trực tiếp của các đồng tiền
sang vàng đã bị các chính phủ trên thế giới huỷ bỏ, bị thay thế bằng tiền
giấy. Thuỵ Sĩ là quốc gia cuối cùng gắn đồng tiền của mình với vàng; vàng
hỗ trợ 40% giá trị của tiền cho tới khi Thuỵ Sĩ gia nhậpQuỹ Tiền tệ Quốc
tế năm 1999.
Vàng nguyên chất quá mềm để có thể được sử dụng như tiền tệ hàng ngày
và nó thường được làm cứng thêm bằng cách thêm đồng, bạc hay các loại
kim loại cơ sở khác. Hàm lượng vàng trong hợp kim được xác định
bằng cara (k). Vàng nguyên chất được định danh là 24k. Các đồng xu vàng
được đưa vào lưu thông từ năm 1526 tới thập niên 1930 đều là hợp chất
vàng tiêu chuẩn 22k được gọi là vàng hoàng gia, vì độ cứng.
1.2.Đầu tư
Nhiều người sở hữu vàng và giữ chúng dưới hình thức các thỏi nén
hay thanh như một công cụ chống lại lạm phát hay những đợt khủng hoảng
kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế không tin việc giữ vàng là một công
cụ chống lạm phát hay mất giá tiền tệ.
5
Mã tiền tệ ISO 4217 của vàng là XAU.
Các thỏi vàng hiện đại cho mục đích đầu tư hay cất trữ không yêu cầu các
tính chất cơ khí tốt; chúng thường là vàng nguyên chất 24k, dù American
Gold Eagle, gold sovereign của Anh, vàKrugerrand của Nam Phi tiếp tục
được đúc theo chất lượng 22k theo truyền thống. Đồng xu Canadian Gold
Maple Leaf phát hành đặc biệt có chứa lượng vàng nguyên chất cao nhất so
với bất kỳ thỏi vàng nào, ở mức 99.999% hay 0.99999, trong khi đồng xu
Canadian Gold Maple Leaf phát hành phổ thông có độ nguyên chất 99.99%.
Nhiều đồng xu vàng nguyên chất 99.99% khác cũng có trên thị trường.
Australian Gold Kangaroos lần đầu tiên được đúc năm 1986 như Australian
Gold Nugget. Chủ đề kangaroo của nó xuất hiện năm 1989. Ngoài ra, có
nhiều đồng xu thuộc serie Australian Lunar Calendar, và Austrian
Philharmonic. Năm 2006, United States Mint bắt đầu sản xuất đồng xu
vàng American Buffalo với độ nguyên chất 99.99%.
1.3.Nữ trang
Vì tính mềm của vàng nguyên chất (24k), nó thường được pha trộn với các
kim loại căn bản khác để sử dụng trong công nghiệp nữ trang, làm biến đổi
độ cứng và tính mềm, điểm nóng chảy, màu sắc và các đặc tính khác. Các
hợp kim với độ cara thấp, thường là 22k, 18k, 14k hay 10k, có chứa nhiều
đồng, hay các kim loại cơ bản khác, hay bạc hay palladium hơn trong hỗn
hợp. Đồng là kim loại cơ sở thường được dùng nhất, khiến vàng có màu đỏ
hơn. Vàng 18k chứa 25% đồng đã xuất hiện ở đồ trang sức thời cổ đại và đồ
trang sức Nga và có kiểu đúc đồng riêng biệt, dù không phải là đa số, tạo
ra vàng hồng. Hợp kim vàng-đồng 14k có màu sắc gần giống một số hợp
kim đồng, và cả hai đều có thể được dùng để chế tạo các biểu trưng cho cảnh
sát và các ngành khác. Vàng xanh có thể được chế tạo bởi một hợp kim
với sắt và vàng tía có thể làm bằng một hợp kim với nhôm, dù hiếm khi
được thực hiện trừ khi trong trường hợp đồ trang sức đặc biệt. Vàng xanh
giòn hơn và vì thế khó chế tác hơn trong ngành trang sức. Các hợp kim vàng
18 và 14 carat chỉ pha trộn với bạc có màu xanh-vàng nhất và thường được
gọi là vàng xanh. Các hợp kim vàng trắng có thể được làm
với palladium hay nickel. Vàng trắng 18 carat chứa 17.3% nickel, 5.5% kẽm
và 2.2% đồng có màu bạc. Tuy nhiên, nickel là chất độc, và độ giải phóng
của nó bị luật pháp quản lý ở châu Âu. Các loại hợp kim vàng trắng khác
cũng có thể thực hiện với palladium, bạc và các kim loại trắng khác, nhưng
các hợp kim palladium đắt hơn các hợp kim dùng nickel. Các hợp kim vàng
6
trắng có độ nguyên chất cao có khả năng chống ăn mòn hơn cả bạc nguyên
chất hay bạc sterling. Hội tam điểm Nhật Mokume-gane đã lợi dụng sự
tương phản màu sắc giữa màu sắc các hợp kim vàng khi dát mỏng để tạo ra
các hiệu ứng kiểu thớ gỗ.
1.4.Y tế
Thời Trung Cổ, vàng thường được xem là chất có lợi cho sức khoẻ, với niềm
tin rằng một thứ hiếm và đẹp phải là thứ tốt cho sức khoẻ. Thậm chí một
số người theo chủ nghĩa bí truyền và một số hình thức y tế thay thế khác coi
kim loại vàng có sức mạnh với sức khoẻ. Một số loại muối thực sự có tính
chất chống viêm và đang được sử dụng trong y tế để điều trị chứng viêm
khớp và các loại bệnh tương tự khác. Tuy nhiên, chỉ các muối và đồng vị
của vàng mới có giá trị y tế, khi là nguyên tố (kim loại) vàng trơ với mọi hoá
chất nó gặp trong cơ thể. Ở thời hiện đại, tiêm vàng đã được chứng minh là
giúp làm giảm đau và sưng do thấp khớp và lao.
Các hợp kim vàng đã được sử dụng trong việc phục hồi nha khoa, đặc biệt là
răng, như thân răng và cầu răng vĩnh viễn. Tính dễ uốn của các hợp kim
vàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo bề mặt kết nối răng và có được các
kết quả nói chung tốt hơn các loại khác làm bằng sứ. Việc sử dụng thân răng
vàng với các răng có số lượng nhiều như răng cửa đã được ưa chuộng ở một
số nền văn hoá nhưng lại không được khuyến khích ở các nền văn hoá khác.
Sự pha chế vàng keo (chất lỏng gồm các phân tử nano vàng) trong nước có
màu rất đỏ, và có thể được thực hiện với việc kiểm soát kích cỡ các phân tử
lên tới một vài phần chục nghìn nanomét bằng cách giảm vàng chloride với
7
các ion citrate hay ascorbate. Vàng keo được sử dụng trong nghiên cứu y
khoa, sinh học và khoa học vật liệu. Kỹ thuật miễn dịch vàng (immunogold)
khai thác khả năng của các phần tử vàng hấp thụ các phân tử protein lên các
bên mặt của chúng. Các phần tử vàng keo được bao phủ với các kháng thể
riêng biệt có thể được dùng để phát hiện sự hiện diện và vị trí của các kháng
nguyên trên bề mặt của tế bào. Trong các phần siêu mỏng của mô được quan
sát bởi kính hiển vi electron, các đoạn immunogold xuất hiện với mật độ cực
lớn bao quanh các điểm ở vị trí của kháng thể. Vàng keo cũng là hình thức
vàng được sử dụng như sơn vàng trong ngành gốm sứ trước khi nung.
Vàng, hay các hợp kim của vàng và palladium, được áp dụng làm lớp dẫn
cho các mẫu sinh học và các vật liệu phi dẫn khác như plastics và kính để
được quan sát trong một kính hiển vi electron quét. Lớp phủ, thường được
tạo bởi cách thổi với một argon plasma, có ba vai trò theo cách ứng dụng
này. Tính dẫn điện rất cao của vàng dẫn điện tích xuống đất, và mật độ rất
cao của nó cung cấp năng lượng chặn cho các electron trong chùm electron,
giúp hạn chế chiều sâu chùm electron xâm nhập vào trong mẫu. Điều này cải
thiện độ nét của điểm và địa hình bề mặt mẫu và tăng độ phân giải không
gian của hình ảnh. Vàng cũng tạo ra một hiệu suất cao của các electron thứ
hai khi bị bức xạ bởi một chùm electron, và các electron năng lượng thấp đó
thường được dùng làm nguồn tín hiệu trong kính hiển vi quét electron.
Đồng vị vàng-198, (bán rã 2.7 ngày) được dùng trong một số phương pháp
điều trị ung thư và để điều trị một số loại bệnh.
1.5.Công nghiệp
Hàn vàng được dùng để gắn kết các thành phần vàng trang sức bằng chất
hàn cứng nhiệt độ cao hay đồng thau. Nếu công việc đòi hỏi chất
lượng chứng nhận, vàng hàn phải có cùng trọng lượng carat, và công thức
hợp kim được chế tạo theo hầu hết tiêu chuẩn trọng lượng carat công nghiệp
màu sắc đáp ứng vàng vàng và trắng. Hàn vàng thường được thực hiện ở ít
nhất ba điểm nóng chảy được gọi là Dễ, Trung bình và Khó. Bằng cách sử
dụng mức khỏ, ban đầu đưa nó tới điểm nóng chảy, tiếp đó người hàn sẽ dần
hạ thấp điểm nóng chảy, thợ vàng có thể lắp ráp các đồ vật phức tạp với
nhiều điểm hàn riêng biệt.
Vàng có thể được chế tạo thành sợi chỉ và được dùng trong thêu thùa.
Vàng mềm và có thể uốn, có nghĩa nó có thể được chế tạo thành sợi dây rất
mỏng và có thể được dát thành tấm rất mỏng gọi là lá vàng.
8
Vàng tạo màu đỏ sâu khi được dùng làm tác nhân màu trong ngành thuỷ
tinh.
Trong chụp ảnh, các chất liệu màu bằng vàng được dùng để chuyển đổi màu
của các điểm trắng và đen trên giấy ảnh thành màu xám và xanh, hay để tăng
sự ổn định của chúng. Được dùng trong in tông nâu đỏ, chất màu vàng tạo ra
các tông đỏ. Kodak đã công bố các công thức cho nhiều kiểu tông màu từ
vàng, sử dụng vàng như chloride.
Bởi vàng là một chất phản xạ tốt với bức xạ điện từ như hồng ngoại và ánh
sáng nhìn thấy được cũng như các sóng radio, nó được dùng làm lớp phủ
bảo vệ cho nhiều vệ tinh nhân tạo, trong các tấm bảo vệ nhiệt hồng ngoại và
mũ của các nhà du hành vũ trụ và trên các máy bay chiến tranh điện
tử nhưEA-6B Prowler.
Vàng được dùng như lớp phản xạ trên một số đĩa CD công nghệ cao.
Ô tô có thể sử dụng vàng để tản nhiệt. McLaren sử dụng vàng lá trong
khoang động cơ model F1 của mình.\
Vàng có thể được sản xuất mỏng tới mức nó dường như trong suốt. Nó được
dùng trong một số cửa sổ buồng lái máy bay để làm tan băng hay chống
đóng băng bằng cách cho một dòng điện chạy qua đó. Nhiệt tạo ra bởi kháng
trở của vàng đủ để khiến băng không thể hình thành.
1.6.Điện tử
Sự tập trung các electron tự do trong kim loại vàng là 5.90×1022 cm−3.
Vàng có tính dẫn điện rất cao, và đã được dùng làm dây dẫn điện trong một
số thiết bị tiêu thụ nhiều điện năng (bạc thậm chí có độ dẫn điện trên thể tích
cao hơn, nhưng vàng có ưu điểm chống ăn mòn). Ví dụ, các dây dẫn điện
bằng vàng đã được sử dụng trong một số thực nghiệm nguyên tử thuộc Dự
án Manhattan, nhưng những dây dẫn bạc dòng lớn cũng được sử dụng trong
các nam châm tách đồng vị calutron của dự án này.
Dù vàng bị chlorine tự do tấn công, tính dẫn điện tốt của nó và khả năng
chống ôxi hoá và ăn mòn nói chung trong các môi trường khác (gồm cả khả
năng kháng axít không chlorine) đã khiến nó được sử dụng rộng rãi trong
công nghiệp điện tử bởi chỉ một lớp phủ vàng mỏng có thể đảm bảo kết nối
điện mọi dạng, vì thế đảm bảo độ kết nối tốt. Ví dụ, vàng được dùng làm
thiết bị nối của các dây dẫn điện đắt đỏ, như audio, video và cáp USB. Lợi
ích của việc sử dụng vàng làm kim loại kết nối so với kim loại khác
9
như thiếc đang bị tranh luận dữ dội. Các kết nối vàng thường bị các chuyên
gia nghe nhìn chỉ trích là không cần thiết với hầu hết khách hàng và bị coi
chỉ đơn giản là một trò marketing. Tuy nhiên, việc sử dụng vàng trong các
thiết bị điện tử kiểu trượt khác trong các môi trường rất ẩm ướt và ăn mòn,
và cho các tiếp xúc với chi phí hư hỏng lớn (một số máy tính, thiết bị thông
tin, tàu vũ trụ, động cơ máy bay phản lực) vẫn rất phổ biến. Bên cạnh tiếp
xúc điện kiểu trượt, vàng cũng được dùng trong tiếp xúc điện bởi nó có khả
năng kháng ăn mòn, độ dẫn điện, mềm và không độc. Các công tắc kiểu bấm
nói chung dễ bị ăn mòn hơn công tắc trượt. Các dây dẫn bằng vàng mỏng
được dùng để kết nối các thiết bị bán dẫn với gói thiết bị của chúng qua một
quá trình được gọi là kết nối dây
1.7.Hoá học
Vàng bị tấn công và hoà tan trong các dung dịch kiềm hay natri cyanide, và
cyanide vàng là chất điện phân được dùng trong kỹ thuật mạ điện vàng lên
các kim loại cơ sở và kết tủa điện. Các dung dịch vàng chloride (chloroauric
acid) được dùng để chế tạo vàng keo bằng cách khử
với citrate hay ascorbate ions. Vàng chloride và vàng oxide được dùng để
chế tạo thuỷ tinh màu đỏ hay thuỷ tinh có giá trị cao, mà, như chất lỏng keo
vàng, có chứa các phân tử nanovàng với kích cỡ đồng đều.
1.8.Đơn vị đo lường
Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, khối lượng của vàng được tính theo đơn
vị là cây (lượng hay lạng) hoặc chỉ. Một cây vàng nặng 37,50 g. Một chỉ
bằng 1/10 cây vàng.
Trên thị trường thế giới, vàng thường được đo lường theo hệ thống khối
lượng troy, trong đó 1 troy ounce (ozt) tương đương 31,103 476 8 g.
Tuổi (hay hàm lượng) vàng được tính theo thang độ K (Karat). Một Karat
tương đương 1/24 vàng nguyên chất. Vàng 99,99% tương đương với 24K.
Khi ta nói tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng trong
mẫu xấp xỉ 75%. Hiện nay ở Việt Nam người ta thường kinh doanh vàng
dưới dạng các bánh, thỏi, nhẫn, dây chuyền, vòng, lắc với hàm lượng vàng
chủ yếu là 99,999% hay 99,99%, 99,9%, 99% hay 98%. Vàng dùng trong
ngành trang sức thông thường còn gọi là vàng tây có tuổi khoảng 18K.
10
1.9.Thực phẩm và đồ uống
Vàng có thể được sử dụng trong thực phẩm và có số E 175. Vàng lá, bông
hay bụi được dùng trên và trong một số thực phẩm cho người sành ăn, đáng
chú ý nhất là các đồ bánh kẹo và đồ uống như thành phần trang trí. Vàng lá
đã được giới quý tộc thời châu Âu Trung Cổ sử dụng như một thứ đồ trang
trí cho thực phẩm và đồ uống, dưới dạng lá, bông hay bụi, hoặc để thể hiện
sự giàu có của chủ nhà hay với niềm tin rằng một thứ có giá trị và hiếm sẽ có
lợi cho sức khoẻ con người. Lá vàng và bạc thỉnh thoảng được dùng trong
các đồ bánh kẹo ở Nam Á như barfi. Goldwasser (nước vàng) là một đồ
uống thảo mộc truyền thống được sản xuất tại Gdańsk, Ba Lan,
và Schwabach, Đức, và có chứa những bông vàng lá. Cũng có một số loại
cocktail đắt giá (~$1000) có chứa bông vàng lá. Tuy nhiên, bởi vàng kim
loại trơ với mọi chất hoá học trong cơ thể, nó không mang lại hương vị cũng
không có hiệu quả dinh dưỡng nào và không làm thay đổi gì cho cơ thể.
Bánh vòng Bagel của đầu bếp Frank Tujague
2.Trữ lượng vàng ở Việt Nam
Vùng đất trên địa phận Việt Nam gần mỏ vàng ở Okvau, tỉnh Mondulkiri,
Campuchia cũng có triển vọng khai thác vàng.
Khu vực của mỏ vàng này giáp với khu vực Tây Nguyên của Việt Nam
“Đối với Việt Nam, có thể khẳng định dọc biên giới với Lào và Campuchia
rất có triển vọng về vàng. Như Quảng Nam, Sa Thầy - Kon Tum rất nhiều
11
nơi đã tìm thấy vàng” – ông Giang chia sẻ. Về khu vực có trữ lượng vàng
nhiều nhất Việt Nam, ông Giang cho biết đó là vùng Bồng Miêu (Tam Lãnh,
Phú Ninh, Quảng Nam). Khu vực miền núi thuộc dãy Trường Sơn Đông từ
Thừa Thiên - Huế đến Khâm Đức (Phước Sơn, Quảng Nam), Sa Thầy - Kon
Tum cũng có nhiều triển vọng về nguồn kim loại quý giá này. Vàng: Hà
trữ lượng khoảng 100 tấn .
Trữ lượng :
Bắc Cạn : Sau nhiều năm tìm kiếm, thăm dò trữ lượng vàng tại 6/8 huyện,
thị xã của tỉnh Bắc Kạn gồm huyện Ngân Sơn, Ba Bể, Na Rì, Chợ Mới, Pác
Nặm, Bạch Thông, các cơ quan chức năng đã xác định được 17 mỏ, điểm
quặng có vàng gốc, vàng sa khoáng với trữ lượng khoảng 30 tấn.
Theo các tài liệu thu thập được, 7 điểm vàng lớn tập trung tại huyện Ngân
Sơn, trong đó mỏ vàng gốc Pác Lạng xã Thượng Quang vẫn được đánh giá
nhiều vàng nhất, với trữ lượng khoảng 22,260 tấn.
Huyện Na Rì có 3 điểm vàng sa khoáng tập trung dọc theo dòng sông ngầm
dưới dãy núi đá vôi, phun chảy từ khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ ra sông
Bắc Giang thuộc địa phận các xã Kim Hỷ, Lương Thượng, Tân An, Lương
Thành có trữ lượng khoảng 5,694 tấn
Hà Giang : điểm quặng vàng trên diện tích 19,57ha tại thôn Nà Diềm và
thôn Nậm Thổm, xã Linh Hồ, huyện Vị Xuyên.
Cụ thể là Điểm vàng gốc thôn Hồng Thái, xã Việt Hồng, huyện Bắc Quang;
Điểm vàng gốc, vàng sa khoáng Ngòi Kim thuộc các thôn Kim Thượng,
thôn Kim, thôn Kim Tràng, xã Tiên Kiều, huyện Bắc Quang; Điểm vàng
gốc, vàng sa khoáng thôn Hạ Sơn, xã Vĩ Thượng và thôn Khun, xã Bằng
Lang, huyện Quang Bình; Điểm vàng gốc, sa khoáng Bản Tại, xã Niêm Sơn,
huyện Mèo Vạc; Điểm vàng sa khoáng sông Nhiệm, thuộc xã Niêm Toòng,
xã Niêm Sơn, huyện Mèo Vạc.
Quảng Nam: Hai mỏ vàng tại Quảng Nam có trữ lượng gần 20 tấn
12
Một số mỏ vàng có trữ lượng lớn đang được khai thác như Bồng Miêu có trữ
lượng khoảng 12,4 tấn và Đăk Sa có trữ lượng khoảng 7,2 tấn.
3.Hiện trạng khai thác, tiềm năng phát triển
3.1.Khai thác đúng qui định:
Đầu tháng 2 vừa qua, Công ty Olympus Pacific (OPM - Canada) đã đầu tư
thêm 25 triệu USD để nâng cấp và xây dựng, phát triển khai thác vàng tại
VN.
OPM là doanh nghiệp nước ngoài (DNNN) duy nhất hiện nay được OPM
đang khai thác 2 mỏ vàng gồm Bồng Miêu và Phước Sơn tại tỉnh Quảng
Nam với vốn đầu tư 80 triệu USD. Khoản vốn đầu tư mới sẽ được giải ngân
trong năm 2011 nhằm nâng cấp nhà máy, xây dựng công trình xử lý chất thải
để nâng sản lượng khai thác từ 45.000 ounce vàng nguyên liệu hiện nay lên
khoảng 75.000 ounce trong năm 2011 này
Câu hỏi đặt ra là, tại sao lĩnh vực khai thác vàng tại VN vẫn chưa hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài? Theo ông Nguyễn Văn Thuấn, những quy định
khác về thuế, thủ tục, cơ sở hạ tầng còn yếu, nguồn nhân lực thấp… sẽ tiếp
tục là những rào cản cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Ông Nguyễn
Văn Thuấn thừa nhận bản thân Công ty OPM đã hoạt động lâu, trữ lượng
vàng được khai thác hằng năm khá lớn, nhưng về thực tế do có nhiều khó
khăn, nên hoạt động không sinh lời nhiều.
13
Đó là chưa kể, hiện VN chỉ mới có một số đề án nghiên cứu trữ lượng vàng
quốc gia một cách đơn lẻ, cơ bản công tác điều tra đánh giá vàng từ lâu đã
không được triển khai vì vốn quá lớn. Vì vậy công tác thăm dò, nghiên cứu
trữ lượng vàng quốc gia đã ngừng 10 năm nay. Mọi số liệu về trữ lượng
vàng bây giờ đều khó chính xác, chỉ là phỏng đoán. Công ty đã được UBND
tỉnh Hà Giang cho phép khai thác vàng tại một số nơi Cụ thể là Điểm vàng
gốc thôn Hồng Thái, xã Việt Hồng, huyện Bắc Quang; Điểm vàng gốc, vàng
sa khoáng Ngòi Kim thuộc các thôn Kim Thượng, thôn Kim, thôn Kim
Tràng, xã Tiên Kiều, huyện Bắc Quang; Điểm vàng gốc, vàng sa khoáng
thôn Hạ Sơn, xã Vĩ Thượng và thôn Khun, xã Bằng Lang, huyện Quang
Bình; Điểm vàng gốc, sa khoáng Bản Tại, xã Niêm Sơn, huyện Mèo Vạc;
Điểm vàng sa khoáng sông Nhiệm, thuộc xã Niêm Toòng, xã Niêm Sơn,
huyện Mèo Vạc.
Có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam được cấp giấy phép khai thác vàng
nhưng lại không chấp hành nghiêm chỉnh các điều khoản trong giấy phép về
môi trường củng như an toàn lao động: ví dụ điển hình như công ty TNHH
Thương mại Đức Nghĩa được tỉnh cấp phép khai thác vàng tại xã Ân Tường
Tây trên diện tích 11,4 ha với thời hạn chín năm, bắt đầu từ tháng 9-2011.
Nhưng khi khai thác vàng gây sạt lở đất đá xuống các khu dân cư và ô nhiễm
môi trường. Nguyên do bãi đào vàng chỉ cách khu dân cư gần 2 km, nằm
trên khu vực núi có độ dốc lớn; khu vực khai thác vàng gần sông Kim Sơn
nên có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước. Dù chỉ mới bắt đầu khai thác
nhưng những cơn mưa lớn gần đây đã làm đất đá tràn xuống ruộng lúa của
người dân thôn Phú Hữu 1, xã Ân Tường Tây…
3.2.Khai thác trái phép:
Hiện giờ khai thác vàng tại Việt Nam chủ yếu là trái phép hoặc có giấy phép
cũng rất “ mập mờ” về pháp lí.
Những nơi khai thác vàng trái phép “Nóng”
3.2.1.Bắc Kạn:
Huyện Ngân Sơn, Ba Bể, Na Rì, Chợ Mới, Pác Nặm, Bạch Thông Đầu tháng
Năm vừa qua, cơ quan chức năng tỉnh đã ra quân truy quét và xử lý 4 máy
xúc của 3 đối tượng khai thác vàng trái phép, mỗi đối tượng vi phạm bị phạt
80 triệu đồng. Đồng thời, Ủy ban Nhân dân tỉnh còn quyết định phạt 6 đối
tượng có vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản tại huyện Ngân Sơn,
14
mỗi đối tượng 70 triệu đồng và tịch thu 8 máy xúc.
Tuy địa phương đã mạnh tay xử lý các vụ vi phạm song trên thực tế người
khai thác vàng trái phép tại đây vẫn không chịu bỏ cuộc, vì mức phạt cao
nhất hiện nay là 80 triệu đồng chưa đủ sức mạnh răn đe và không đáng kể so
với lợi ích họ có được từ khai thác trái phép tài nguyên. Do đó, cần phải có
chế tài đủ mạnh để loại bỏ tận gốc nạn khai thác tài nguyên khoáng sản trên
địa bàn tỉnh Bắc Kạn./.
trạng khai thác vàng trái phép trong Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ diễn ra
suốt từ năm 1986 đến nay vẫn chưa dẹp bỏ được. Mỗi lần chính quyền tổ
chức truy quét tình hình tạm lắng xuống sau đó lại bùng phát dữ dội hơn.
Nạn khai thác trái phép này đã tàn phá nguồn tài nguyên khoáng sản, tàn phá
môi trường, gây khó khăn cho công tác quản lý.
3.2.2.Lai Châu:
Họ tranh thủ trước mùa lũ về, bởi sau mùa lũ này nước thủy điện Sơn La
ngập đến thì không thể hoạt động được nữa. Điều đáng nói ở đây là đa số
các chủ tàu và người dân khai thác vàng trên các lưu vực sông suối là khai
thác trái phép; hoặc đã có phép nhưng đã hết hạn. Mặc dù chưa được cấp lại,
các cơ quan chức năng đã kiểm tra và đình chỉ mọi hoạt động, chính quyền
địa phương nhắc nhở… song hàng loạt tàu vàng dọc sông Đà, sông Nậm Na
vẫn ngang nhiên hoạt động.
15
Tàu khai thác vàng trên Sông Đà (thuộc huyện mường Tè).
Tuyến QL12 chạy dọc sông Nậm Na chúng tôi quan sát có hàng chục tàu
khai thác hoạt động ngang nhiên trên hàng chục cây số, qua kiểm tra của
Công an huyện Sìn Hồ trên lưu vực sông từ xã Chăn Nưa đến xã Pa Tần có
đến 30 tàu khai thác và 100% tàu này đều hoạt động không phép hoặc có
phép nhưng đã hết hạn. Tại huyện Mường Tè, theo số liệu của Phòng Tài
nguyên và Môi trường toàn huyện hiện có 36 tàu khai thác vàng sa khoáng
dọc sông Đà. Số tàu vàng trên đã được cấp giấy phép khai thác nhưng đến
thời điểm cuối tháng 11/2010, giấy phép của các tàu này đều hết hạn, nghĩa
là các tàu này phải dừng hoạt động nhưng các tàu vẫn ngang nhiên hoạt
động khai thác vàng hết công suất cả ngày lẫn đêm.
Ngày 13/3/2011, Phòng Cảnh sát môi trường Công an tỉnh Lai Châu đã phát
hiện 5 tàu của Đặng Minh Giang – 39 tuổi, trú tại phường Sông Đà, thị xã
Mường Lay, tỉnh Điện Biên khai thác vàng trái phép và đề xuất UBND tỉnh
ra quyết định xử phạt hành chính 60 triệu đồng nhưng dường như cũng chỉ
"như muối bỏ biển". Số tàu khai thác vàng trái phép ở địa bàn Mường Tè
tăng là do sau khi đóng cửa số 1 của Nhà máy Thủy điện Sơn La, nước ở
khu vực dưới dâng cao, nhiều tàu khai thác vàng phải di chuyển lên nhưng
không hề báo với chính quyền địa phương; trong khi đó một số người đứng
đầu đơn vị, doanh nghiệp khai thác cho rằng họ đã đình chỉ và yêu cầu tất cả
các tàu khai thác của đơn vị ngừng hoạt động chờ giấy phép, mỗi tàu đơn vị
chỉ để một số người ở lại trông tàu, có thể người trông tàu tự ý nổ máy cho
tàu hoạt động. Họ hứa sẽ cho người đi kiểm tra lại và sẽ xử lý nghiêm những
ai vi phạm quy định của công ty…
Ngoài hai dòng sông trên thì trên các suối nhỏ, hoạt động khai thác vàng trái
phép hiện cũng đang khá "nóng". Điển hình như ở các suối thuộc xã Noong
Hẻo, huyện Sìn Hồ, những năm gần đây, dù mới chỉ có một hai đơn vị được
cơ quan chức năng cấp giấy phép thăm dò khai thác. Nhiều đơn vị, cá nhân
không phép khác và hàng trăm người dân địa phương với các trang thiết bị
thô sơ, hiện đại đổ về suối Noong Hẻo, xã Noong Hẻo (huyện Sìn Hồ) ngang
nhiên khai thác.
Suốt chiều dài gần chục km dọc suối, máy nổ, máy xúc hoạt động ngày đêm
với hàng chục lán bạt dựng tạm cùng trang thiết bị máy múc, máy bơm
nước, máng đãi làm dòng suối biến dạng, những khối đất, đá khổng lồ do
16
máy đào lên. Nguy hiểm hơn là sau khi đào bới hết dưới lòng suối, người
dân đã bạt núi, đào bới lên ruộng bậc thang.
Người dân đãi vàng trên suối Noong Hẻo (Sìn Hồ).
( theo Đình Thuấn báo CAND)
3.2.3.Cao Bằng:
Theo kết quả kiểm tra của đoàn công tác Chi cục bảo vệ môi trường tỉnh Cao
Bằng, hiện tình hình khai thác vàng trái phép trên địa bàn ba xã miền Tây
của huyện Thạch An vẫn diễn biến phức tạp và chưa được xử lý tận gốc.
Suốt dọc tuyến đường từ Pác Piều, Pác Mười, Pác Duốc thuộc xã Canh Tân;
Nà Xèng, Nà Đoỏng ở xã Minh Khai đến Nà Mu, Nà Cọn, Pò Pẩu của xã
Quang Trọng có hơn 20 điểm đang khai thác vàng trái phép với 10 chiếc
máy múc, hằng trăm đầu bơm các loại nổ máy ầm ĩ.
Trong đó, địa bàn nóng nhất là tại xã Canh Tân. Chỉ riêng ba xóm Pác Piều,
Pác Mười, Pác Duốc đã có tới 10 điểm đang khai thác trái phép với bảy
chiếc máy múc đang hoạt động. Cá biệt, như tại một điểm khai thác trái phép
ở gần cầu Pác Duốc, xã Canh Tân có tới ba chiếc máy múc đang hoạt động.
Các đối tượng đã ngăn cả dòng sông Hiến chạy qua khu vực này để tổ chức
khai thác vàng sa khoáng trái phép.
17
Tại địa bàn xóm Pò Pẩu, xã Quang Trọng mặc dù chỉ cách trụ sở Ủy ban
Nhân dân xã vài trăm mét, nhưng vẫn có một điểm với khoảng gần chục
người đang khai thác trái phép ngay trên lòng suối.
Theo phản ánh của người dân địa phương, tình trạng khai thác vàng trái
phép xảy ra đã gần một tháng. Những đối tượng này chỉ nghỉ Tết Nguyên
đán khoảng ba ngày, sau đó tiếp tục tập kết phương tiện, thiết bị tổ chức khai
thác tiếp.
Ngoài ra, trên thượng nguồn suối Phiêng Đẩy vẫn có nhiều điểm khai thác
trái phép của các đối tượng từ Bắc Kạn, Thái Nguyên sang. Hiện còn năm
chiếc máy múc cùng rất nhiều phương tiện khác đang khai thác trái phép
vàng sa khoáng khoáng trên lòng suối, làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn
nước.
Lưu Thanh Tuấn (Vietnam+)
Tại đây, hoạt động đào đãi vàng diễn ra hết sức rầm rộ, khiến nhiều diện tích
đất nông nghiệp ven suối bị xới tung, tạo thành từng gò, đống và hố sâu.
Tuy trời đã nhá nhem tối nhưng tại đây vẫn còn 3 chiếc xe múc làm việc hết
công suất, cạnh đó là những chiếc máy bơm đang hút bùn đất vươn cao vòi
đưa vào máng lọc. Xa xa trên những triền đồi là những túp lều xiêu vẹo,
hoang tàn - nơi ở của “vàng tặc”.
Ông T.V, một người dân ở xóm Pù Mô, xã Sơn Lộ, huyện Bảo Lạc tiết lộ:
18
“Bãi vàng này là của một ông chủ tên Phong người tận Pác Nặm, Bắc Kạn
sang đây khai thác. Từ khi có bãi vàng, cuộc sống của người dân nơi đây bị
ảnh hưởng nghiêm trọng, ruộng đất bị mất do một số người hám lợi bán cho
bưởng vàng, những người không bán thì bị quậy phá chẳng làm ăn được gì.
Nghiêm trọng nhất là nạn hút hít do đám "thổ phỉ" mang về khiến cho làng
xóm đang yên bình bỗng trở thành hỗn hoạn bởi nạn trộm cắp và đánh đấm
nhau…”.
Càng đi sâu vào trong xóm mới thấy mức độ nghiêm trọng do “vàng tặc”
gây ra. Những mảnh ruộng bị biến thành hố, thành gò. Nguy hại hơn, tất cả
các dòng suối vốn trong xanh và là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho người
dân cả xóm Pù Mô giờ trở nên đục ngầu bùn đất. Có ai chắc rằng trong dòng
nước đục ngầu kia không có dư lượng thủy ngân, một chất độc chết người
được “vàng tặc” dùng để cô vàng?
Khai thác vàng ở xóm Bản Khiếu, xã Sơn Lộ, huyện Bảo Lạc (Cao Bằng).
Mạnh Hà ( báo tin tức)
Ở trên chỉ là một số địa điểm “nóng” được ghi nhận. ngoài ra nạn khai thác
vàng trái phép còn xày ra ở rất nhiều nơi như :
19
- Khu vực rừng Lồ Ô thuộc Suối Bùn, xã Sông Hinh, huyện Sông Hinh (Phú
Yên).
- thôn Trà Kem, Trà Veo, xã Trà Xinh; thôn Môn, thôn Vàng, xã Trà Thanh;
thôn Sơn, xã Trà Khê, huyện Tây Trà, tỉnh Quảng Ngãi.
- thôn Peng Sal, Đăk Đoát… xã Đăk Pét, huyện Đăk Glei , tỉnh KomTum.
-xóm Dến, bản Huồi Pai, xã Yên Tĩnh huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
- khu vực rừng keo ở xã Thượng Long huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên –
Huế.
- thôn Phú Hữu 1, xã Ân Tường Tây (núi Hố Bà Tu) , tỉnh Bình Định.
Và còn rất nhiều điểm khai thác chủ yếu tập trung ở vùng Tây Nguyên giáp
ranh biên giới Việt Nam-Campuchia , và các tỉnh phía tây bắc biên giới
Việt-Lào.
Nhiều công ty do khai thác không đúng qui định, gây ảnh hưởng quá nhiều
đến môi trường nên đã bị thu hồi giấy phép khai thác như: Công ty TNHH
xây dựng và thương mại Lục Đông (khai thác, chế biến vàng gốc và thuê đất
tại Khe La Luôi, thôn Cần Đôl, xã Chà Vàl, huyện Nam Giang), Công ty
TNHH Đại Phát (khai thác vàng gốc tại Khe Ra Ró, thôn A Bát, xã Chà Vàl,
huyện Nam Giang), Công ty TNHH Phạm Chiến Hùng (khai thác vàng sa
khoáng tại thôn Pa Oi và Pa Lan, xã La Ê, huyện Nam Giang) và Công ty
TNHH xây dựng dịch vụ và thương mại Hữu Sơn (khai thác, chế biến vàng
gốc và thuê đất tại thôn A Ró, xã Lăng, huyện Tây Giang).
3.2.4.Đắk Nông:
Tình trạng khai thác vàng sa khoáng ở các xã Quảng Sơn, Quảng Hòa, Đắk
R’măng của huyện Đắk Glong đã và đang diễn ra hết sức phức tạp. Những
người tìm vàng đã sử dụng máy múc, máy ủi, máy khoan và các phương tiện
thực hiện hành vi hút cát, đào hầm, xẻ núi…
Tại đây, hàng chục ha rừng bị những kẻ khai thác vàng dùng máy ủi, máy
múc để tàn phá; các lán trại “vô tư” mọc lên như “nấm”, hàng chục ha rừng
trở nên hoang tàn và hỗn độn; nhiều con suối như Đắk R’măng, Đắk N’ting,
sông K’rông Nô…dòng chảy đặc quánh vì bùn đất. Theo phản ánh của một
số người dân địa phương thì tình trạng khai thác vàng nơi đây đã diễn ra từ
nhiều năm trước nhưng phức tạp nhất là từ khi có sự xuất hiện của Công ty
Cổ phần Đầu tư-Phát triển công nghiệp Bảo Thư (Công ty Bảo Thư) đặt trụ
20
sở tại TP Hồ Chí Minh.
Qua tìm hiểu được biết, Công ty Bảo Thư được UBND tỉnh Đắk Nông cho
phép phổ tra, lấy mẫu quặng, khoanh diện tích lập đề án khai thác quặng
vàng với 9,02 km2 tại địa bàn xã Quảng Sơn. Tuy nhiên khi lập kế hoạch và
tiến hành khai thác, Công ty Bảo Thư không thông báo cho chính quyền
huyện Đắk Glong và các đơn vị chủ quản rừng tại xã Quảng Sơn biết. Mặt
khác, ngày 5-5-2011, Công ty Bảo Thư lại ký hợp đồng không số với Công
ty TNHH Thành Trung ở xã Nam Đà, huyện Krông Nô cho phép đơn vị này
làm nhiệm vụ phổ tra quặng vàng. Tuy nhiên, trong giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh của Công ty TNHH Thành Trung thì đơn vị này lại không đủ
điều kiện phổ tra quặng vàng. Thực tế cho thấy, tại nhiều vị trí đất rừng
Công ty TNHH Thành Trung thực hiện lấy mẫu phổ tra đều nằm trên địa
phận của xã Quảng Hòa và đất rừng của Công ty Cổ phần MDF Long Việt
quản lý. Điều đáng nói là Công ty TNHH Thành Trung đã cho các đối tượng
khác đào hầm, đãi quặng trái phép khi chưa có chủ trương khai thác. Theo
kết quả kiểm tra hiện trường của Phòng Tài nguyên-Môi trường huyện Đắk
Glong thì tại tiểu khu 1650 do Công ty TNHH Một thành viên Lâm nghiệp
Quảng Sơn quản lý, các đối tượng Lê Văn Có, Phạm Văn Lệ, Trần Văn Điệp
nấp dưới danh nghĩa là được Công ty TNHH Thành Trung cho thuê lại bãi
quặng đã sử dụng máy múc khai thác vàng sa khoáng trái phép. Tất cả diện
tích mà Công ty Thành Trung hợp đồng với Công ty Bảo Thư “phổ tra” trên
địa bàn xã Quảng Hòa đều nằm ngoài sự cho phép của UBND tỉnh Đắk
Nông.
“Ngang nhiên” chống người thi hành công vụ
Trước vấn nạn khai thác vàng trái phép trên, vừa qua UBND xã Quảng Hòa
đã thành lập đoàn kiểm tra nhằm nắm bắt tình hình cụ thể để báo cáo sự việc
với huyện. Thế nhưng, trong quá trình làm nhiệm vụ, đoàn kiểm tra của xã
đã bị các đối tượng khai thác vàng trái phép chống đối và bắt, nhốt người
trái quy định. Ông Mai Văn Ninh, Phó Trưởng Công an xã Quảng Hòa kể
lại: “Ngày 7-7, UBND xã đã thành lập đoàn thanh tra đi kiểm tra các điểm
khai thác vàng trái phép. Trong lúc đang thực hiện nhiệm vụ thì bất thình
lình 33 cán bộ xã Quảng Hòa, trong đó có ông Nguyễn Văn Thụy, Phó Chủ
tịch UBND xã đã bị hơn 40 đối tượng dùng hung khí như mã tấu, dao, kiếm,
súng kíp, súng hơi cay, các loại hung khí…bao vây và “văng” lời tục tĩu để
hăm dọa”. Trong cơn hỗn loạn, ông Mai Văn Ninh và ông Nguyễn Văn
21
Thụy bị nhóm “xã hội đen” dùng gậy đánh trọng thương cánh tay và xây xát
nhiều bộ phận trên cơ thể. Rất may, trong khi ẩu đả, một cán bộ xã Quảng
Hòa đã may mắn thoát ra ngoài. Ngay lúc đó, anh này đã liên lạc với huyện
cho lực lượng vào giải cứu. Mãi 4 giờ chiều cùng ngày, lực lượng công an
huyện mới vào tới nơi. Thấy sự có mặt của Công an huyện, nhóm người này
mới chấp nhận thả 28 người, còn bọn chúng giữ lại 5 người chủ chốt của
đoàn kiểm tra. Sau hàng giờ “thương lượng” với nhóm côn đồ, công an
huyện mới thuyết phục chúng thả 5 cán bộ này, lúc này đồng hồ điểm đã hơn
9 giờ tối.
3.3.Tiềm Năng:
Olympus Pacific Minerals( doanh nghiệp nước ngoài duy nhất đươc khai
thác vàng tại Việt Nam) cho biết công ty này đang thận trọng khởi động lại
kế hoạch mở rộng hoạt động khai thác mỏ tại Việt Nam. Công ty có kế
hoạch đầu tư khoảng 25 triệu USD vào các dự án khai thác mỏ, nâng cấp
nhà máy và công trình xử lý chất thải. Khoản tiền đầu tư đầu tiên sẽ được
giải ngân vào quý 2/2011.
Sau khi hoàn thành đầu tư, công ty sẽ có thể sản xuất được khoảng 75 nghìn
ounce vàng/năm từ mức khoảng 45 nghìn ounce trong năm 2011.
Việc Olympus Pacific vẫn chuyển vàng được ra khỏi Việt Nam khác hoàn
toàn với sự thất bại của nhiều công ty khac mỏ nước ngoài khác như Tiberon
Minerals.
Tháng 1/2011, Olympus Pacific tuyên bố đã tìm được một mỏ vàng tại Việt
Nam mà công ty có thể xuất khẩu vàng khai thác được nhưng không phải
chịu thuế.
Công ty hy vọng hoạt động sản xuất tại Việt Nam sẽ mang lại 150 nghìn
ounce vàng/năm vào năm 2015.
Khoản đầu tư 25 triệu USD sẽ được chi cho phát triển mỏ, nâng cấp nhà máy
và xây dựng và công trình xử lí chất thải.
4.Việc Khai thác vàng trái phép và hậu quả
4.1.Ảnh hưởng đến sức khỏe con người:
22
Trong 10 nguyên nhân đứng đầu gây ô nhiễm môi trường được tổ chức bảo
vệ môi trường Green Gross Thụy Sĩ và viện BlackSmith của Mĩ bình chọn
thì khai thác vàng thủ công đứng vị trí hàng đầu. Với các phương thức đơn
giản nhất như quặng vàng hỗn hống với thủy ngân sau đó hỗn hợp này sẽ
được nung chảy thủy ngân bốc hơi, chất còn lại là vàng.
Người khai thác hít khí độc đầu tiên, chất thải thủy ngân gây ô nhiễm môi
trường tích tụ trong cây cối động vật sau đó lan sang thực phẫm.Thủy ngân
gây tổn hại đến thận, giảm trí nhớ…. Và có thể chết người.
4.2.Môi trường và dân sinh bị ảnh hưởng
Bất cập không chỉ dừng lại ở câu chuyện tổn thất tài nguyên và nguồn thu
ngân sách mà hệ lụy từ việc cấp phép khai thác khoáng sản tràn lan cũng
khiến nhiều hộ gia đình điêu đứng vì thiếu hoặc mất hẳn đất sản xuất. Phần
lớn các mỏ khai thác tại một số địa phương chưa xây dựng bãi thải theo
đúng quy định, gây bồi lấp dòng chảy, ruộng vườn; làm thu hẹp diện tích đất
lâm nghiệp; gây hỏng cầu cống, đường sá… Một số ít doanh nghiệp tuy thực
hiện đền bù hoặc đưa máy móc vào dọn dẹp đất thải nhưng nhiều vướng mắc
vẫn chưa ngớt phát sinh, liên quan trực tiếp đến việc bồi thường và cải tạo
đất.
Tuy nhiên, hậu quả tiêu cực về môi trường có lẽ vẫn là điều đáng lo ngại
nhất bởi sẽ phải mất một nguồn kinh phí vô cùng lớn và trong một thời gian
vô cùng dài thì mới mong khắc phục được một phần hậu quả. Không chỉ làm
phát sinh các chất thải nguy hiểm, hoạt động khai thác khoáng sản trong
nhiều trường hợp còn gây ô nhiễm không khí, nguồn nước; làm mất đa dạng
sinh học; tàn phá rừng; sa mạc hóa đất đai; gây bồi lấp, sụt lún, phá vỡ cảnh
quan thiên nhiên, di tích lịch sử… Càng đáng lo hơn khi hầu hết hoạt động
khai thác khoáng sản hiện tập trung chủ yếu ở các vùng núi và trung du
khiến phạm vi tác động sâu rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vùng
rừng và diện tích đất rừng xung quanh khu vực khai thác. Không ít những
doanh nghiệp còn lợi dụng việc triển khai dự án để thọc sâu vào các khu vực
cấm thuộc vườn quốc gia, khu bảo tồn nhằm tìm vàng và sa khoáng, gây bao
hệ lụy khôn lường, điển hình là vụ khai thác vàng mới xảy ra tại VQG Ba Vì
(Hà Nội); khai thác vàng trong vùng lõi VQG Pù Mát (Nghệ An), Khu Bảo
tồn thiên nhiên Kim Hỷ (Bắc Kạn), Khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
(Nghệ An); khai thác thạch anh hồng ở VQG Chư Yang Sin (Đăk Lăk)…
23
Có thể nói, bên cạnh một số doanh nghiệp làm ăn khá nghiêm chỉnh thì còn
tồn tại không ít những đơn vị chỉ biết chạy theo lợi nhuận mà bất chấp mọi
hệ lụy có thể gây ra đối với môi trường và đời sống dân sinh. Hiện mỗi địa
phương vẫn còn tồn tại hàng trăm điểm khai thác tự phát, nhỏ lẻ, khiến môi
trường nơi nơi bị hủy hoại, tài nguyên thì cạn kiệt. Rất nhiều bằng chứng
cho thấy, nơi nào giàu tài nguyên khoáng sản, nơi đó dễ phát sinh những
mâu thuẫn, xung đột về lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường.
4.3.Một số ví dụ về việc tàn phá môi trường từ khai thác vàng.
4.3.1.Nghệ An:
(Congannghean.vn)-Hoạt động khai thác vàng sa khoáng tại Tương Dương
(Nghệ An) đang gây ảnh hưởng xấu đến môi trường nước khu vực khai thác
và vùng hạ lưu cũng như đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân.
Đã nhiều năm nay những con khe, con suối trên địa bàn các xã Yên Tĩnh,
Yên Na, Yên Hòa, Nga My, Yên Thắng đã trở nên đục ngầu kể cả trong mùa
mùa lũ hay mùa khô bởi tình trạng khai thác vàng sa khoáng đã và đang diễn
ra quanh năm suốt tháng. Để xác định mức độ ô nhiễm của nguồn nước và
biện pháp xử lý dứt điểm vấn đề này đang là điều nan giải đối với huyện
Tương Dương.
24
Chất thải từ việc khai thách vàng và bùn đất chảy dài theo con suối gây ô
nhiễm môi trường
Tại khu vực Khe Tro thuộc địa phận xã Hương Điền, huyện Vũ Quang, tỉnh
Hà Tĩnh, vàng tặc ngang nhiên đưa máy móc thiết bị khai thác vàng đào bới
25