Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 1
Mục lục
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT PHÈN trang
I.Định nghĩa đất phèn trang
II. Tính chất đất phèn trang
III.Quá trình phèn hóa trang
IV. Phân loại đất phèn trang
V. Sự phân bố đất phèn trang
CHƯƠNG II : HIỆN TRẠNG KHAI THÁC SỬ DỤNG ĐẤT PHÈN trang
CHƯƠNG III : TÁC ĐỘNG CỦA ĐẤT PHÈN ĐẾN MÔI TRƯỜNG trang
CHƯƠNG IV : GIẢI PHÁP CẢI TẠO ĐẤT PHÈN trang
I. Cách làm đất để ruộng không bị xì phèn trang
II.Kĩ thuật rửa phèn trang
III.Xử lí đất chua bằng vôi và lân trang
IV.Bón phân hữu cơ trang
V. Hiệu quả sử dụng đất phèn trang
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 2
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 3
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT PHÈN
I.Định nghĩa đất phèn :
Nhóm đất phèn – tên theo phân loại của FAO là Thionic Fluvisols là tên gọi dùng để chỉ nhóm
đất có chứa các vật liệu mà kết quả của các tiến trình sinh hoá xảy ra là acid sulfuric được tạo
thành hoặc sẽ sinh ra với một số lượng có ảnh hưởng lâu dài đến những đặc tính chủ yếu của đất
(Pons, 1973).
Đất phèn có nơi gọi là đất “chua mặn”. Trên thực tế sản xuất nhân dân Miền Nam quen gọi là “
đất phèn “. Trên thế giới, đất phèn đựơc gọi bằng một số tên sau đây:
Van der Spek (1950) gọi là “catclays”, muốn chỉ đất chua, có tầng Sulphat sắt hay sulphat nhôm,
có những đốm vàng trong tầng phẫu diện.
Edelman và Van Staveren (1956) lại gọi là “mudclays”, ý muốn nói tầng đất này chứa nhiều sét
bùn, chua, có “chất nhờn”.
Ngoài ra, còn gọi là đất “daroxit”, chỉ rằng, trong các tầng đất phèn màu “vàng trấu” hay “vàng
rơm” của phức chất Kfe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
. Hoặc có tác giả còn gọi là đất “thiosol”, muốn chỉ rằng
trong đất có nhiều lưu huỳnh hay sulphat; hay còn gọi là đất “acid peat soils”, muốn chỉ rằng
trong đất chua vừa có nhiều hữu cơ dạng gần giống than bùn và nhiều acid sulphuric. Cũng có
tác giả còn gọi là đất phèn là “strong acid sulphate soil of salty padly fields” để chỉ những cánh
đồng lúa giàu acid sulphuric và mặn ven biển Nhật Bản.
Đất phèn thường có màu đen hoặc nâu ở tầng đất, mặt. Đất thường bị gley hóa mạnh ở tầng C,
có mùi đặc trưng của lưu huỳnh và H
2
S.
II. Tính chất đất phèn :
Đất phèn ở Việt Nam đều tập trung ở các đồng bằng châu thổ, đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu
Long, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm. Trong một năm, đất có từ 168 – 252 ngày bị ngập
nước (trong mùa mưa), bắt đầu từ 15/5 cho đến ngày 20/1 năm sau.
Do ảnh hưởng của ngập nước ngọt trong mùa mưa, nên đất thường xuất hiện quá trình gley hóa
từ yếu đến mạnh. Đất có tích lũy chất hữu cơ tương đối khá (từ 4 – 12%) ở tầng đất mặt, đặc biệt
đất dưới rừng tràm phân bố tự nhiên trên đất phèn.
Mặc dù đất phèn không bị ảnh hưởng ngập của nước triều, nhưng hàm lượng SO
3
(%) trong đất
khá cao, như:
- Đất phèn yếu: 0,50 – 1 % hàm lượng SO
3
% tổng số trong đất khô.
- Đất phèn trung bình: 1 – 1,75 % hàm lượng SO
3
% tổng số trong đất khô.
- Đất phèn mạnh > 1,75 % hàm lượng SO
3
% tổng số trong đất khô.
Đất phèn ở trạng thái đất khô, do ảnh hưởng của Fe2(SO4)3 và Al2(SO4)3 ( khi bị thuỷ phân làm
cho độ chua của đất tăng lên rất cao pH (đất khô):
- Đất phèn yếu: pH = 4,5 – 5,5
- Đất phèn trung bình: pH = 3,5 – 4,5
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 4
- Đất phèn mạnh: pH < 3,5
(GS.TS Vũ Cao Thái – 1995)
*Phẫu diện đất phèn : Về hình thành phẫu diện đất phèn, đã hình thành các tầng đất trong phẫu
diện khá rõ ràng, khác với đất ngập mặn ven biển, như:
- Tầng A: Tầng tích lũy nhiều chất hữu cơ và có oxit Ferric, nên đất thường có màu nâu đen hoặc
đen.
- Tầng Bj: Là tầng có chứa khoáng jarosit, có màu xám lẫn vàng da cam và nâu (chỉ có ở loại đất
phèn hoạt động).
- Tầng Cp: Là tầng sinh phèn, có chứa khoáng pyrit (FeS2) có màu xám nâu, đất bị glay mạnh,
thường có mùi lưu huỳnh và mùi thối của khí H2S.
Đất phèn khi phân bố ở nơi đất thấp, gần biển, thường bị nhiễm nước mặn, qua các hệ
thống kênh rạch và các mạch nước ngầm trong mùa khô.
1. Lý tính của đất phèn
1.1 Thành phần cơ giới
Thành phần cơ giới có nơi gọi là “cấp hạt” hay “sa cấu”. Chỉ nói về tỷ lệ phần trăm các hạt sét,
cát và bùn có trong đất.
Trong đất phèn hoạt động cũng như tiềm tàng thường có tỷ lệ sét 50-65%. Thông thường, ở các
tầng đất sâu, tỷ lệ sét cao. Bùn cũng chiếm 15-25% trong thành phần cơ giới. Có thể xếp chung
thành phần cớ giới của đất phèn là đất sét trung bình đến sét nặng.
Tuy nhiên, ở một số vùng đất phèn trung bình đến ít, gần các triền phù sa cổ thành phần cơ giới
chung là thịt nhẹ đến thịt trung bình.
Thành phần cơ giới nặng (sét cao) của đất phèn gắn liền với quá trình hình thành của nó. Đất
phèn lắng tụ trong phù sa biển, mà biển ở đây do bồi đắp của phù sa Cửu Long, dòng chảy chậm,
nguồn đưa đi xa, nên vật liệu được mang về bồi đắp thành vịnh hoặc biển cũ thường rất mịn.
Thành phần rất mịn này đã tạo nên tỷ lệ sét cao, tức là thành phần cơ giới nặng.
Ngoài ra, một số loại đất mới bị nhiễm phèn có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt nhẹ ở lớp
mặt, nhưng dưới sâu vẫn là sét cao. Loại này thường gặp ở Long Phước, Nhơn Trạch, một số
giồng cát cũ của Vĩnh Lợi (Bạc Liêu).
1.2 Thành phần khoáng sét.
Đất phèn ở Việt Nam, phần khoáng sét ở các tầng đất phẫu diện đều giống nhau, có các loại :
- Khoáng illite : đây là một loại khoáng chủ yếu trong thành phần sét của đất và được nhận biết
bởi các đỉnh cấu trúc có độ dài 10Ǻ, 5Ǻ, 3.3Ǻ.
- Khoáng Kaolinite : là loại có trọng lượng tương đối sau illite, nhận biết bởi các đỉnh 7.1Ǻ,
3.56Ǻ.
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 5
- Ngoài ra, còn có một số loại khoáng có mức độ ít hơn trong thành phần của sét như :
monmorilonite, nhận biết bằng các đỉnh 18Ǻ; vermicalite nhận biết bởi đỉnh 10Ǻ và khoáng
quartz nhận biết bằng các đỉnh 4.25 Ǻ, 3.35 Ǻ.
Theo kết quả nghiên cứu về thành phần khoáng sét, phân tích bằng phương pháp nhiệt, đất phèn
Đồng Tháp nhận thấy dưới sâu của đất phèn này còn có bentonite, một chất phụ gia trong công
nghiệp xà phòng và các công nghiệp khác.
Có nghiên cứu cho rằng, không có mối tương quan chặt giữa đơn vị phân loại đất với thành phần
khoáng trong đất – các khoáng vật thường phân bố thành từng nhóm, một nhóm khoáng vật có
thế có mặt trong nhiều loại đất khác nhau. Trong mỗi loại đất lại có thể có nhiều loại khoáng vật,
thường thì có từ 3-7 nhóm, chúng thường tồn tại dạng hỗn hợp hơn là độc lập. Trong đất phèn
Đồng Tháp Mười, quartz chiếm ưu thế hơn kaolinite, illite và smectite. Chlorite và khoáng hỗn
hợp illite và smectite chỉ thấy ở dạng vết.
1.3 Tính trương co của đất phèn.
Loại đất phèn C (%) Sét (%) Độ trương co
- Phèn tiềm tàng có hữu cơ ở dưới
- Phèn nhiều hữu cơ ở dưới
- Phèn mặn có hữu cơ ở dưới
- Phèn trung bình (Ô Môn) không có hữu
cớ ở dưới.
- Phèn nhiều hữu cơ ở dưới
7.2
3.1
6.3
2.4
6.9
60.1
58.2
59.3
55.2
61.2
27.2
15.8
23.9
8.7
21.3
Bảng 1 : Độ trương co của một số loại đất phèn
Bảng 1 cho thấy, tính trương co của đất phèn rất lớn do thành phần khoáng sét cao và tỉ lệ hữu
cơ lớn. Khi khoáng sét mất nước khoảng cách giữa các lớp aluminsilicat bị thu hẹp sẽ co lại. Mặt
khác, khi xác thực vật (hữu cơ) mất nước cũng teo lại, đã làm cho tỉ lệ co của đất này lớn. Như
vậy, nguyên nhân của sự co trương lớn có liên quan đến hữu cơ và sét cao.
Tính trương co có liên quan đến việc làm thủy lợi, xử lý kênh mương và giải thích hiện tượng
thẩm lậu của nước trong ruộng phèn. Mặc dù đã đắp kĩ bờ ao, nhưng nước trong ruộng vẫn bị rút
ra ngoài kênh tiêu do những kẽ nứt được tạo bởi tính trương co của đất ở phía dưới sâu 1-1.2m.
1.4 Nhiệt độ của đất phèn.
Nhiệt độ của đất có liên quan đến độ ẩm đất, đến độ hòa tan không khí, đến hoạt động của hệ vi
sinh vật và liên quan đến đặc tính của phèn trong đất. Nghĩa là, nhiệt độ đất có liên quan quá
trình lý hóa, hóa sinh học của đất nói chung và phèn nói riêng.
Ví dụ : vi sinh vật cần một nhiệt độ thích hợp để sống và hoạt động là 25-30
o
C
1.5 Tỷ trọng đất phèn
Nói đến tỷ trọng đất, tức là muốn nói đến trọng lượng tịnh bằng g/cm
3
đất khô kiệt, mà các hạt
đất xếp sít vào nhau, không có kẽ hở. Tỷ trọng có liên quan đến thành phần sét, cát và chất hữu
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 6
cơ trong đất. Trong thực tế sản xuất, tỷ trọng bằng 2.65 g/cm
3
được xếp vào loại trung bình.
Kasinky đánh giá đất trồng với mức tỷ trọng như sau :
- 2.5-2.66 g/cm
3
: đất có mùn trung bình
- 2.5 g/cm
3
trở xuống : đất giàu hữu cơ
- Lớn hơn 2.7 g/cm
3
: đất giàu Fe
2
O
3
Tỷ trọng ở tầng trên hơi thấp vì ở đây tỷ lệ mùn thường 6-7%; còn ở tầng jarosit tỷ trọng từ trung
bình đến cao. Điều này liên quan đến việc cày xới, công, năng lực máy làm đất và có thể từ đó
để xem khối lượng khoán đào đắp kênh mương hay vận chuyển đất.
+ Độ chặt : về mùa mưa, khi đất ngập nước, độ chặt giảm rất rõ, khi độ ngập nước 5-10cm.
Đất phèn, do thành phần cơ giới là sét, khi ngập nước lại bị nhiễm mặn nên có Na
+
xâm nhập,
với màng thủy hóa của nó, đã làm độ chặt giảm nhiều khi ngập nước lợ. Các vùng đất phèn nói
chung là đất không có nền; khi khô, tầng trên rất cứng nghĩa là độ chặt cao. Khi ngập, tầng trên
độ chặt giảm mạnh và thấp hơn nhiều so với tầng dưới (do có thêm bùn nhão). Từ đó, việc bố trí
máy nông nghiệp làm việc trên vùng đất phèn cần chú ý cho thích hợp, nếu không dễ bị sa lầy.
Ví dụ : mùa khô có thể dùng máy bánh hơi, bánh xích, còn mùa ngập phải dùng máy bánh lồng.
+ Độ ẩm đất : về mùa khô, độ ẩm thường giảm thấp trên đất thấp. Nếu so hai tầng 0-20cm và 40-
50cm thì tầng trên rất khô, nhưng tầng dưới lại vẫn ẩm ướt. Bởi vì, vùng đất phèn, mạch nước
phèn thường xuất hiện gần mặt đất (60-70cm). Sự biến động của độ ẩm thường phụ thuộc nhiều
đến thời kì, tầng đất, mạch nước ngầm và địa hình.
Biên độ biến động ẩm độ trong tầng 0-10cm rất lớn. Vì vậy, cần theo dõi sát độ ẩm đất để định
ra thời kì cày lật đất. Nếu ẩm độ quá thấp, máy làm việc rất khó khăn và chóng hư hỏng.
2. Hóa tính đất phèn
Nói đến tính chất đất phèn, tức là nói đến hóa tính của nó. Bởi vì hóa tính đóng một vai trò hết
sức quan trọng, nó quyết định đất phèn hay không phèn, quyết định năng suất và phẩm chất cây
trồng, quyết định số lượng và chất lượng phân bón, loại cây trồng, biện pháp thủy lợi và môi
sinh. Hóa tính có tầm quan trọng đặc biệt. Trong phần này chúng ta sẽ đề cập đến hàm lượng các
chất.
- Lượng tổng số : lượng toàn bộ co trong dất của một chất, có thể chất đó ở dạng hợp chất
hay đơn chất, hữu cơ hay vô cơ, dễ tan hay không tan.
- Lượng dễ tiêu : lượng của một chất nào đó, có khả năng dễ tan vào dung dịch đất để
trồng cây trồng cơ thể sử dụng được.
- Thành phần hóa học của các chất trong đất phèn rất dễ thay đổi theo thời gian và các điều
kiện bên ngoài như : nước ngập hay cạn, bón vôi hay không bón, để trống hay có cây che
phủ, lên liếp hay để nguyên…
2.1 Mùn và chất hữu cơ
Số liệu phân tích ở bảng sau :
Loại đất Địa điểm lấy mẫu Độ sâu (cm) C (%) M (%)
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 7
Phèn nhiều Lê Minh Xuân
0-20
20-70
70-
100
4.8
1.0
1.4
8.3
4.7
2.4
Phèn nhiều
(trũng)
Nhị Xuân
0-5
5-10
60-70
90-
100
7.0
6.0
4.0
4.4
11.9
10.2
6.8
7.1
Phèn nhiều Ấp9, xã Hòa Anh, Hậu Giang
0-20
20-50
50-
100
6.0
3.8
1.2
10.2
6.4
2.0
Phèn đang
chuyển hóa
Tam Nông, Đồng Tháp
0-15
40-60
90-
100
5.7
3.8
4.2
6.7
5.1
6.4
Phèn trung bình Ô Môn – Hậu Giang
0-25
40-50
90-
100
5.2
3.2
4.8
7.9
5.2
7.3
Bảng 2 : Lượng mùn và hữu cơ trong một số đất phèn
Như vậy, đất phèn Đông Nam Bộ thuộc loại đất giàu mùn. Thông thường, tầng mặt có hàm
lượng mùn cao hơn các tầng dưới. Bởi vì đất phèn ở vùng trũng thường nhận sự rửa trôi các
vùng khác đến và bản thân những cây cỏ sống trên bề mặt của đất, chết đi, phân giải thành mùn
và không bị rửa trôi.
Xét về chất lượng mùn trong tầng mặt :
- C của acid mùn humic : 0.7 – 0.75%
- C của acid mùn fulvonic : 0.97 – 0.98%
- Tỷ lệ C humic/C fulvunic dao động trong khoảng 0.7 – 0.8%
- Nếu mùn humic tăng tức là đất tốt và tỷ số giữa humic và fulvonic cao, biểu hiện chất lượng
mùn tốt, chiếm ưu thế trong tổng số mùn (ở Việt Nam, thông thường tỷ lệ này nhỏ hơn 1).
2.2 Đạm trong đất phèn
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 8
Thông thường, khi đất giàu hữu cơ và mùn, sẽ giàu đạm. Bởi vì, đạm là sản phẩm cửa chất hữu
cơ. Xét về đạm tổng số (bao gồm đạm trong hữu cơ, đạm dạng hòa tan và trong các hợp chất vô-
hữu cơ) ở đất phèn Đông Nam Bộ rất giàu (trung bình từ 0.15-0.25%). Hầu hết các mẫu phân
tích có hàm lượng đạm tổng số trong đất từ 0.1-0.4%, có trường hợp đạt 0.6%
Loại phèn Địa điểm Độ sâu (cm) N (%) Nơi phân tích
Phèn nhiều Lê Minh Xuân
23-25
35-45
85-90
0.24
0.10
0.14
Trường đại học
Nông Nghiệp
Phèn đang
chuyển hóa
Tam Nông
Đồng Tháp
0-20
45-80
80-90
0.41
0.32
0.11
Phân viện
Khoa học Việt Nam
Tiềm tàng Cần Giờ
0-40
40-60
80-90
0.24
0.14
0.11
Trường đại học
Nông Nghiệp
Phèn trung bình
Châu Thành
Hậu Giang
0-25
45-60
80-90
0.31
0.20
0.17
Trường đại học
Nông Nghiệp
Bảng 3 :Lượng đạm ở một số vùng đất phèn
Tùy lượng đạm tổng số cao nhưng đạm dễ tiêu lại nghèo. Phương pháp phân tích đạm dễ tiêu
ngày nay chưa thật ổn định. Đất nghèo đạm dễ tiêu, có nơi chỉ vài chục ppm, thậm chí chỉ có vệt
(trace). Vì vậy, việc bón đạm hay tạo đạm cho đất phèn là quan trọng.
2.3 Lân (P
2
O
5
) trong đất phèn
Lân trong đất phèn có nhiều dạng : lân hữu cơ, lân vô cơ, lân hữu cơ-vô cơ hoặc lân dạng hòa
tan. Ví dụ, lân ở dạng PO
4
3-
lân hữu cơ là lân trong liên kết của chất hữu cơ. Đó là hợp chất lân
trong thân thể vi sinh vật ở rễ cây, những chất hữu cơ trung gian đang phân giải và mùn. Bất cứ
trong động thực vật nào cũng chứa acid nucleic, phosphatit, phitin.
Lượng lân tổng số ít, chỉ khoảng 0.01-0.05%. Những đất phèn ít và mặn, do pH cao, nên lân tổng
số có cao hơn và có khi đạt đến 0.1% trọng lượng đất khô.
Tuy nhiên, lượng lân tiêu rất ít. Lượng lân dễ tiêu chỉ có vệt hoặc có khi chỉ vài chục ppm. Trong
đất phèn mặn, phèn ít, lượng lân dễ tiêu có cao hơn (10-20ppm).
Nguyên nhân của sự nghèo lân ở đất phèn vì pH thấp, độ hòa tan và tái tạo của lân yếu. Mặt
khác, lân vô cơ trong đất chủ yếu là dạng canxiphosphat có khả năng thủy phân. Nhưng trong đất
phèn đã nghèo canxi mà trong đó một phần đã tạo thành hydroxyl apatit Ca
5
(PO
4
)
3
OH là một
chất kết tủa bền trong đất. Theo phản ứng :
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 9
3Ca(OH)
2
+2H
3
PO
4
Ca
3
(PO
4
) + 4Ca
3
(PO
4
)
2
+ 6H
2
O
Sau đó,
2 Ca
3
(PO
4
)
2
+ H
2
O Ca
5
(PO
4
)
3
OH + CaHPO
4
Hoặc là lân tác dụng với sulphat nhôm
H
3
PO
4
+ Al
2
(SO
4
)
3
3H
2
SO
4
+ 2AlPO
4
H
3
PO
4
+ Fe
2
(SO
4
)
3
3H
2
SO
4
+ 2FePO
4
Các hợp chất muối phosphat vừa tạo thành đều bị kết tủa, làm giảm lượng lân dễ tiêu trong dung
dịch đất. Ngoài ra, trong đất phèn, ta còn gặp dạng AL
2
(OH)
3
PO
4
hoặc Fe
2
(OH)
3
PO
4
đều là
những dạng khó tan.
Xét về biến động và lượng P
2
O
5
dễ tiêu trong đất phèn vùng trống lúa, nếu để nước ngập 1-2cm
thường xuyên thì P
2
O
5
có chiều hướng tăng dần, nhưng tăng chậm và dừng lại.
Theo dõi sự biến động của lân dễ tiêu ở tầng mặt nhưng trong điều kiện xử lý làm phèn “bốc” lên
“hạ” phèn thì ở những ngày thứ 21-36 và các ngày 51-66 thì phèn bốc lên; ở những ngày thứ 51-
87, phèn hạ xuống.
Chứng tỏ rằng, khi lượng phèn lên cao, P
2
O
5
giảm xuống và ngược lại, nếu ta tăng cường bón
phân lân, cung cấp lân dễ tiêu cho đất, sẽ hạ được phần nào mức độ phèn.
Sản phẩm của các phản ứng đã tạo thành những hợp chất của lân với Al, Fe và cả Ca dưới dạng
khó tan, nhất là trong diều kiện pH thấp.
Như vậy, so với loại đất được đánh giá là P tổng số trung bình (phù sa sông Hồng, sông Mã,
sông Chu, sông Thái Bình mức 0.08-0.12%) thì lân tổng số ở đất phèn là nghèo và lân dễ tiêu lại
càng nghèo (30-36ppm). Vì vậy, cần phải bón lân cho đất phèn thì cây trồng mới cho năng suất
và điều này cũng giải thích vì sao một số vùng đất phèn bón thêm DAP (phân “tiêu”), năng suất
tăng rõ.
Lân là một yếu tố dinh dưỡng hết sức quan trọng trong đất phèn, nên cần hiểu rõ để sử dụng cho
đúng.
2.4 Kali trong đất phèn.
Kali là sản phẩm được phong thích từ các khoáng vật trong mẫu chất (felspat, mic, anbit…).
Trong đất, chúng ở trong các dạng muối KHCO
3
, K
2
CO
3
… hoặc dạng K
+
hấp phụ xung quanh
keo đất (hạt rất nhỏ, bằng 1-100ppm).
Kali tổng số trong đất có thể từ 0.07-0.2% đặc biệt có nơi 3%. Nhưng kali trong đất phèn thường
nói đến là kali có khả năng trao đổi.
Loại đất phèn Địa điểm Độ sâu (cm) K
+
Na
+
Phèn nhiều Lê Minh Xuân
0-20
20-70
0.05
0.03
0.3
0.6
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 10
70-100 0.06 1.3
Phèn tiềm tàng Đồng Tháp
0-30
50-60
90-100
0.07
0.03
0.05
0.2
0.5
0.7
Phèn mặn Nhà Bè
0-25
40-50
80-90
0.14
0.11
0.06
3.2
3.8
2.6
Phèn trung bình Ô Môn
0-34
50-60
80-95
0.08
0.07
0.06
0.2
0.6
0.5
Phèn tiềm tàng
Cần Giờ
0-25
50-80
90-100
1.84
0.59
1.64
12.1
10.3
15.2
Bảng 4 : Kali và Natri trao đổi trong mộ số loại đất phèn
Đối với đất phèn tiềm tàng thì kali không nghèo nhưng với các loại phèn khác, kali hơi nghèo.
2.5 Natri trong đất phèn.
Bảng 4 cũng cho ta thấy, natri trao đổi (kí hiệu Na
+
) trong các loại đất phèn không thiếu, trong
đó ở đất phèn tiềm tàng và phèn mặn khá cao. Về mùa khô, Na
+
trong đó ở mặt đất tạo thành một
lớp muối NaCl trên lớp bùn mỏng, khô cong, nứt nẻ. Trên mặt đất khô cong ấy, có nổi lên những
lấm tấm li ti trắng đục của muối NaCl.
Sự có mặt của Na
+
nhiều lúc hạn chế sự ảnh hưởng của các ion phèn như Al
3+
, Fe
2+
, Fe
3+
và tạo
nên NaOH, làm tăng pH của đất lên, tức là hạn chế bớt phèn. Tuy nhiên, nếu lượng Na
+
quá lớn,
thì sẽ tạo nên phèn mặn và có thể tạo nên Na
2
CO
3
. Chất này ở phạm vi 0.1% đã hạn chế sự sinh
trưởng của cây, nếu trên 0.2% mọi cây trồng đều chết.
Có nhiều noi người ta bón muối (có Na
+
) để hạ phèn : điều này có thể thực hiện được. Tuy vậy,
sau đó sẽ làm cho đất mất màu nhanh chóng. Nhất là khi đất khô, làm đất kết gắn cứng nhắc, rất
rắn khó cày bừa.
Ở vùng phèn mặn, có thể Na sẽ tham gia phản ứng hóa học tạo một số sản phẩm như : acid
chlorhidric, CO
2
, H
2
S…
Natri Carbonate tích lũy sẽ gây ngộ dộc cho cây trồng. Tuy nhiên, điều này cũng rất ít khi xảy ra
ở đất phèn nhiều vì lượng Na không lớn lắm và khả năng để hoàn thành phản ứng không nhiều.
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 11
Ở đất phèn nhiều, Na có thể là dinh dưỡng, nhưng ở đất phèn mặn và phèn tiềm tàng ven biển
nên chú ý biện pháp loại bỏ ion này. Na
+
là cation hóa trị một, dễ tan, linh động, do đó dùng biện
pháp thủy lợi rửa mặn là tốt nhất.
Những phân tích ở đất phèn Ấn Độ và Thái Lan có lượng Na
2
O khoảng 0.1-0.6% trọng lượng
đất.
2.6 Canxi trong đất phèn.
Ca trong đất được giải phóng từ các nguồn đá vôi CaCO
3
, dolomite hoặc một số khoáng ogit,
amphibon, anoctit, tạo thành dạng Ca(OC
3
)
2
hay CaSO
4
.2H
2
O hoặc CaCl
2
trong đất phèn. Như
vậy, nguồn Ca ở đất phèn không tự nó có mà được tạo từ nguồn đá mẹ nơi khác đưa đến hoặc do
sự phá vỡ vỏ sò, vỏ hến tạo lập nên. Nếu trong điều kiện yếm khí , giàu CO
2
, thì CaCO
3
được tạo
thành carbonate Canxiacid.
CaCO
3
+ CO
2
+ H
2
O ↔ Ca(HCO
3
)
2
(phản ứng thuận nghịch, phụ thuộc vào nhiệt độ của đất).
Ca
2+
là một ion linh động dễ bị rửa trôi theo nước.
Trong phần hình thành phèn, đã nói rõ vai trò của ion Ca
2+
có thể ngăn cho quá trình phèn không
hình thành được, khi đầy đủ lượng này trong đất. Nếu lấy mức trung bình của canxi trong đất
Việt Nam là 0.2-0.4% thì ở đất phèn rất thiếu canxi, bởi vì nó chỉ ở mức 0.05-0.08%. Đất “kari”
(Ấn Độ) thường cũng ở mức này.
Loại đất Địa điểm Độ sâu (cm) Ca
2+
Mg
2+
Nơi phân tích
Phèn trung
bình
Hiệp Hòa
0-15
15-80
0.9
0.9
1.30
1.20
Sở Địa học
Phèn nhiều Ấp Bắc
0-40
45-65
0.18
0.18
0.10
0.125
Viện khoa học
Việt Nam
Phèn đang
chuyển hóa
Đồng Tháp
0-30
50-60
90-100
0.82
0.77
0.56
1.41
2.10
1.49
Viện QHTKNN
Phèn mặn
Vĩnh Thuận
Kiên Giang
0-10
30-40
50-60
100-110
0.50
0.50
0.25
0.25
16.0
10.2
11.2
12.5
Phèn tiềm
tàng
Cần Giờ
10-15
50-60
0.50
0.70
0.50
12.8
16.7
20.6
ĐHNN IV
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 12
105-110
Phèn nhiều Nhị Xuân
5-20
40-50
90-100
0.71
0.82
0.73
2.6
2.2
2.0
Bảng 5 : Lượng Mg
2+ ,
Ca
2+
trao đổi ở một số đất phèn(meq/100g)
Như vậy lượng trao đổi rất ít, từ 0.2-4 meq/100g đất. Đất càng nhiều phèn, thì khả năng thiếu
canxi càng rõ. Riêng đất phèn mặn (có pH tương đối cao hơn) và khi đất phèn tiềm tàng, lượng
Ca này có tăng, nhưng không nhiều. Khi Ca trong đất tăng, thì pH tăng, vi sinh vật hoạt động tốt
hơn và giảm được phèn. Ca cũng là chất dinh dưỡng của cây trồng, nhất là đối với cây họ đậu.
Vì vậy, việc bón vôi (tăng Ca cho đất phèn, nhất là đất phèn nhiều) là cần thiết.
2.7 Magie trong đất phèn
Mg thường đi kèm với Ca. Tuy nhiên, những hợp chất của Mg
2+
bền hơn là hợp chất của Ca
2+
. Ở
trong đất, Mg thường ở dạng MgSO
4
; trong đất phèn mặn có cả ở dạng MgCl
2
. vì Mg
2+
có nhiều
trong nước lợ, nước biển nên những vùng đất phèn có ảnh hưởng của thủy triều đều có nhiễm
Mg
2+
. Khi Mg
2+
tăng, độ phèn có thể giảm xuống một ít nhưng vai trò của nó thấp hơn Ca.
Lượng Mg
2+
trao đổi với đất phèn thường cao hơn Ca
2+
, ở khoảng 0.1-17meq/100g đất. Cũng
như Ca, Mg có ít ở đất phèn nhiều, còn đất phèn mặn và phèn tiềm tàng ven biển, giàu Mg hơn.
Mg
2+
cũng cần cho cây trồng, tuy nhiên sự biểu hiện thiếu Mg của cây vùng đất phèn chưa thấy
rõ.
2.8 Mangan (Mn
2+
) trong đất phèn
Mn có trong đất thực ra có thể có hóa trị khác nahu : Mn
2+
, Mn
4+
, Mn
3+
& Mn
6+
. Điều đó dẫn
đến sự có mặt phức tạp của Mn trong các hợp chất trong đất. Trong môi trường phèn, thường ở
dạng Mn
2+
nhiều hơn v à có khả năng chuyển thành Mn
4+
, rồi sau đó đất càng biến đổi theo thời
gian dần dần chuyển thành Mn
6+
. Khả năng di động của Mn
2+
khá lớn.
Mn
2+
- 2e Mn
4+
; Mn
4+
- 2e Mn
6+
Phân tích đất phèn nhiều, ít, trung bình, phèn mặn, than bùn phèn, mặn sú vẹt và đất phù sa, Chu
Đình Lân, Nguyễn Thị Hòa cho kết quả ở bảng 6:
Loại đất
Mn trao đổi trung bình trong các tầng đất (mg/kg đất)
Toàn phẫu diện Tầng mặt Tầng pyrit
Phèn ít 43.4 26.7 137.7
Phèn nhiều 74.5 65.9 159.3
Phèn mặn 81.6 59.8 262.5
Than bùn
phèn
136.7 49.7 250.0
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 13
Mặn sú vẹt 255.8 193.6 -
Phù sa 38.7 44.0 -
Bảng 6 : Lượng Mn
2+
trong đất phèn
Nếu cho MnO
2
ở nồng độ 1% sẽ làm chậm quá đường giảm của điện thế oxy hóa khử và khử
SO
4
, pH hơi gia tăng, làm giảm được nồng dộ của Al
3+
, Fe
3+
và những chất có thể bị oxi hóa,
tăng nồng độ của Mn
2+
. Ngoài ra, MnO
2
ở nồng độ 0.4% còn ngăn ngừa mạ không chết trong đất
thiếu vôi, ngăn ngừa sự ngộ độc sắt và cải thiện được sự tăng trưởng của lúa. Vai trò của MnO
2
tương đương với CaCO
3
.
Thông thường, trong đất phèn khi mới thành lập, lượng Mn khá cao, nhưng sau đó ba đến bốn
năm lượng này giảm dần. Cho nên, những năm sau đó không đáng lo ngại về sự gây độc của Mn
mà lo ngại sự thiếu hụt của chất này.
2.9 Vi lượng khác trong đất phèn
- Đồng (Cu) là một nguyên tố vi lượng trong đất phèn. Phân tích của Gran trên đất phèn Quảng
Đông thấy rằng Cu
2+
có từ 10-100ppm, có mặt trên toàn phẫu diện và thường ở dạng
chalcopyrite.
- Kẽm (Zn
2+
) kết quả của sở Địa Học cho thấy, thường thì tầng mặt ít kẽm (1-2ppm), tầng dưới
cao hơn nhiều(122-155ppm). So với các loại đất khác, đất phèn không nghèo kẽm.
- Coban (Co) ở đất phèn nhiều, một số mẫu tìm thấy Co=0.6-0.9ppm nghĩa là nghèo Co.
2.10 pH đất phèn.
Người ta đã chứng minh rằng : pH tương quan nghịch theo dạng với Al
3+
và Fe
2+
.
Bởi vậy, trong một ngày trung bình buổi sáng chênh lệch 0.15 đơn vị. Bởi vì, nhiệt độ lúc 7h và
11h30 chênh nhau 8-9
o
C. Sự chênh lệch nhiệt độ này, đưa đến sự khác nhau về hệ số phân ly của
H
+
, Al
3+
, Fe
2+
… và đưa đến pH khác nhau.
Trên đồng ruông pH thấp nhất trong đất là thời kì tháng 4.5 pH trong kênh nước phèn là tháng 5,
tháng 6, khi mà lượng mưa đã có đủ để rửa trôi một số ion SO
4
2-
, H
+
, Al
3+
, Fe
2+
vào kênh.
Nhưng pH của đất phèn mặn (pH đất tươi) lại khác ; mùa khô vì có ảnh hưởng của mặn, nên pH
có thể đạt đến 5.5 – 6.
pH biến động nhiều giữa 2 nghiệm thức khi đấ tươi và khô, nhất là trong đất phèn tiềm tàng.
Loại
Loại đất
1(0-10cm) 2(40-50cm) 3(70-80cm)
Tươi Khô Tươi Khô Tươi Khô
Phèn nhiều 4.35 4.23 4.60 4.50 4.30 4.10
Phèn ít 5.00 4.93 4.90 4.20 4.90 4.50
Phèn tiềm năng 5.75 4.60 5.90 4.50 5.40 3.20
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 14
Phèn mặn 6.15 4.65 6.55 5.30 6.30 4.20
B ảng 7 : Biến động pH ở đất tươi và khô
- pH phèn ít, biến đổi ít, trừ tầng 3 (tầng pyrite) xuống còn 0.4 đơn vị khi khô.
- pH phèn nhiều ở tầng 1 biến đổi ít, tầng 2 và biến đổi nhiều hơn.
- pH phèn tiềm tàng và phèn mặn biến đổi nhiều ở cả 3 tầng, nhất là tầng (pyrite hoặc hữu
cơ) : chênh lệch 0.8-2.2 đơn vị.
Trong một năm pH cao nhất là vào cuối mùa mưa vào các tháng 10, tháng 11, trong tháng 7,8
khi gặp hạn bà chằng, pH đột nhiên giảm thấp, vì khô hạn phèn bốc lên mặt. Đầu mùa mưa, khi
lượng nước mưa chưa đủ rửa trôi phèn thỉ pH thấp xuống, có nhiều lúc dưới mức an toàn. pH có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự nảy mầm ra rễ của các giống cây trồng. pH là yếu tố dễ nhận biết
thường được sử dụng đầu tiên để đánh giá tính phèn của một số loại đất phèn. Nhưng pH không
thể nói được hết bản chất của đất phèn.
2.11 Một số quá trình hóa học xảy ra trong đất phèn.
Có rất nhiều quá trình biến đổi hóa học trong đất phèn. Sự biến đổi này phụ thuộc vào điều kiện
khí hậu, địa hình và chế độ nước của từng khu vực và sự tham gia của các vi sinh vật. Nhưng nổi
bật có quá trình hóa học chính trong ba việc hình thành và phát triển của đất phèn, đó là :
- Quá trình hình thành pyrite
- Quá trình oxy hóa
- Quá trình khử
2. 12. Độ độc của Fe
3+,
Al
3+
và của SO
4
2-
(sulfat) ở đất phèn .
Các độ độc của Al
3+
tự do và của SO
4
2-
và Fe
3+
tự do đối với cây lúa :
Al
3+
:
Các kết quả cho biết :
Al
3+
sẽ không độc đối với cây lúa khi pH cao hơn 5,5 vì lý do các Al
3+
sẽ trầm hiện phần lớn ở pH
này.
Nếu nồng độ của Al
3+
trong dung dịch này quá 40 ppm và trong cây lúa quá 260ppm thì cây lúa
đã có dấu hiệu nhiễm độc Al
3+
.
Các dấu hiệu ngộ độc Al
3+
:
- Phần giữa gân lá bị vàng.
- Nhiều chấm nâu hay gạch nâu xuất hiện giữa các gân lá bị vàng, ( đừng lầm với các giai
đoạn lúa nhiễm bệnh gạch nâu, đốm nâu hay cháy lá).
Fe
3+
:
Nồng độ của Fe ở các bộ phận của cây lúa cũng tùy theo nồng độ Fe3+ dung dịch.
Hễ dung dịch chứa càng nhiều Fe bao nhiêu thì tỉ lệ Fe ở cây lúa cũng cao bấy nhiêu, tuỳ bộ
phận cây lúa. Fe
3+
sẽ bắt đầu trở nên độc khi tỉ lượng trên 350ppm, ở cây lúa hay trên 100ppm
dung dịch. Lúa bị ngộ độc sẽ có màu đỏ nâu đồng đều khắp lá.
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 15
SO
4
2-
:
Nhiều sulfat ở dung dịch thì sự hấp thụ của Ca
2+
ít đi. Sự hấp thụ Na
+
và K
+
gia tăng, làm mất sự
thăng bằng các cation trong nhu mô cây cối. Các nhu mô này sẽ đỏ, cháy đen và chết.
III.Quá trình phèn hóa:
Việt Nam là một trong những nước có nhiều đất phèn, diện tích khoảng 1,863 triệu ha tập trung
ở đồng bằng sông Cửu Long và rải rác ven biển từ Hải Phòng đến Ninh Bình. Đất phèn hình
thành ở các vùng trũng khó thoát nước, giầu chất hữu cơ và dưới ảnh hưởng của biển thoái. Phèn
hoá bao gồm hai quá trình mặn hoá và chua hoá. Các muối gây mặn chủ yếu là NaCl và Na
2
SO
4
,
nguồn muối phèn cũng có thể từ mẫu chất đưa lại, nhưng không nhiều so với nguồn gốc trầm
tích biển. Đến nay các nhà thổ nhưỡng Việt Nam thống nhất quá trình phèn hoá xảy ra do các
hợp chất chứa S tích luỹ lại, tạo ra H2SOtrong điều kiện thuận lợi cùng với sự tích luỹ sinh học
các muối có chứa gốc lưu huỳnh. Hai dạng khoáng chứa lưu huỳnh phổ biến là pyrit và jarosit
tạo thành các ổ khoáng thứ sinh nguyên chất trong các mẫu chất của đất phèn.
Xác hữu cơ của quần thể cây ngập mặn (mắm, bần, đước, sú, ) phân giải yếm khí hình thành ra
các dạng khử H
2
S, FeS, khi bị oxy hoá chúng biến thành H
2
SO
4
. Axit sulfuric kết hợp với nhôm
di động hoặc hợp chất nhôm để tạo ra phèn Al
3
(SO
4
)
2
. Phèn bị thuỷ phân tạo ra một lượng axit
mới. Nguồn Fe và Al có thể là từ hai nguồn: sesquioxit có trong huyền phù của phù sa hoặc muối
Fe và Al có nguồn gốc biển. Vì lẽ nguồn sinh phèn nằm ngay trong nội tại mẫu chất sinh thành
đất nên biện pháp cải tạo chỉ có thể là giảm thiểu oxy hoá, ngăn chặn việc sinh ra quá nhiều axit
H
2
SO
4
chứ khó có thể chuyển hoá đất phèn thành đất không phèn. Từ đó có thể thấy một ứng
dụng thực tế là cần phải giữ rừng ngập mặn, rừng tràm cùng với lớp than bùn phủ trên mặt đất để
"ém phèn", luôn luôn giữ đất trong trạng thái khử.
Các loại đất và trầm tích dễ trở thành đất phèn nhất là các loại được hình thành trong phạm vi
10.000 năm trở lại đây, sau sự kiện dâng lên của nước biển (biển tiến) lớn nhất gần đây. Khi mực
nước biển dâng lên và làm ngật đất, sulfat trong nước biển trộn lẫn với các trầm tích đất chứa các
ôxít sắt và các chất hữu cơ. Trong các điều kiện hiếm khí này, các vi khuẩn ưa phân hủy các chất
vô cơ như Thiobacillus ferrooxidans tạo ra các sulfua sắt (chủ yếu là dạng pyrit). Tới một thời
điểm nhất định, nhiệt độ ấm hơn là điều kiện thích hợp hơn cho các vi khuẩn này, tạo ra một
tiềm năng lớn hơn cho sự hình thành của các sulfua sắt. Các môi trường ngập nước vùng nhiệt
đới, chẳng hạn các khu rừng đước hay các khu vực cửa sông, có thể chứa hàm lượng pyrit cao
hơn so với các môi trường tương tự nhưng ở vùng ôn đới.
Pyrit là ổn định cho tới khi nó bị lộ ra ngoài không khí, từ thời điểm này thì pyrit bị ôxi hóa và
sinh ra axít sulfuric. Ảnh hưởng của đất phèn có thể kéo dài trong một khoảng thời gian lớn,
và/hoặc lên tới đỉnh theo mùa (sau thời kỳ khô hạn và khi bắt đầu có mưa). Tại một số khu vực,
đất phèn đã thau chua từ khoảng 100 năm trước vẫn còn giải phóng ra axít, như tại Australia.
Các điều kiện hình thành khoáng pyrit là:
Sự khử hóa của các ion sulfat (SO
4
2-
) thành sulfua (S
2-
) do vi khuẩn phân hủy chất hữu cơ khử
sulfat;
Sự ôxi hóa từng phần của sulfua tạo thành lưu huỳnh nguyên tố hoặc các ion polysulfua;
Sự hình thành của sulfua sắt (II) (FeS) bởi sự tổng hợp của các sulfua hòa tan với sắt. Sắt hầu hết
xuất phát nguồn gốc từ ôxít sắt (III) và các silicat trong trầm tích, nhưng sắt bị khử để tạo thành
Fe (II) bởi hoạt động của vi sinh vật.
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 16
Sự hình thành của pyrit do sự tổng hợp của sulfua sắt (II) (FeS) và nguyên tố lưu huỳnh (S).
Pyrit có thể có thể kết tủa trực tiếp từ sắt (II) hòa tan và những ion polysulfua (Goldhaber và
Kaplan, 1974).
Sự hình thành pyrit với ôxít sắt III (Fe
3+)
như là nguồn của sắt có thể trình bày bằng phản ứng
tổng quát như sau:
Fe
2
O
3
(rắn) + 4SO
4
2-
(dd) + 8H
2
O + 1/2O
2
(dd) → 2FeS
2
(rắn) + 8HCO
3
-
(dd) + 4H
2
O
Những điều kiện cần thiết để hình thành pyrit có thể xem xét như sau:
Môi trường yếm khí: Sự khử sulfat xảy ra chỉ dưới những điều kiện khử mãnh liệt mà nó chỉ
được cung cấp bởi trầm tích trầm thủy giàu chất hữu cơ. Sự phân hủy các chất hữu cơ bởi những
vi sinh vật kỵ yếm khí sinh ra một môi trường khử. Sự ôxi hóa gián đoạn hoặc cục bộ cũng xảy
ra cần thiết để sinh ra lưu huỳnh nguyên tố trên những ion polysulfua (Pons và ctv, 1982).
Nguồn của sulfat hòa tan: Thường thì nguồn này từ nước biển hoặc nước lợ thủy triều, các pyrit
thỉnh thoảng có thể kết hợp với nước ngầm giàu sulfat (Poeman, 1973).
Chất hữu cơ: Sự ôxi hóa chất hữu cơ cung cấp cho sự đòi hỏi năng lượng của vi sinh vật khử
sulfat. Những ion sulfat phục vụ như ổ electron cung cấp cho vi sinh vật hô hấp và do đó sulfat
bị khử để thành sulfua.
SO
4
2-
+ 2CH
2
O
→ H
2
S + 2HCO
3
-
Lượng sulfua được sinh ra liên quan trực tiếp đến lượng chất hữu cơ bị chuyển hóa. Berner
(1970) đã chú ý một sự tương ứng gần giữa chất hữu cơ và lượng pyrit của trầm tích và gợi ý
rằng nguồn cung cấp chất hữu cơ thường giới hạn lượng pyrit sinh ra.
Nguồn chất sắt: Hầu hết đất và các trầm tích đều có chứa rất nhiều các ôxít và hydroxit sắt.
Trong một môi trường yếm khí, chúng bị khử để hình thành Fe
2+,
và Fe
2+
hòa tan một cách đáng
kể trong dãy pH bình thường và có thể bị di động do những sản phẩm hữu cơ hòa tan.
Thời gian: Vẫn còn hạn chế kiến thức hiểu biết về tốc độ hình thành khoáng pyrit trong môi
trường tự nhiên. Phản ứng chất rắn – chất rắn giữa FeS và S xảy ra rất chậm, có thể kéo dài từ
hàng tháng đến hàng năm để có thể sản sinh ra pyrit với một lượng có thể đo được, ngược lại,
dưới điều kiện thích hợp, sự kết tủa trực tiếp từ những Fe
2+
hòa tan và polysulfua có thể sản sinh
ra pyrit trong vài ngày.
Độ chua tiềm tàng chỉ có thể phát triển nếu ít nhất một phần của độ kiềm, hình thành trong suốt
thời gian khử sulfat, bị di chuyển ra ngoài hệ thống. Việc rửa bởi hoạt động thủy triều dường như
ảnh hưởng đặc biệt trong việc di chuyển HCO3-, hồi phục lại SO
4
2-
và cung cấp một lượng ôxy
hòa tan giới hạn và nó cần thiết cho sự hình thành pyrit.
Trong điều kiện thoáng khí như thoát thủy, mực thủy cấp xuống sâu hơn sẽ làm cho khoáng pyrit
bị ôxi hóa thành các khoáng sắt ở dạng Fe (III) và các hợp chất khác cũng như có nhiều ion H
+
được sinh ra. pH giảm thấp, nhiều hợp chất bị hòa tan và môi trường trở nên rất axít và rất độc,
ảnh hưởng đến sinh trưởng cho thực vật và thủy sản.
Khoáng pyrit chỉ ổn định dưới những điều kiện khử. Sự thoát thủy dẫn đến những điều kiện ôxi
hóa, khởi đầu sự ôxi hóa của pyrit và sự sản sinh của độ axít. Sự ôxi hóa của pyrit trong đất phèn
xảy ra ở vài giai đoạn, bao gồm cả hai tiến trình hóa học và sinh học.
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 17
Sulfat nhôm mao dẫn lên mặt đất vào mùa khô trong vùng đất phèn
Đồng Tháp Mười. Lê Phát Quới, 2005
Sulfat nhôm mao dẫn lên mặt đất vào mùa khô trong vùng đất phèn Đồng Tháp Mười. Lê Phát
Quới, 2005
Khởi đầu, ôxy hòa tan sẽ phản ứng chậm với pyrit, mang lại ion Fe (II), và sulfat hoặc lưu huỳnh
nguyên tố:
FeS
2
+ ½ O
2
+ 2H
+
→ Fe
2+
+ 2S + H
2
O
Sau đó, sự ôxi hóa của lưu huỳnh do ôxy thì rất chậm, nhưng có thể được xúc tác bởi vi sinh vật
tự dưỡng ở những giá trị pH gần trung tính:
S + 3/2O
2
+ H=O
→ SO
4
2-
+ 2H
+
Sự axít hóa đầu tiên cũng có thể gây ra do sự ôxi hóa hóa học của sulfua Fe vô định hình, mặc dù
chỉ một lượng nhỏ của FeS hiện diện, ngay cả trong một tầng màu đen.
2FeS
2
+ 9/2O
2
+ (n+2) H
2
O
→ Fe
2
O
3
.nH
2
O + 2SO
4
2-
+ 4H
+
Một khi pH của hệ thống ôxi hóa gây ra pH nhỏ hơn 4 thì Fe
3+
trở nên hòa tan một cách đáng kể
và dẫn đến sự ôxi hóa nhanh chóng.
Phản ứng của Fe (III) với lưu huỳnh thì xảy ra nhanh chóng và phản ứng tổng quát của pyrit do
Fe (III) có thể đại diện như sau:
FeS
2
+ 14Fe
3+
+ 8 H
2
O
→ 15Fe
2
+ + 2SO
4
2-
+ 16H
+
Với sự hiện diện của ôxy, Fe (II) được sản sinh từ những phản ứng này sẽ bị ôxi hóa để hình
thành Fe (III). Ở những giá trị pH thấp hơn 3,5 sự ôxi hóa hóa học là một tiến trình chậm. Nhưng
ở pH thấp, vi khuẩn Thiobacillus ferrooxidans ôxi hóa các dạng lưu huỳnh khử, cũng như Fe (II),
do đó, để quay lại dạng Fe (III) trong hệ thống đất (Arkesteyn, 1980).
Fe
2+
+ ¼ O
2
+ H
+
→ Fe
3+
+ 1/2 H
2
O
Van Breemen (1976) đưa ra giả thuyết rằng ôxy phản ứng với Fe (II) hòa tan trước khi nó tiến
gần đến pyrit, và Fe (III) đó là chất ôxi hóa trực tiếp, như được trình bày trong biểu đồ dưới đây.
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 18
Hình : Mô hình ôxi hóa pyrit trong đất phèn. Nguồn: Nico Van Breemen, 1976
(a) Trong suốt mùa khô, ôxy khuếch tán vào trong đất từ những tế khổng và ở những chỗ nứt.
Những ion Fe
2+
trong dung dịch bị ôxi hóa thành những ion Fe
3+
hoặc ôxít Fe (III). Ở pH thấp,
vài Fe
3+
còn lại trong dung dịch, khuếch tán vào bề mặt của vùng pyrit và tại đây nó bị khử để
thành Fe
2+
giải phóng nhiều axít hơn.
b) Vài phản ứng ôxi hóa của pyrit có thể tiếp tục dưới những điều kiện trầm thủy và axít, sử
dụng sự dự trữ của ôxít Fe(III). Trong những trường hợp nầy, những ion Fe
2+
di cư ra khỏi đất
vào trong hệ thống kênh mương hoặc vào trong vùng nước ngập trước khi bị ôxi hóa.
Hầu hết độ axít sinh ra bởi sự ôxi hóa của pyrit do Fe(III) đều trải qua một sự ôxi hóa tiếp theo
của Fe (II) để quay trở lại Fe (III).
Phản ứng này biểu diễn kết quả chung với hydroxit Fe (III) như một sản phẩm cuối cùng. Kết
quả 1 mol của pyrit khi bị ôxi hóa sẽ phóng thích ra 4 mol axít.
IV. Phân loại đất phèn :
Trong phân loại đất phèn, thì nhóm đất phèn mà chúng ta sử dụng trên bản đồ theo phân loại của
FAO – UNESCO chỉ là cấp đơn vị (soil units) nằm trong 3 nhóm đất: Đất phù sa (Fluvisols), Đất
glây (Gleysols) và nhóm đất than bùn (Histosols), như vậy sẽ có các đơn vị đất phèn sau đây:
- Đất phù sa phèn (Thionic Fluvisols)
- Đất glây phèn (Thionic Gleysols)
- Đất than bùn phèn (Thionic Histosols)
Có nhiều cách để phân loại đất phèn. Dựa trên sự hình thành và phát triển của đất, Pons (1973)
đã chia đất phèn ra làm hai loại:
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 19
1.Đất phèn tiềm tàng:
Đất phèn tiềm tàng (theo phân loại FAO: Proto-Thionic Fluvisols) là đơn vị đất thuộc nhóm đất
phù sa phèn. Đất phèn tiềm tàng được hình thành trong điều kiện khử, ở vùng chịu ảnh hưởng
của nước có chứa nhiều sulfat. Trong điều kiệm yếm khí cùng với hoạt động của vi sinh vật,
sulfat bị khử để tạo thành lưu huỳnh và chất này sẽ kết hợp với sắt có trong trầm tích để tạo
thành FeS
2
.
Thành phần khoáng vật của đất phù sa phèn vùng nhiệt đới có thể rất đa dạng và tùy thuộc chủ
yếu vào nguồn gốc của vật liệu phù sa.
Để có thể nhận dạng đất phèn tiềm tàng, một trong những đặc điểm quan trọng nhất là hình thái
phẫu diện đất. Do hiện diện trong điều kiện khử và có tầng sinh phèn nên thường nền đất có màu
xám đen, nhất là nơi có chứa khoáng pyrit (FeS
2
). Mật độ và phân bố của các khoáng pyrit đủ để
hình thành một tầng sinh phèn (sulfidic). Ngoài ra, trong phèn tiềm tàng có thể có nhiều hợp chất
khác như H
2
S, các ocid Fe, Al, các hợp chất hữu cơ Một số nơi, nền đất có thể có màu xám hơi
xanh nhưng quan sát kỹ thì chúng ta có thể nhận dạng ra được những đốm đen chen lẫn trong
đất. Đất kém phát triển, không thuần thục nên thường không có cấu trúc hoặc có cấu trúc rất yếu
trên tầng mặt. Thường đất có chứa nhiều chất hữu cơ phân hủy đến bán phân hủy và có thể quan
sát bằng mắt thường. Do phẩu diện đất thường được bảo hòa nước thường xuyên nên ẩm độ đất
khá cao ngay cả trong mùa khô.
2. Đất phèn hoạt động (hay đất phèn thật sự):
Hình thành trong điều kiện phải có sự ôxi hóa. Đất phèn hoạt động là một đơn vị đất thuộc nhóm
đất phèn. Đất phèn hoạt động được hình thành sau khi đất phèn tiềm tàng diễn ra quá trình oxi
hóa.
Khi đất phèn tiềm tàng bị ôxi hóa để trở thành đất phèn hoạt động thì hình thái đất bị biến đổi
đầu tiên với sự hiện diện của tinh khoáng jarosit (Kfe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
) màu vàng rơm (2.5Y8/6 –
theo bảng so màu đất Munsell).
Đây là khoáng có màu đặc trưng dùng để chẩn đoán tầng phèn và là một trong những tiêu chuẩn
được dùng để phân loại đất phèn hoạt động. Thông thường, các khoáng này tập trung ở những
khe nứt, ống rễ thực vật bị phân hủy và có thể phân bố tập trung hoặc phân tán đều tùy theo điều
kiện ôxy xâm nhập vào trong đất. Ngoài ra, có thể có những khoáng hydroxit sắt (III) (Fe(OH)
3
)
màu nâu trong những tế khổng đất. Khi đất phèn hoạt động trải qua một thời gian khá dài, các
khoáng geothit (FeO.OH) màu vàng hoặc nâu và khoáng heamatit (Fe
2
O
3
) màu đỏ hiện diện
trong đất thông qua tiến trình thủy phân; phần lớn các khoáng nầy thường thì nằm bên trên các
khoáng jarosit nhưng cũng có thể nhìn thấy chúng xuất hiện cùng với tầng sulfuric. Các khoáng
geothit màu nâu – vàng đậm có thể tạo thành những hạt kết von nhỏ khá cứng nằm dọc theo ống
rễ thực vật đã bị phân hủy.
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 20
Khoáng Jarosit (Kfe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
) trong tầng sulfuric của đất phèn ở
Đồng bằng Sông Cửu Long, Việt Nam
Khi đất đã bị ôxi hóa thì nó bắt đầu phát triển, ngoại trừ bị ngập nước trở lại, là cùng lúc đất bắt
đầu hình thành cấu trúc. Qua quan sát hình thái, cấu trúc yếu đã hình thành ở ngay tầng mặt và
tầng phèn; sau khi phát triển một thời gian cùng với độ dầy tầng đất được thoáng khí thì cấu trúc
cũng phát triển theo, và lúc này một cấu trúc trung bình có thể được quan sát ngay tại thực địa.
Qua nhiều phẫu diện đất phèn ở vùng châu thổ sông Mekong cho thấy phần lớn có cấu trúc lăng
trụ hoặc cấu trúc khối. Tuy nhiên, ở tầng phèn thì các cấu trúc nầy thường bị phá vỡ do sự hình
thành jarosit để hình thành những kết cấu đất có cấu trúc nhỏ. Đặc tính này thường thấy ở những
đất phèn hoạt động phát triển khá.
* Dựa vào hàm lượng SO
3
% trong đất người ta còn có thể chia đất phèn thành 3 loại :
- Đất phèn yếu: 0,50 – 1 % hàm lượng SO
3
% tổng số trong đất khô.
- Đất phèn trung bình: 1 – 1,75 % hàm lượng SO
3
% tổng số trong đất khô.
- Đất phèn mạnh > 1,75 % hàm lượng SO
3
% tổng số trong đất khô.
* Dựa vào pH người ta phân ra :
- Đất phèn yếu : pH = 4,5 – 5,5
- Đất phèn trung bình : pH = 3,5 – 4,5
- Đất phèn mạnh: pH < 3,5
* Ngoài ra, người ta còn chia đất phèn bằng cách phân loại theo độ sâu, theo độ sâu của tầng
phèn trong đất thì đất phèn được chia thành 3 loại:
- Đất phèn nặng : có tầng phèn hoạt động nằm ở cách mặt đất khoảng 50cm.
- Đất phèn trung bình : tầng phèn nằm cách mặt đất từ 50 – 100cm
- Đất phèn nhẹ : tầng phèn nằm cách mặt đất 100 – 150cm.
Với độ sâu trên 150cm thì chúng ta không cần quan tâm bởi vì vật liệu sinh phèn đã ở xa vùng rễ
nên sẽ không gây ảnh hưởng cho cây trồng. Như vậy đất nào có tầng phèn càng ở gần mặt đất
hay gần vùng rễ cây thì đó là đất phèn nặng.
* Còn theo kinh nghiệm của những người nông dân lâu năm dựa vào hình thái của đất phèn, họ
cũng chia đất phèn thành những loại sau:
- Đất phèn chua: để ý đến “phèn chua” màu xanh hay trắng nổi lên vào mùa nắng trên mặt đất.
- Đất phèn ống: Để ý các cọng rơm rạ còn nguyên ở lớp đất mặt có phèn và màu đen đậm ở
phần đất khá sâu của trắc diện. Các cọng rơm có thể đỏ ở trong ruột vì các thể sắt của nước phèn
bị oxit hoá ở ống rạ chứa không khí gọi là đất phèn ống.
- Đất phèn nóng và đất phèn lạnh: Về phương diện thực vật học thì để ý đến các cỏ năng và cỏ
bàng. Hễ năng có lá nhỏ (năng kim) và thấp chừng nào thì “phèn” càng nhiều chừng ấy (gọi là
đất phèn lạnh). Cỏ năng khá lớn nhưng hay có nhiều các loại cỏ lát thì đất ít phèn (“phèn nóng”).
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 21
Đất có cỏ bàng cũng là đất phèn nhiều, mùa nắng thường hay có “phèn chua” trắng hay xanh
đóng váng trên mặt đất.
- Đất phèn cứt chuột: Để ý các loại đất “ cứt chuột” màu vàng nhạt ở giữa các cục đất bị cuốc xới
hay ở bờ đê các ruộng phèn trong mùa nắng. Các màu vàng này do sulfat sắt tam gây ra ( lưu ý
sulfat sắt nhị màu xanh). Riêng các oxit sắt tam ít ngậm nước thì sẽ trở màu vàng cam rồi đỏ
thắm, đỏ nâu.
IV. Sự phân bố đất phèn
1. Phân bố đất phèn trên thế giới:
Hình 1 :Sự phân bố đất phèn trên thế giới
Diện tích đất phèn trên thế giới khoảng 15 triệu ha, chủ yếu xuất hiện ở các vung ven biển nhiệt
đới hay cận nhiệt đới, thuộc các nước Nhật Bản, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Bangladesk,
Maylasia, Pakilan và một số đảo của Indonexia,Đông Timo, Việt Nam.Nghĩa là bờ biển các nước
Đông Nam Á điều có đất phèn.
Ngoài vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới Châu Á ,đất phèn còn xuất hiện Guianas,
Venezuela,Barzin, Agentina và nhữnh vùng ven biển thuộc lưu vực Đông Amzon,một số nước
Tây Phi với một diện tích rộng lớn và ở Đông Phi với diện tich ít hơn.Con số thống kê về diện
tích chưa thật chính xác, nhưng theo Van Breemen, hay theo số liệu Pons và của hầu hết đất
phèn ở miền Tây Moormann thì Tây Châu Phi đã có trên 7 triệu ha đất phèn, Đông Nam Á trên 5
triệu ha.Riêng loại đất phèn tiềm tàng của vùng nhiệt đới, theo kawlec(1973) đã có ít nhất là 7,5
triệu ha.
Một số đất phèn cũng được tìm thấy ở Hà Lan, nơi đất liền thấp hơn cả mặt biển, hoặc ở miền
Bắc của Ba Lan nhưng đay là những loại đất phèn không điển hình.
2. Phân bố đất phèn tại Việt Nam:
Theo số liệu 1982 của Tổng Cục quản lý ruộng đất (nay là Tổng cục Địa chính) thì nhóm đất
phèn ở Việt Nam có diện tích là: 2.140.306 ha trong đó không có chia thành 2 đơn vị đất phèn,
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 22
loại đất phèn tiềm tàng và loại đất phèn hoạt động, mà chỉ có loại đất phèn chung và được phân
bố theo 6 vùng trong cả nước như sau: (theo mức độ phèn và sự nhiễm mặn trong mùa khô).
Hình 2 : Sự phân bố đất phèn ở Việt Nam
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 23
Tên đất Cả nước
(ha)
Đông
Bắc bộ
(ha)
Đồng
bằng
sông
Hồng
(ha)
Khu
IV cũ
(ha)
Duyên
hải
Nam
Trung
bộ
(ha)
Đông
Nam bộ
(ha)
Đồng
bằng sông
Cửu Long
(ha)
Đất phèn 2.140.306 7.600 79.209 21.146 7.135 139.326 1.885.890
1.Đất phèn
nhiều
2.Đất phèn
trung bình và
ít
3.Đất phèn
nhiều và mặn
4.Đất phèn
trung bình và
ít mặn.
286.241
640.804
530.064
683.197
-
7.600
-
79.209
-
21.146
-
-
74
936
6.125
13.408
42.844
63.892
19.182
272.833
597.886
444.000
571.081
Bảng 12: Diện tích các loại đất phèn ở các vùng của Việt Nam
(Nguồn: Tổng cục Quản lí ruộng đất, 1982)
Như vậy các loại đất phèn tập trung chủ yếu ở miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long
chiếm tới 2.025.216 ha (chiếm 94,6 % tổng diện tích đất phèn trong cả nước). Riêng đồng bằng
sông Cửu Long (Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau) chiếm tới hơn 88
% diện tích đất phèn trong cả nước. Đến năm 1996, nhóm biên tập bản đồ đất tỷ lệ 1/1.000.000
theo phân loại định lượngcủa FAO – UNESCO thì:
- Nhóm đất phèn (Thionic Fluvisols) có diện tích 1.863.128 ha và được chia thành 2
đơn vị:
• Đất phèn tiềm tàng (Proto – thionic Gleysols) có diện tích 652.244 ha (bao gồm cả đất
phèn tiềm tàng dưới rừng ngập mặn).
• Đất phèn hoạt động (Orthi – thionic Fluvisols) có diện tích 1.210.884 ha.
CHƯƠNG II : HIỆN TRẠNG KHAI THÁC SỬ DỤNG ĐẤT PHÈN
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế
được của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là
địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 24
phòng. Bởi vậy việc khai thác sử dụng hợp lí đất đai có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất nông nghiệp lớn gấp ba lần đồng bằng sông Hồng.
Bình quân đầu người gần 0,18 ha/người. Dải phù sa nước ngọt ở ven sông Tiền, sông Hậu trồng
được lúa 2 – 3 vụ/năm. Trước đây phần lớn diện tích đất trồng lúa nằm ngoài dải này chỉ cấy một
vụ (vụ mùa) còn bị bỏ hoá về vụ chiêm xuân do đất bốc phèn hoặc mặn. Các công trình thuỷ lợi
lớn, cải tạo đất đã và đang được tiến hành ở Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên và bán đảo
Cà Mau. Nhờ thế hàng trăm nghìn ha đã được đưa vào sử dụng, trờ thành ruộng hai vụ. Thêm
vào đó, hàng trăm nghìn ha đất ven biển có thể cải tạo để nuôi trồng thuỷ sản, đem lại hiệu quả
kinh tế cao. Vấn đề sử dụng hợp lí tài nguyên đất ở đồng bằng sông Cửu Long gắn liền với quy
hoạch tổng thể phát triển thuỷ lợi của vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm phần đất nằm trong phạm vi tác động của các nhánh
sông Cửu Long (thượng và hạ châu thổ) và phần đất nằm ngoài phạm vi tác động đó (đồng bằng
phù sa ở rìa. Phần thượng châu thổ là một khu vực tương đối cao (2 – 4m so với mực nước biển),
nhưng vẫn bị ngập nước vào mùa mưa. Phần lớn bề mặt có nhiều vùng trũng rộng lớn. Vào mùa
mưa, chúng chìm sâu dưới nước, còn vào mùa khô chỉ là những vũng nước tù đứt đoạn. Đây là
vùng đất rộng, dân còn thưa, chưa được khai thác nhiều. Phần hạ châu thổ thấp hơn, thường
xuyên chịu tác động của thuỷ triều và sóng biển. Mực nước trong các cửa sông lên xuống rất
nhanh, những lưỡi nước mặn ngấm dần vào trong đất. Ngoài các giống đất ở hai bên bờ sông và
các cồn cát duyên hải, trên bề mặt đồng bằng cao 1 – 2m còn có các khu vực trũng ngập nước
vào mùa mưa và các bãi bồi trên sông. Các đồng bằng phù sa ở rìa tuy nằm ngoài phạm vi tác
động trực tiếp của sông nhưng vẫn được cấu tạo bởi phù sa sông (như đồng bằng sông Đồng Nai,
đồng bằng Cà Mau). Thiên nhiên đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng với nhiều tiềm năng và
không ít trở ngại. Ở đây, trên nền nhiệt đới ẩm, tính chất cận xích đạo của khí hậu thể hiện hết
sức rõ rệt. Hệ thống sông ngòi và các kênh rạch chằng chịt cắt xẻ châu thổ thành những ô vuông
làm cho việc giao thông bằng đường thuỷ trở nên dễ dàng. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất là mùa
khô kéo dài, là sự xâm nhập sâu vào đất liền của nước mặn, sự tăng cường độ chua và chua mặn
trong đất cũng như những tai biến do thời tiết, khí hậu đôi khi có thể xảy ra.
Mặc dù thổ nhưỡng ở châu thổ là đất phù sa, nhưng tính chất của nó rất phức tạp. Có 3 loại đất
chủ yếu. Đất phù sa ngọt ven sông là loại đất tốt nhất, chạy thành một dải dọc sông Tiền và sông
Hậu. Đất phèn chiếm diện tích lớn nhất, phân bố thành các vùng tập trung (Đồng Tháp Mười, Hà
Tiên, Cần Thơ). Đất mặn phân bố ở cực Nam Cà Mau và dải đất duyên hải Gò Công, Bến Tre.
Những trở ngại chính khi canh tác là đất thiếu dinh dưỡng, nhất là thiếu các nguyên tố vi lượng,
đất quá chặt, khó thoát nước. Sinh vật cũng là nguồn tài nguyên quan trọng của đồng bằng.
Thảm thực vật gồm 2 thành phần chủ yếu là rừng ngập mặn và rừng tràm. Về động vật, có giá trị
hơn cả là cá và chim.
Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều ưu thế hơn về điều kiện tự nhiên so với đồng bằng sông
Hồng. Tuy vậy, việc sử dụng và cải tạo tự nhiên ở đây lại trở thành một vấn đề cấp bách nhằm
biến đồng bằng thành một khu vực kinh tế quan trọng của đất nước.
Nước cũng là một vấn đề hàng đầu ở đồng bằng sông Cửu Long. Một hạn chế đáng kể cho việc
sử dụng hợp lí đất đai trong vùng là việc đất bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Vì vậy, cần có nước để
rửa phèn, rửa mặn trong mùa khô. Để đối phó với sự khô hạn làm bốc phèn và bốc mặn, nguồn
nước ngọt trong các dòng sông và nước dưới đất có ý nghĩa đặc biệt. Vào mùa khô rất thiếu nước
ngọt. Nhân dân địa phương đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để rửa phèn, rửa mặn, và đã
đạt được kết quả nhất định. Cách tốt hơn cả, có thể là chia đồng bằng thành các ô nhỏ để có đủ
nước thau chua, rửa mặn; đồng thời kết hợp với việc tạo ra các giống lúa chịu được phèn hoặc
Đất phèn Nhóm MT_pro
GVHD Nguyễn Trường Ngân 25
mặn trong điều kiện nước tưới bình thường. Đối với khu vực rừng ngập mặn phía Tây Nam đồng
bằng, có thể từng bước biến thành những bãi nuôi tôm, trồng sú, vẹt, đước kết hợp với việc bảo
vệ môi trường sinh thái; cải tạo dần diện tích đất mặn, đất phèn, thành những vùng đất phù sa
mới để trồng cói, lúa, cây ăn quả. Việc sử dụng và cải tạo tự nhiên vùng này không tách khỏi
hoạt động kinh tế của con người. Vết tích của chiến tranh vẫn còn tồn tại. Tình trạng độc canh
lúa còn tương đối phổ biến. Điều đó đòi hỏi phải chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phá thế độc canh,
đẩy mạnh việc trồng cây công nghiệp có giá trị cao, kết hợp với nuôi trồng thuỷ sản, phát triển
công nghiệp chế biến. Đối với vùng biển, hướng chính trong tổ chức lãnh thổ kinh tế là kết hợp
mặt biển với đảo, quần đảo và đất liền để tạo nên một thế kinh tế liên hoàn. thập niên gần đây ở
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã xảy ra nhiều trận lũ lớn làm ngập lụt trên diện rộng và
gây ra những thiệt hại khá nghiêm trọng về người và tài sản của nhân dân cũng như của nhà
nước. Đặc biệt đỉnh lũ năm nay xuất hiện sớm hơn bình thường hàng tháng, nhiều nơi lúa hè thu
chưa kịp thu hoạch đã bị mất trắng; lũ tràn mạnh, mức ngập lụt trong đồng bằng cao hơn bình
thường và trái quy luật đã gây thiệt hại rất nghiêm trọng cho nhiều tỉnh. Trước tình hình đó, vấn
đề quản lý ĐBSCL, một đồng bằng ngập lụt hàng năm lại được bàn luận sôi nổi. Qua bài viết
này, chúng tôi cũng xin tham gia một vài ý kiến xung quanh việc phát triển vựa thóc số 1 này
của đất nước.
Lũ và ngập lụt ở ĐBSCL hàng năm đã gây thiệt hại to lớn về người và của. Tuy nhiên nó cũng
có những mặt lợi như cung cấp phù sa, cải tạo đất chua, phèn, mặn và nuôi trồng thủy sản Do
vậy các biện pháp cần hướng vào việc giảm nhẹ thiệt hại do lũ lụt gây ra, đồng thời khai thác
triệt để các mặt lợi phục vụ cho phát triển bền vững. Kinh nghiệm quốc tế cũng như trong nước
cho thấy, để khai thác hợp lý và bảo vệ đồng bằng ngập lụt hạ du các sông lớn cần phải xem xét
tổng hợp toàn lưu vực từ thượng lưu đến hạ lưu, điều hoà dòng chảy giữa mùa lũ và mùa cạn,
nghiên cứu quy luật hình thành dòng chảy của từng đơn vị sinh thái, từ đó xác định quy hoạch
phát triển tối ưu để khai thác tối đa các mặt lợi, giảm thiểu các mặt hại, bảo vệ môi trường, bảo
tồn tài nguyên.
Kiểm soát lũ và ngập lụt ở ĐBSCL là một vấn đề phức hợp, đa mục tiêu, do vậy cần phải xem
xét nó một cách tổng hợp nhằm đảm bảo phát triển và khai thác hết mọi tiềm năng của từng đơn
vị sinh thái trong đồng bằng. Để kiểm soát lũ và ngập lụt phải dựa vào hệ thống sông, kênh rạch
của đồng bằng trên cơ sở tạo điều kiện cho lũ thoát nhanh ra biển và dành một tỷ lệ thích hợp
diện tích những vùng trũng ngập sâu (chỉ khai thác dưới dạng các hệ sinh thái đất ngập nước) tạo
thành một số kho nước để điều tiết lũ. Từ thực tế tình hình lũ và ngập lụt ở ĐBSCL, chiến lược
kiểm soát lũ cần hướng vào giải quyết vấn đề hạn chế nước tràn dọc biên giới Việt Nam - Cam
puchia. Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên là vùng đất phèn tuy được cải tạo một phần
nhưng chỉ thay đổi được lớp đất mặt, vì vậy việc lợi dụng nước lũ để rửa phèn cho đồng ruộng,
tạo bồi lắng phù sa, bảo vệ môi trường sinh thái cũng là một vấn đề cần được quan tâm.
Kiểm soát lũ là tạo điều kiện thuận lợi cho lũ thoát được nhanh ra biển, vì vậy mọi công việc xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội trên đồng bằng cần phải tránh gây cản trở tới việc tiêu thoát
nước lũ và nước mưa. Tuy nhiên trên thực tế đã xảy ra nhiều hoạt động cản trở việc thoát lũ,
thoát nước mưa, nước phèn, nước mặn nên đã gây ra không ít thiệt hại. Các hoạt động trên đồng
bằng đã làm thay đổi bề mặt của lưu vực kéo theo sự thay đổi chế độ thủy văn, thủy lực không
lường trước được. Thêm vào đó các thay đổi địa hình do tân kiến tạo cũng chưa được theo dõi
cập nhật, làm khó khăn thêm cho một quy hoạch kiểm soát lũ có hiệu quả. Theo các kết quả tính
toán, sự phân phối dòng chảy lũ năm 1961 qua sông Tiền chiếm 68%, sông Hậu 19% và chảy
tràn vào Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên 13%. Nhưng sau hơn 30 năm, theo các quan
trắc lũ năm 1996 của ngành khí tượng thủy văn, sự phân phối đó đã thay đổi, tương ứng là 49%,