Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

tóm tắt ý tưởng và nói lên nhận định của mình về chương viên đại pháp quan tôn giáo trong quyển anh em nhà ka-ra-ma đốp của dostoyevsky

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.83 KB, 40 trang )







TIỂU LUẬN

đề tài:

Tóm tắt ý tưởng chính
và nói lên nhận đònh của mình
về chương “Viên Đại Pháp Quan
Tôn Giáo” trong quyển “Anh Em
Nhà Ka-ra-ma-dốp” của Dostoyevsky.

2
Đề tài:
Tóm tắt ý tưởng chính và nói
lên nhận đònh của mình về chương
“Viên Đại Pháp Quan Tôn Giáo”
trong quyển “Anh Em Nhà Ka-ra-
ma-dốp” của Dostoyevsky.

Bài làm
:
A. TÓM TẮT Ý TƯỞNG CHÍNH
Chương “Viên Đại Pháp Quan
Tôn Giáo” trong quyển “Anh Em
Nhà Ka-ra-ma-dốp” là bản trường ca
của Ivan, thỉnh thoảng có sự xen vào


cuộc đối thoại của Aliôsa với Ivan.
Câu chuyện của Ivan diễn ra vào
thời pháp đình tôn giáo ghê rợn
nhất tại Seville ở Tây Ban Nha.
Trong bối cảnh những người tin vào
Giêsu Kitô mong đợi và cầu xin sự

3
tái lâm của Người đã 1500 năm rồi
và dựa theo thi só Nga Tyutchev,
Ivan cho rằng Giêsu Kitô đã tái lâm
và đi qua giữa dân của Người.
Giêsu Kitô xuất hiện giữa
chốn Pháp Đình và ngay lập tức
được dân chúng nhận ra và cuốn
theo. Phần mình, Giêsu Kitô vẫn
yêu thương họ và chữa lành bệnh tật
cho họ. Tất cả vụ việc này đều được
Viên Đại Pháp Quan, là một Hồng Y
cao niên chứng kiến. Và ngay sau đó
ông giận dữ vì sự tái lâm của Giêsu
Kitô và ra lệnh bắt giam Người vào
ngục.
Đêm xuống, Viên Đại Pháp
Quan đi vào ngục thất gặp Giêsu
Kitô và một cuộc đối thoại nẩy lửa
diễn ra tại đó, đúng hơn là một cuộc
độc thoại của con người phản kháng.

4

Đối với vò Hồng Y, sự xuất
hiện của Giêsu Kitô là chọc gậy
bánh xe Giáo Hội. Tất cả mọi vấn
đề giờ đây không còn thuộc về Giêsu
Kitô, về Thượng Đế nữa nhưng hoàn
toàn do Giáo Hoàng và Giáo Hội
trần thế. Tất nhiên giờ đây cho dù
Giáo Hoàng và Giáo Hội trần thế có
nhân danh Giêsu Kitô, (chắc chắn là
sự phỉnh phờ bòp đời) chăng nữa thì
tự căn bản đã là kẻ thù của nhau
rồi, Giáo Hội đã đồng loã với Satan
rồi. Vấn đề cơ bản nhất là tự do thì
dân chúng đã đem đặt dưới chân
Giáo Hoàng và Giáo Hội. Tự do đích
thực mà Thiên Chúa ban tặng và
mong muốn nơi họ thì họ lại khước
từ và cho rằng vượt quá sức của họ.
Giờ đây con người chỉ biết có Giáo
Hội và Giáo Hoàng chứ chẳng có

5
Chúa nào nữa cả. Ngọn cờ “bánh mì
trần thế” phất phới bay cao trong
khi đó ngọn cờ “bánh mì trời” thì bò
hạ xuống xếp xó là vậy.
Với cái nhìn hiện sinh thì ba
vấn đề mà Giêsu Kitô đã phải chòu
thử thách thû nào (Mt 4,1-13) thì
giờ con người cũng phải đối diện như

vậy, đây là ba vấn đề muôn đời;
phép lạ, bí nhiệm và quyền uy.
Nhưng khổ nỗi con người là con
người chứ không phải là Thần
Thánh, vì thế họ bằng lòng với sự
yếu đuối (không chòu phấn đấu vươn
lên như lòng Trời mong mỏi), cam
lòng với châm ngôn “mọi việc đều
được phép”.
Trong bản trường ca của Ivan
thì Giêsu Kitô là nhân vật chính,
nhưng chẳng nói một lời nào cả. Vẫn

6
còn đâu đó con người phản kháng
chân chính nơi quan niệm hiện sinh
của Dostoyevsky qua việc khép lại
bản trường ca của Ivan bằng cái hôn
lẳng lặng và dòu dàng của Giêsu
Kitô dành cho Viên Đại Pháp Quan
và cụ thể là cái hôn của Aliôsa dành
cho Ivan. Ivan tiếp tục muốn sống và
tha thiết với cuộc đời nếu ở đâu đó
Aliôsa vẫn còn tồn tại.

B. MỘT VÀI NHẬN ĐỊNH
1. S
Ự VỤ HIỆN SINH
Tất nhiên không phải là
Dostoyevsky vô tình mà tạo ra nhân

vật Viên Đại Pháp Quan nào đó để
rồi đặt lên môi miệng nhân vật này,
đúng hơn là nhân vật Ivan bài
trường ca “Viên Đại Pháp Quan Tôn
Giáo” với một nội dung rất ư là khắc

7
khoải nhân sinh bất khả kháng
trong đó xem hiện sinh như thể là
dữ kiện sần sụi, thô mộc, một sự
kiện phi lý.
Những khắc khoải, những
đương đầu mà Ivan đưa ra ở đây là
những sự vụ muôn thû của kiếp
người. Dostoyevsky thật khôn khéo
và cảm thấu cuộc đời nên đã biến
“ba sự cám dỗ” của Giêsu Kitô, mà
thực tế là của mọi con người ‘trót lỡ’
sinh vào cuộc đời này thành ba vấn
đề cũng đang dày vò tâm hồn Ivan.
Ba sức mạnh này “có thể thu được
lương tâm những kẻ nổi loạn
yếu ớt
để đem lại hạnh phúc cho họ”, đó là:
phép lạ, bí nhiệm và quyền uy.
a.
Phép lạ
Biến đá thành bánh mì là một
phép lạ. Phép lạ này đâu đơn giản


8
chỉ làm cho vui mắt, vui tay, cho
thoả mãn sự vụ lên đời khoe khoang,
nhưng nó là sự vụ sống còn của con
người đang ở cơn quyết liệt cần kíp;
cơn đói. Khi đói không ăn không
được, không ăn là chết, mà chết là
hết, sự vụ hiện sinh tại thế đây mới
là đáng kể, vì thế cần bất cứ một
thứ gì đó, mà bánh mì là lương thực
nói chung nhắt cho đầy bụng, làm
cho con người ta tươi tỉnh lại đã rồi
hãy nói gì thì nói. “Hãy cho người ta
ăn no, khi ấy hãy đòi hỏi người ta
phải có đạo đức”, trong khi đó hiện
tại chỉ toàn là một lũ “người đói mà
thôi”. Như vậy sự vụ sống còn đó là
“lương thực”, lương thực cho thân
xác và dó nhiên ở đây chính yếu là
lương thực cho cuộc cuồng loạn tinh
thần từng cơn. “Người ta sống không

9
nguyên bởi cơm bánh, nhưng còn
bởi…”. Bởi một lương thực nào đó xa
vời quá, mơ hồ quá, nên “trong con
mắt của loài người yếu đuối, vónh
viễn đốn mạt và vónh viễn vô ơn,
bánh mì trời sao bằng bánh mì trần
thế ?” Và thế là con người đâu cần

phép lạ nào cao xa bởi bàn tay Thần
Thánh mà chỉ cần ở nơi con người
nào đó miễn có cho họ ăn là đủ, họ
chấp nhận: “Chẳng thà biến chúng
tôi thành nô lệ, nhưng cho chúng tôi
ăn còn hơn”.
Con người cần phép lạ, một
phép lạ giải quyết dứt điểm “cơn phi
lý trong cái cuộc hội diễn ngỗn
ngang dấm dớ giữa con người khốn
khổ và Thần Linh tàn khốc lai láng
khôn hàn”. Con người cần phép lạ cả
thể nhưng không cần biết cỗi nguồn

10
của phép lạ. Họ cần phép lạ quá đến
độ tự “tạo ra cho mình những phép
lạ mới”; cúi đầu sùng bái, tin vào con
người dấm dớ phỉnh phờ lừa gạt dối
trá. Như thế không lạ sao được !
“Bản chất con người phải chăng là
gạt bỏ phép lạ và trong những lúc
ghê gớm của cuộc đời, lúc phải giải
đáp những câu hỏi cơ bản, đau khổ,
ghê gớm nhất của tâm hồn thì vẫn
chỉ theo quyết đònh tự do của con
tim ?”. Xin nhấn mạnh là tự do của
con tim, chứ không phải là của khối
óc đâu.
b.

Bí nhiệm
Con người ta ai đâu quán
thông được chữ ngờ. Từng chữ ngờ
trong đời người là từng sự bí nhiệm.
Tự thân phép lạ cũng là bí nhiệm
vậy. Bí nhiệm “là điều mà chúng tôi

11
không hiểu nỗi”. Tại sao cũng là
phận người mà lại có người thế này,
người thế kia ? Tại sao chỉ “có cả
thảy mười hai ngàn người có mặt
trong lần phục sinh thứ nhất” ? Tại
sao chỉ một ít người có được tự do
đích thực, tình yêu đích thực, có lòng
hy sinh tự nguyện và cao cả nhân
danh Thượng Đế thôi ? Tại sao tôi
phải khắc khoải ưu tư ? Tại sao anh
lại vô tư lự nhẹ nhàng ? Tại sao tôi
đau khổ bất hạnh ? Tại sao anh
hạnh phúc ? Tại sao anh chòu đựng
nỗi cuộc đời đa đoan này ? Còn tôi
thì không ? Tại sao, những cái tại
sao khôn cùng từ miệng trẻ thơ thû
nào vẫn còn đó y nguyên nơi con
người thâm niên nhân sinh, thế thì
tại sao ? Càng hỏi tại sao, con người
càng đi vào ngõ cùng của bí nhiệm

12

vô hồn lạnh lùng. Rút cục con người
không chòu nổi nữa phải chấp nhận
bí nhiệm, không những thế mà còn
đi tìm kiếm bí nhiệm nữa, vì với họ
chỉ có bí nhiệm mới giải quyết được
rốt ráo vấn đề mà thôi, đặc biệt vấn
đề sự vụ hiện sinh ! (Mà con người
“có lỗi gì khi không chòu đựng nổi”
như vậy ?, đây cũng là bí nhiệm
luôn).
Hậu quả của việc mù quáng
chạy theo bí nhiệm chính là mình
làm gì mình cũng chẳng biết nữa.
Và bắt đầu người ta làm bất cứ việc
gì, ngay cả những việc “trái với
lương tâm của họ”.
c.
Uy quyền
Lại một lần nữa con người lại
trách Con Người đã vượt lên “khước
từ món quà cuối cùng ấy”, đã không

13
“nhận lấy thanh kiếm của Xêda”.
“Tại sao vậy Chúa ?”. Giá như lúc đó
Chúa chấp nhận sự vụ đó thì khoẻ
biết mấy, đâu có chuyện rối rắm
triền miên sau này !? Vì con người
vẫn đi tìm ở trần gian này: một
đấng để sùng phục, để trao phó

lương tâm của mình. Chúa thấy
không, nào là Thành Cát Tư Hãn, là
Xêda, là Timur… thì ai mà chẳng
răm rắp thần phục ?! Chúa nâng cao
ngọn cờ binh đao, chinh phạt khắp
nơi đi, lúc đó thế gian này là của
Chúa mà chẳng một lời, một tiếng
phản kháng. Con người cần có đấng
làm chủ (lương tâm họ) và nắm lấy
bánh mì trong tay để họ quy thuận,
chỉ thế thôi !? Tại sao Chúa đã
không làm như vậy ? Tại sao Chúa
vẫn biết rằng với việc khước từ đó

14
thì rồi chỉ một thiểu số nào đó mới
chòu đựng nổi, rút cuộc số đông còn
lại mệt mỏi vì chờ đợi nơi Chúa một
cái gì đó oai phong lẫm liệt của một
kẻ chinh phạt. Chúa thấy không
ngay cả Dân riêng Do thái đã khước
từ Chúa vì Chúa đã không như họ
muốn, đã không là một vò hoàng đế
với quyền uy oai hùng trong tay,
giúp họ thoát khỏi ách ngoại ban và
trở thành một dân tộc lừng lẫy khắp
thế giới. Thế đấy con người mong
chờ một đấng có uy quyền bằng
không họ sẽ “đem sức mạnh tinh
thần và nhiệt tâm sang lónh vực

hoạt động khác và sau hết, họ sẽ
dựng lên ngọn cờ tự do của mình
chống lại Chúa”. Oái ăm thay,
không thần phục nữa thì nổi dậy
chống đối chứ sao giờ ?!

15
Nhìn chung, cho dù thoát được
kiểu sống sơ khai hoang dã, nhưng
con người lúc nào cũng đi tìm cho
mình một điểm tựa. Con người càng
tiến bộ thì càng đòi hỏi điểm tựa đó
tinh tế hơn, siêu việt hơn. Nhưng gì
thì gì đều phải đảm bảo ba yếu tố:
phép lạ, bí nhiệm, uy quyền.
Tưởng chừng như giải quyết
được sự bất công nông nô
1
thì con
người sẽ thoát được hết những phiền
toái nhân sinh. Đâu phải thế, cái sự
vụ hiện sinh càng khốc liệt tinh tế
hơn rất nhiều. Con người muốn cởi
bỏ mọi ràng buộc thì họ lại vươn vào
ràng buộc khác; chỉ khác chỗ là ràng
buộc trước đây bằng dây thừng, bằng


1
Xin nhắc lại, câu chuyện Anh em nhà

Karamazov xẩy ra sau cuộc giải phóng nô lệ.

16
sét, bằng đồng, còn giờ đây bằng
vàng, bằng ngọc rất đẹp, rất giá trò
ai cũng thích nhưng nó vẫn là ràng
buộc chẳng hơn chẳng kém. Một khi
ràng buộc còn thì tự do vẫn chưa có !
Làm thế nào đây ? Phải tiếp tục
phản kháng đấu tranh thôi !
2. CON NGƯỜI PHẢN KHÁNG
Cuộc chất vấn nẩy lửa giữa
Giêsu Kitô và Viên Đại Pháp Quan
về những vấn đề nhân sinh thiết
thân muôn thû của con người; làm
thế nào con người thoát khỏi được
vòng lung trạo đa đoan của kiếp
người, lẽ ác và diệt vong, tự do và
hạnh phúc. Nhưng oái ăm thay, con
người càng muốn thực hiện điều mà
Giêsu Kitô khoắc khoải mong muốn
làm xưa kia khi xuống cõi trần thì

17
con người càng xa rời Giêsu Kitô.
Càng nhân danh Giêsu Kitô chừng
nào con người phản kháng càng làm
xoá nhoà đi Giêsu Kitô bấy nhiêu.
Thật vậy, Ivan là một nhân
vật được cho là cái rốn của sự thông

minh trong toàn bộ tác phẩm và
Ivan là con người chất vấn mọi sự,
trong đó có vấn đề hiện sinh. Chất
vấn dữ quá đến độ Ivan trở thành
một tên bấn loạn, quần quại với con
người mình, với tâm hồn mình. Ivan
trở thành một thằng người mang
trong mình đầy những chất vấn
khôn cùng của sự vụ con tạo quay
cuồng. Chất vấn cho ra nhẽ Ngài và
tôi, hồ dễ ai đã hơn ai ? Cuối cùng
Ivan thắng hay Ngài (viết hoa)
thắng ? Dường như Ivan thắng, vì
Ivan đã chối phăng Ngài mất rồi,

18
mà có thật thế không ? Với những
sự vụ hiện sinh như đã trình bày ở
trên, Ivan đã phản kháng, hay đúng
hơn Dostoyevsky phản kháng, con
người ta phản kháng.
a.
Phải chăng không được
phản kháng ?
Phải nói ngay rằng con người
ta có phản kháng, phải phản kháng
và được phản kháng. “Một sự thật
trong đời người là cứ sau từng mỗi
sát na thì có một khoảnh khắc phản
kháng” (It is one of the truths of life

that after every great moment there
comes a moment of reaction),
William Barclay đã viết như vậy khi
chú giải đoạn Kinh Thánh nói về
việc Chúa Giêsu chòu cám dỗ.
Mỏi mệt vì cái cơn căng thẳng
nghiệt ngã trong cuộc tranh chấp

19
ngửa ngang giữa tiếng “ừ” và tiếng
“không”, giữa tương thuận và chối
bỏ, con người cần phải có những lần
bừng khởi để sau những lần bừng
khởi, phản ứng lại đó con người sẽ
dần trưởng thành, đạt đến tự do
thật sự. Đứa con trưởng thành trong
tự do và yêu thương là đứa con đó
biết tự nhận đònh để phát triển đầy
đủ nhân bản, tư cách làm con
(người) của nó. Bao lâu còn dùng trí
khôn cách đúng đắn, thì đứa con
không thể nào đi tới những kết luận
ngược với trí khôn của Người Cha
Siêu Việt được. Bởi vì Người Cha
Siêu Việt không muốn mình là người
giật dây và con của mình là những
con rối
2
. Cần phải nhìn nhận rằng:



2
Xem Cỏ dại giữa giữa lúa đồng của

20
Sự hiện hữu siêu việt của một Ông
Trời không hề cản trở việc hiện hữu
tất cả của con người cùng với tự do
của nó.
Đứa trẻ sẽ ra sao, một Ivan sẽ
ra sao nếu như cho rằng chỉ tự do và
có trách nhiệm thật sự khi gạt bỏ
một Ông Trời làm mình ngột ngạt
khó chòu (theo quan niệm hiện sinh
của Sartre). Quả thế “mọi sự đều
được thi thố hết”; ngay trong khoảnh
khắc sát na be bé mà Ivan lý luận
với cơn cưỡng kháng của y thì lập
thời y lôi xốc ra cái luật tắc giết
người. Nếu mọi sự đều được phép thi
triển thọ trì, thì y được phép giết
ông bố (là người cha) của y, hoặc ít


Thomas H. Green, phần nhập đề và chương
I.

21
ra cũng hài lòng chấp nhận để cho
thiên hạ giết cha y.

Đứng trước cái “trăm năm
trong cõi người ta” “xót người trong
hội đoạn trường đòi cơn” (Truyện
Kiều), “gẫm cười hai chữ nhân tình
éo le” (Lục Vân Tiên), “nghó mình,
mình lại thêm thương nỗi mình”
(Cung Oán Ngâm Khúc) thì con
người ta dễ đi đến phản kháng theo
kiểu; “Ông đấy ư ?”, “ông không có
quyền thêm một lời nào
3
”, “vậy cớ gì
ông xuống đây làm phiền chúng
tôi?”, “vậy bây giờ Chúa đến gây
phiền toái cho chúng tôi làm gì ?”,
“Chúa không nên xuống trần nữa”,
“tôi không biết là ai và
không muốn

3
Trong toàn chương, ít nhất 4 lần nói lên
câu này.

22
biết” luôn, thì đúng là phản kháng
chối bỏ Siêu Việt, khước từ Ông
Trời, phủ nhận Cõi Nguồn của mình.
Sự vụ đến nước này thì khỏi cần bàn
nữa, tất cả những gì quy hướng về
Thượng Đế đều bò gạt phắt ra ngoài

cả rồi. Đúng là một cuộc nổi loạn
(rebellion) (như những đứa trẻ trong
lớp học), một cuộc cách mạng
(revolution) (như bao cuộc cách mạng
đã từng diễn ra). Phản kháng giờ
đây không còn là một trạng thái
tâm lý tiền trưởng thành nữa rồi.
Xin cũng nói thêm rằng liền
sau khi viết như trên thì W. Barclay
chua thêm; – “and again and again
it is in the reaction that the danger
lies” (và có mối nguy hiểm tìm ẩn
trong sự vụ phản kháng từng cơn

23
đó)
4
. Như vậy nẩy sinh vấn đề là
phản kháng như thế nào ? Được
phép phản kháng đó nhưng phải
làm sao cho khỏi rơi tỏm vào hố
thẳm chối từ Cỗi Nguồn (viết hoa)
của mình.
b.
Phản kháng chân chính
Con người phản kháng
(reactionist, rebel, révolté) càng
muốn vì con người, vì cuộc mưu ích
cao cả nhất cho con người; tự do,
hạnh phúc, chân giá trò của con

người thì họ càng đẩy con người đến
chỗ tàn rụng và trạng thái thô thiển
sơ đẳng nhất của kiếp người. Vì
chưng con người phản kháng một
khi đi đến chỗ chối bỏ Cỗi Nguồn


4
William Barclay, The Gospel of Matthew,
vol. 1, Scotland, 1975, tr. 64

24
của mình, thay vì hợp tác với và để
cho Thượng Đế nâng lên, con người
lại khước từ hoặc lôi kéo Thượng Đế
xuống ngang bằng phận người lè tè
nhất như mình, thì lúc đó thật bất
hạnh làm sao cho con người.
Bùi Giáng tiên sinh viết rất
tuyệt vời trong lời tựa cuốn sách
dòch Con Người Phản Kháng của
Albert Camus rằng: “Tinh thần phản
ban sơ phát khởi từ một cỗi nguồn
uyên viễn: tâm thức con người tử
diệt nhìn ba bốn trời phiêu phiêu
hốt hốt. Cõi thế vô thường, phong
cảnh đẹp rung rinh, tấm thân phù
du phận mỏng cánh chuồn, chòu xiết
bao bất công xô ùa về ngược đãi…
Phản kháng có nghóa là: không

đành lòng chấp thuận sự trạng ngổn
ngang, tình huống nghiêng ngửa đó

25

×