KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
MỞ ĐẦU
Giải quyết một vụ án hình sự phải trải qua các giai đoạn với các trình tự, thủ tục khác nhau
và thẩm quyền trong từng giai đoạn cũng được quy định khác nhau. Bởi lẽ hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) mang tính quyền lực nhà nước rất cao,
mọi hoạt động của các cơ quan này đều liên quan lớn đến quyền, lợi ích của công dân. Do vậy,
việc xác định cụ thể trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong từng giai đoạn có ý nghĩa rất
quan trọng không chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn trong việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo cũng
như những người tham gia tố tụng khác.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên trong chuỗi các hoạt động để giải quyết vụ án
hình sự nên việc xác định thẩm quyền trong hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng. Mặc dù pháp
luật đã có quy định rất cụ thể và chi tiết, tuy nhiên trên thực tế, việc áp dụng thực hiện thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Việc nghiên cứu các quy định pháp
luật và đề xuất hướng hoàn thiện về vấn đề thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự sẽ cho chúng ta có
được cái nhìn về vấn đề này trên phương diện quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về khởi tố vụ án hình sự
1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm
quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án.
1
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hình thức văn bản tố tụng, xác định sự việc xảy ra trong
thực tế có dấu hiệu của tội phạm. Quyết định này có ý nghĩa rất quan trọng, làm phát sinh quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có thẩm quyền và người tham gia tố tụng
Khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án sẽ là cơ sở pháp lí đầu tiên để thực
hiện việc điều tra. Các hoạt động điều tra và áp dụng các biện pháp ngăn chặn chỉ được tiến hành
sau khi có quyết định khởi tố vụ án, trừ một số trường hợp đặc biệt.
2. Nhiệm vụ của khởi tố vụ án hình sự
Khi tiếp nhận tin tức về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải xác định sự tồn tại
của sự việc và đánh giá xem sự việc đó có hay không có dấu hiệu tội phạm để quyết định việc có
hay không khởi tố vụ án. Qua đó, kịp thời phát hiện tội phạm, hạn chế tối đa tình trạng bỏ lọt tội
phạm cũng như bảo đảm được nguyên tắc không truy cứu trách nhiệm hình sự oan đối với người
vô tội. Nếu xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án,
nếu xác định không có dấu hiệu tội phạm, thì ra quyết định không khởi tố vụ án.
Trong chừng mực nhất định, quyết định khởi tố vụ án còn giúp định hướng điều tra đúng
đắn ngay từ đầu
2
.
3. Ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án bảo đảm cho việc phát hiện nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, là cơ sở để
thực hiện nguyên tắc tránh bỏ lọt tội phạm trong thực tiễn áp dung pháp luật tố tụng hình sự. Chỉ
có thông qua những hoạt động kiểm tra, xác minh kịp thời các nguồn tin về tội phạm mới có điều
kiện làm rõ một sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không.
1
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Viêt Nam, Nxb. Tư pháp, 2006, tr.235
2
Xem TS. Vũ Gia Lâm, Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của viện kiểm sát và tòa án, Tạp chí luật học số
8/2010, tr.32
1
Khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng mở đầu các hoạt động điều tra. Đây là giai đoạn tố tụng
hình sự cơ bản và quan trọng, phải có quyết định khởi tố vụ án trước, rồi mới được tiến hành các
hoạt động điều tra, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Khởi tố vụ án cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố tụng tiếp theo. Do vậy, hoạt
động điều tra chỉ tập trung vào điều tra làm rõ các hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm
mà không còn phải kiểm tra, xác minh để xác định dấu hiệu tội phạm nữa.
Khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự quan trọng và cơ bản để tăng cường pháp chế,
bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân được pháp luật bảo hộ. Nếu không thực hiện các
hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm mà tiến hành ngay các hoạt động điều tra,
thậm chí áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng sẽ dẫn đến việc sau một thời gian không xác
định được dấu hiệu của tội phạm, không chứng minh được người bị áp dụng các biện pháp cưỡng
chế có hành vi nguy hiểm cho xã hội nên phải quyết định đình chỉ điều tố tụng thì người này đã bị
xâm phạm quyền tự do thân thể.
II. Các quy định của pháp luật về vấn đề thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự được quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng và các
cơ quan khác. Cụ thể thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự bao gồm cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
tòa án, các đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan hải quân, cơ quan kiểm lâm và các cơ quan khác
của lực lượng cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra.
1. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra
Thẩm quyền khởi tố của cơ quan điều tra được quy định tại khoản 1 Điều 104 BLTTHS năm
2003 như sau: “Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự” ;
Cơ quan cảnh sát điều tra (CQCSĐT) trong Công an nhân dân khởi tố cá vụ án hình sự về
các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến chương XXII của Bộ luật hình sự, trừ
các tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân. Trong Cơ quan cảnh sát điều tra thì CQCSĐT
công an cấp huyện khởi tố các vụ án hình sự về các tội phạm thuộc thẩm quyền của CQCSĐT khi
các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện; CQCSĐT công an cấp
tỉnh khởi tố các vụ án hình sự về các tội phạm thuộc thẩm quyền của CQCSĐT khi các tội phạm
đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền
điều tra của CQCSĐT công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra; CQCSĐT Bộ
Công an khởi tố các vụ án hình sự về các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm
quyền của CQCSĐT công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra các cấp của lực lượng Cảnh sát nhân dân.
Cơ quan an ninh điều tra trong Công an nhân dân khởi tố các vụ án hình sự về các tội phạm
quy định tại Chương XI, chương XXIV và các tội phạm quy định tại các điều 180, 181, 221, 222,
223, 230, 231, 236, 263, 264, 274, 275 của BLHS năm 1999. Những tội phạm trên đều thuộc
thẩm quyền khởi tố vụ án của Cơ quan an ninh điều tra công an cấp tỉnh, còn cơ quan an ninh
điều tra Bộ Công an chỉ khởi tố vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức
tạp, thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan an ninh điều tra công an cấp tỉnh nhưng xét thấy cần
trực tiếp điều tra.
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thuộc về Thủ trưởng, Phó thử trưởng Cơ
quan an ninh điều tra các cấp.
Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội nhân dân khởi tố các vụ án hình sự về các tội
phạm quy định tại các chương từ Chương XII đến Chuowng XXIII của Bộ luật hình sự khí các tội
phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền khởi tố
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương. Các tôi phạm trên sẽ thuộc thẩm quyền
khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra hình sự khu vực khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử
2
của Tòa án quân sự khu vực, thuộc thẩm quyền khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra hình sự quân
khu và tương đương khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự quân khu
và tương đương hoặc các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự khu
vực nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Đối với Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng sẽ
khởi tố các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương nhưng xét thấy cần trực tiếp điều
tra.
Cơ quan an ninh điều tra trong Quân đội nhân dân khởi tố các vụ án hình sự về các tội
phạm quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật hình sự khi các tội phạm đó thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Việc khởi tố vụ án hình sự đối với những tội phạm trên sẽ
thuộc thẩm quyền của Cơ quan an ninh điều tra quân khu và tương đương khí các tội phạm đó
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự quân khu và tương đương; sẽ thuộc thẩm quyền của
Cơ quan an ninh điều tra quân khu và tương đương nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án thuộc về thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều
tra các cấp trong Quân đội nhận dân.
Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tội cao khởi tố vụ án về một số loại tội xâm
phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm
đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung
ương khởi tố vụ án về một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự.
Thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án thuộc về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự trung ương
2. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của viện kiểm sát
Theo Điều 104 và Điều 109 BLTTHS hiện hành quy định, viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ
án trong hai trường hợp sau:
Thứ nhất, Viện kiểm sát khi kiểm sát khởi tố vụ án mà có căn cứ để hủy bỏ quyết
định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra, cơ quan hải quan, bộ đội biên phòng, cơ quan
kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan khác trong công an nhân dân, quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
Thứ hai là trường hợp hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Thẩm quyền khởi tố vụ án
thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp.
Trog việc khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của mình. Việc quy định việc thực hiện quyền công tố và kiểm sát không chỉ
trong giai đoạn điều tra, xét xử mà hoạt động công tố còn phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố
vụ án và trong suốt quá trình tố tụng. Khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm 2003 quy định: “ Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình
sự, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và
hợp pháp”.
Ngoài ra, BLTTHS quy định trách nhiệm của viện kiểm sát trong việc thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự: Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với
hành vi phạm tội xảy ra hoặc là còn có tội phạm khác thì viện kiểm sát cũng có quyền ra quyết
định thay đổi hay bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra
quyết định thay đổi hay bổ sung khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến
Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Điều này sẽ hạn chế việc ra quyết định khởi tố không có căn cứ theo quy định của pháp luật
và tranh được việc bỏ lọt tội phạm.
Việc luật quy định viện kiểm sát chỉ khởi tố vụ án hình sự trong hai trường hợp trên là để
phù hợp với chức năng kiểm sát đã được thu hẹp so các quy định trước. Theo quy định tại Điều
137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Điều 1 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm
3
2002, chức năng của viện kiểm sát bao gồm: chức năng công tố nhà nước (là chức năng cơ bản và
chủ yếu) và chức năng kiểm sát tư pháp.
Với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, viện kiểm sát chỉ có duy nhất một khả năng đó là
xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm thông qua công tác kiểm sát cụ thể này, để từ đó
ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự được chính xác.
3. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Tòa án
Điều 104 BLTTHS năm 2003 quy định thẩm quyền khởi tố vụ án của Tòa án như sau: “ Hội
đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc
xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra”.
Như vậy, trong khi chuẩn bị xét xử nếu Tòa án phát hiện bị can phạm tội mới hoặc
có đồng phạm khác, Tòa án không khởi tố vụ án mà trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ
sung
Thẩm quyền khởi tố vụ án qua việc xét xử tại phiên tòa thuộc về Hội đồng xét xử
4. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải
quan, cơ quan Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân
Đơn vị bộ đội biên phòng khi thực hiện nhiệm vụ của mình mà phát hiện tội phạm quy định
tại chương XI và các điều 119, 120,153, 172, 180, 181, 188, 192, 193, 194, 195, 196, 230, 232,
236, 263, 264, 273, 274 và 275 của Bộ luật hình sự năm 1999 xảy ra trong khu vực biên giới trên
đất liền, bờ biển, hải đảo và trên các vùng biển do bộ đội biên phòng quản lý thì có quyền khởi tố
vụ án hình sự.
Thẩm quyền khởi tố vụ án thuộc về Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng, Chỉ huy trưởng Bộ
đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trưởng đồn biên phòng.
Cơ quan hải quan khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà phát hiện tội
phạm quy định tại Điều 153, 154 của BLHS 1999 thì Cục trưởng Cục điều tra chống buôn lậu,
Cục trưởng Cục kiểm tra sau thông quan, Cục trưởng Cục hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, Chi cục trưởng Chi cục hải quan cửa khẩu có quyền ra quyết định khởi tố vụ
án.
Cơ quan kiểm lâm khởi tố vụ án hình sự qua việc thực hiện nhiệm vụ của trong lĩnh vực
quản lý của mình mà phát hiện hành vi phạm tội quy định tại các điều 175, 189, 190, 191, 240 và
272 của BLHS năm 1999
Thẩm quyền khởi tố thuộc về Cục trưởng Cục kiểm lâm, Chi cục trưởng Chi cục kiểm lâm,
Hạt trưởng, Hạt kiểm lâm, Hạt trưởng Hạt phúc kiểm lâm sản.
Lực lượng cảnh sat biển khởi tố vụ án khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của
mình mà phát hiện tội phạm quy định tại Chương XI và các điều 153, 154, 172, 183, 194, 195,
196, 212, 213, 221, 223, 230, 231, 232, 236, 238, 273 và 274 của Bộ luật hình sự năm 1999 và
xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Việt Nam do lực lượng cảnh sát biển quản lý.
Thẩm quyền khởi tố vụ án thuộc về Cục trưởng. Chỉ huy trưởng Vùng, hải đoàn trưởng, Hải đội
trưởng và Đội trưởng cảnh sát biển.
Cá cơ quan khác của lực lượng cảnh sát trong Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu
hiệu tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra quy định tại Điều 11 Pháp
lệnh tố chưc điều tra hình sự thì có quyền khởi tố vụ án hình sự
Các cơ quan khác của lực lượng an ninh trong Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự khi thực hiện nhiệm vụ của mình mà phát
hiện sự việc có dấu hiệu của tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan an ninh điều tra
trong Công an nhân dân.
Thẩm quyền khởi tố thuộc về Cục trưởng Cục an ninh, Trưởng phòng các phòng an ninh ở
công an cấp tỉnh.
4
Cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu của tội phạm thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan diều tra hình sự đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì
khởi tố vụ án hình sự. Thẩm quyền khởi tố vụ án thuộc về giám thị trại tạm giam, giạm thị trại
giam trong quân đội.
III. Những bất cập còn tồn tại trong quy định và thực tiễn áp dụng thẩm quyền
khởi tố vụ án hình sự
Có thể nói: BLTTHS năm 2003 đã hoàn thiện một bước đáng kể các quy định thẩm quyền
và xác định trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự, trong đó đáng kể nhất là các quy định về thẩm
quyền khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra.
Trong số các cơ quan tiến hành tố tụng, thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự chủ yếu quy định
cho cơ quan điều tra, còn tòa án và viện kiểm sát chỉ có thẩm quyền khởi tố rất hạn chế. Tuy
nhiên, với chức năng chủ yếu là thực hành quyền công tố đối với viện kiểm sát, và chức năng xét
xử đối với tòa án, thì việc quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án của các cơ quan này trong
BLTTHS vẫn có những bất cập nhất định.
Thứ nhất, Khoản 1, 2 Điều 112 BLTTHS năm 2003 có đề cập đến quyền khởi tố vụ
án hình sự của viện kiểm sát gây mâu thuẫn với quy định về quyền khởi tố vụ án của viện kiểm
sát tại Điều 104. Do vậy, quy định này làm đi giảm tính thống nhất giữa các quy định của
BLTTHS về thẩm quyền khởi tố vụ án của viện kiểm sát.
Khoản 1 điều 112 BLTTH quy định quá chung chung về nhiệm vụ quyền hạn của
viện kiểm sát trong khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, cụ thể là: khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án
hình sự,khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này. Với quy định này, thì khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra, nếu phát hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm bất kì, viện kiểm
sát có trách nhiệm và quyền hạnh ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong khi đó, tại Điều 104
BLTTHS, viện kiểm sát chỉ khởi tố vụ án trong hai trường hợp: (1) khi kiểm sát việc khởi tố nếu
xác định quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là không có căn cứ, viện kiểm sát sẽ ra quyết định
hủy quyết định không khởi tố đó và tự mình ra quyết định khởi tố vụ án ; (2) khi hội đồng xét xử
phát hiện tội phạm, người phạm tội còn bị bỏ lọt cần phải điều tra.
Như vậy, giữa hai Điều 112 và 104 có mâu thuẫn về giới hạn thẩm quyền khởi tố vụ
án hình sự.
Thứ hai, quy định tại khoản 3 Điều 112 BLTTHS về quyền khởi tố vụ án của viện
kiểm sát trong trường hợp phát hiện hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm là mâu thuẫn
với quy định tại Điều 104 BLTTHS.
Trong quá trình điều tra, điều tra viên có thể có những hành vi vi phạm pháp luật ở
những mức dộ khác nhau, và trách nhiệm của viện kiểm sát là phải phát hiện kịp thời và đề nghị
xử lí theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi vi phạm phát luật của các
điều tra viên cũng đều xuât phát từ việc họ là người tiến hành tố tụng trong vụ án hoặc liên quan
đến vụ án mà họ đang thụ lí, điều tra làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đùng đắn vụ án mà còn
có thể liên quan đến lĩnh vực khác với mục đích khác. Các hành vi này có thể hoàn toàn không
liên quan đến vụ án mà viện kiểm sáng đang kiểm sát điều tra. Nếu hành vi của điều tra viên có
dấu hiệu của tội xâm phạm hoạt động tư pháp thì việc điều tra vụ án thuộc thẩm quyền của cơ
quan điều tra của viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thứ ba, là bất cập trong quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của tòa án,
quy định về quyền khởi tố vụ án của hội đồng xét xử hầu như không được thực hiện trong thực
tiễn.
Điều 104 BLTTHS năm 2003 có quy định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của hội đồng
xét xử, cho phép có sự lựa chọn hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu viện kiểm sát
5