Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Bài dự thi hiến pháp 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.71 KB, 26 trang )

TRẢ LỜI CÂU HỎI CUỘC THI VIẾT
“TÌM HIỂU HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM”
Câu 1.
Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có mấy bản Hiến
pháp? Các bản Hiến pháp đó được Quốc hội thông qua vào ngày, tháng, năm
nào?
Gợi ý trả lời:
Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có 05 bản Hiến pháp. Cụ thể như
sau:
- Bản Hiến pháp đầu tiên là năm 1946: Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặt vấn đề về sự cần thiết phải có một bản Hiến pháp cho Nhà nước
Việt Nam. Ngày 9.11.1946, Hiến pháp năm 1946 được Quốc hội Khóa I chính
thức thông qua tại Kỳ họp thứ 2.
- Hiến pháp năm 1959: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đất nước
tạm thời bị chia cắt thành hai miền, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và từng
bước đi lên xây dựng CNXH, miền Nam tạm thời đặt dưới sự kiểm soát của Mỹ
-Ngụy. Ngày 31.12.1959, bản dự thảo Hiến pháp đã được Quốc hội khóa I thông
qua tại kỳ họp thứ 11 và ngày 01.01.1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công
bố Hiến pháp năm 1959.
- Hiến pháp năm 1980: Ngày 25.4.1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu ra Quốc
hội chung của cả nước đã thành công rực rỡ. Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa
VI quyết định đổi tên nước thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiến pháp 1980 được Quốc hội khóa VI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 18
tháng 12 năm 1980, Hiến pháp năm 1980 là Tuyên ngôn của Nhà nước chuyên
chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp của thời
kỳ xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước.


- Hiến pháp năm 1992: Sau một thập kỷ được ban hành đã trở nên không
phù hợp với tình hình thế giới, với những chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng.
Chính vì vậy, ngày 15.4.1992, tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa VII, đã thông
qua bản Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 1992).
Ngày 25.12.2001, tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội Khóa X đã chính thức thông
qua Nghị quyết số 51/2001/QH10 sửa đổi, bổ sung 23 Điều của Hiến pháp 1992.
- Hiến pháp năm 2013: Ngày 28-11-2013, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ
6 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay thế cho
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Câu 2.
Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ
ngày, tháng, năm nào? So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung
1
năm 2001) có bao nhiêu điều được giữ nguyên? Có bao nhiêu điều được sửa
đổi, bổ sung? Điều sửa đổi, bổ sung nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?
Gợi ý trả lời câu hỏi:
Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ ngày 01
tháng 01 năm 2014( theo quy định tại Điều 1 Nghị quyết số 64/ 2013 / QH 13
ngày 28/ 11/ 2013 của Quốc hội) thay thế cho hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi, bổ
sung năm 2001)
- Hiến Pháp năm 2013 bao gồm 11 chương và 120 điều (giảm 1 chương và 27
điều so với Hiến pháp năm 1992). Trong đó:
+ Giữ nguyên 07 điều ( Điều 1, 23, 49, 86, 87, 91,và 97)
+ Bổ sung 12 điều ( Điều 19,34, 41, 42, 43, 55, 63,78, 111,112,117, và 118)
+ Sửa đổi: 101 điều ( Các điều còn lại).
- Hiến pháp ( sửa đổi) đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản, chính trị,
dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Sửa đổi trong hiến pháp đều
hướng tới nhân dân, đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân, đổi mới tổ chức bộ

máy Nhà nước để phục vụ nhân dân tốt hơn, bước đầu xây dựng cơ chế nhằm
giảm tham ô, nhũng nhiễu người dân, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân được
thực hiện một cách thực chất hơn trong thực tế.
- Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Thay đổi tên chương
từ “ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành “ Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân”, chuyển vị trí từ chương V lên chương II và được
đặt trang trọng sau chương 1 “ Chế độ chính trị”. Với việc ghi nhận trong Hiến
pháp về quyền con người đã đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền
con người mà nhà nước ta đã tham gia ký kết. Hiến pháp làm rõ hơn các quyền,
nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm
thực hiện quyền con người, quyền công dân, thể hiện rõ bản chất dân chủ của nhà
nước ta. Hai điểm mới đó là ghi nhận về quyền con người, quyền công dân chỉ có
thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng và mọi người có
quyền sống.
* Trong bản hiến pháp năm 2013 có 101 điều được sửa đổi, bổ sung 12
điều mới nhưng tôi tâm đắc nhất là 117 ( bổ sung) – Hiến pháp năm 2013 vì: Lần
đầu tiên thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia. Trước đây mỗi khi tiến hành bầu cử
đều thành lập Hội đồng bầu cử có tính lâm thời, hoạt động trong thời gian ngắn
( khoảng sáu tháng), khi bầu cử xong thì Hội đồng bầu cử hoàn thành
nhiệm vụ. Việc có hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động thường xuyên, thể hiện
đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy
đủ quyền làm chủ của mình, tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng
hoàn thiện chế định bầu cử.
Có thể nói, Hiến Pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã
thể hiện được ý Đảng, lòng dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới.
2

Hiến pháp năm 2013 có bố cục gọn và kỹ thuật lập hiến chặt chẽ, đáp ứng
yêu cầu là đạo luật cơ bản, có tính ổn định lâu dài.
Câu 3.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
Nhân dân…”. Bạn hãy nêu và phân tích ngắn gọn các quy định của Hiến pháp
năm 2013 về những cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Gợi ý trả lời:
Một câu hỏi đặt ra với nền dân chủ ở mọi quốc gia là: Làm thế nào để nhân
dân có thể thực hiện quyền làm chủ đất nước, để nhân dân tham gia quản lý, điều
hành đời sống hằng ngày của xã hội và quyết định các việc lớn, trọng đại của
quốc gia.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã cho thấy có hai hình thức chủ yếu của
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ
gián tiếp.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Ảnh: TTXVN.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một nguyên tắc cơ bản, được ghi
nhận xuyên suốt trong cả bốn bản Hiến pháp của nước ta (Hiến pháp: 1946,
1959,1980 và 1992). Đến Hiến pháp năm 2013, một lần nữa tiếp tục khẳng định:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể hơn các phương
thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Cụ thể, Hiến pháp năm 1992 chỉ
ghi nhận nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân là các cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
3

dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đến Hiến pháp năm 2013,
tại Điều 6 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực
tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua
các cơ quan khác của Nhà nước". Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung đầy
đủ hơn các hình thức thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, không chỉ bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như trước đây mà còn
thông qua các cơ quan khác của Nhà nước và bằng các hình thức dân chủ trực
tiếp.
Dân chủ đại diện là phương thức thực hiện quyền lực nhà nước cơ bản và phổ
biến nhất của nhân dân. Theo đó, nhân dân thông qua các cơ quan đại biểu do
mình bầu ra và ủy thác quyền lực như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; rồi
đến lượt mình Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục lập ra các cơ quan
khác của Nhà nước để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Như vậy, hiểu
một cách đầy đủ, cơ quan nhà nước được nhân dân ủy quyền không chỉ là các cơ
quan dân cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn bao gồm cả các cơ
quan trong hệ thống hành pháp và tư pháp; các cơ quan này thay mặt nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước để điều hành, quản lý xã hội và chịu sự giám sát của
nhân dân.
Biểu hiện rõ nét và tập trung nhất của hình thức dân chủ đại diện ở nước ta là việc
tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Điều 69 Hiến pháp năm 2013, với quy định:
"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã nhấn mạnh vai
trò của nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy thác cho Quốc hội. Tính chất đại
diện thể hiện ở sự hình thành của Quốc hội - cơ quan duy nhất ở nước ta bao gồm
những người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước do cử tri cả nước
bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tính chất
đại diện cao nhất của Quốc hội còn thể hiện ở chỗ Quốc hội bao gồm những đại
biểu đại diện cho các thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các nhóm xã hội
khác; đồng thời là đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân trong cả nước.

Dân chủ trực tiếp, là phương thức người dân trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng
của mình mà không phải thông qua cá nhân hay tổ chức đại diện. Các hình thức
thực hiện dân chủ trực tiếp của người dân, có thể như: tham gia ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở,
đối thoại trực tiếp giữa nhân dân với đại diện cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi
Nhà nước trưng cầu ý dân, biểu tình .v.v.
Như vậy có thể nói, trước khi Hiến pháp năm 2013 ra đời, vấn đề dân chủ trực
tiếp đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, vì tính chất cấp bách và
quan trọng của nó trước yêu cầu tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước.
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước; có mối quan hệ tác động qua lại với nhau và đều có vai
trò quan trọng trong nền dân chủ đương đại. Nếu như bằng hình thức dân chủ đại
diện nhân dân lập ra bộ máy nhà nước từ trung ương tới cơ sở để quản lý, điều
hành xã hội một cách thường xuyên liên tục, giữ vững ổn định thể chế và phát
triển đất nước thì với hình thức dân chủ trực tiếp nhân dân lại góp phần làm cho
4
bộ máy nhà nước đó ngày càng hoàn thiện hơn bằng việc giám sát, tham gia ý
kiến hay biểu thị thái độ với chính các cá nhân hay cơ quan nhà nước do mình lập
nên. Thực hiện tốt và bảo đảm hài hòa cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp là cơ sở vững chắc để hướng tới một thể chế Nhà nước hoàn thiện
mà nhân dân là người chủ đích thực của nó.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định về những cách thức để Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước, cụ thể như sau:
- Khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam
gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Đây là
quy định mới được bổ sung, có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện vai trò làm chủ
của Nhân dân đối với đất nước. Nhân dân giao trách nhiệm lãnh đạo Nhà nước và
xã hội cho Đảng, vì vậy, Đảng phải chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, quy định “Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp” được ghi nhận và phát triển thành nguyên
tắc trong Hiến pháp.
Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp là việc Nhân dân trực tiếp thể
hiện ý chí của mình về một vấn đề nào đó mà không cần thông qua cá nhân hay tổ
chức đại diện, thay mặt mình; dân chủ đại diện là việc Nhân dân thông qua các cơ
quan nhà nước, các cá nhân được Nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của Nhân
dân.
Hiến pháp năm 2013 đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con
người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát
triển. Điều 14, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật”. “ Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”
So với Hiến pháp năm 1992, quy định về việc Nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước trong Hiến pháp năm 2013 đã được thể hiện đa dạng hơn, thông qua
nhiều cơ quan nhà nước khác nhau. Thông qua hình thức thể hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp đã khẳng định rõ hơn, sâu sắc hơn về vai trò làm chủ
của Nhân dân.
- Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nội dung quy định này đã khẳng định Nhân dân là chủ
thể tối cao của quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân
dân. Nhân dân ủy thác thực hiện quyền lực cao nhất cho Quốc hội để Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của

đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
5
- Khoản 1, Khoản 2 Điều 79 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân
dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước.
2. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri;
thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các
cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về
hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri;
theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc
thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.”.
Ngoài những điều trên, xuyên suốt bản Hiến pháp năm 2013 là tinh thần
phát huy quyền lực và dân chủ của nhân dân, nhà nước pháp quyền của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân.
Câu 4.
Những quy định nào của Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc?
Gợi ý trả lời:
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân
tố quan trọng nhất đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Với cương vị là
lãnh tụ tối cao của Đảng, người đứng đầu Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
24 năm liền, Người đã tập hợp, quy tụ được các dân tộc, các giai cấp, tầng lớp,
đảng phái, tôn giáo, nhân sỹ trí thức yêu nước, đồng bào trong nước cũng như
kiều bào ở nước ngoài, xây dựng khối đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình cách
mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng XHCN. Người đã trở thành
linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng rộng rãi và bền vững. Đại
đoàn kết dân tộc rõ ràng đã trở thành một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng
cũng như trong hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong những cống
hiến to lớn của Người đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Người là một cống hiến đặc sắc,

có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm
có tính triết lý như:
Đoàn kết làm ra sức mạnh; Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta.
Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi; Đoàn kết là sức mạnh, là then
chốt của thành công.
Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt…
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành
công.

“Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
Còn đối với mỗi người dân Việt Nam thì yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết cũng
đã trở thành một tình cảm tự nhiên, bản sắc riêng của dân tộc mà không phải dân
tộc nào cũng có được, như:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
6
Người trong một nước phải thương nhau cùng;
Hay trở thành một triết lý nhân sinh:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao;
Thành một phép ứng xử hết sức tự nhiên, nhưng có tư duy chính trị:
Tình làng, nghĩa nước
Nước mất thì nhà tan
Giặc đến nhà đàn, bà phải đánh…
Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan
hệ nhiều tầng chặt chẽ: gia đình - làng xã - quốc gia (nhà- làng- nước) và trở
thành sợi dây liên kết bền chặt các giai tầng trong xã hội Việt Nam.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào Hiến pháp đầu

tiên của Việt Nam (Hiến pháp năm 1946): “Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo.” (Điều 1); “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam
Bắc không thể phân chia.” (Điều 2).
Trong các bản Hiến pháp sau đó (1959, 1980, 1992) đều tiếp tục quy định vấn đề
đại đoàn kết toàn dân tộc như một nội dung có tính nguyên tắc không thể thiếu
trong Hiến pháp.
Đến Hiến pháp năm 2013, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc một lần nữa lại được
phát huy mạnh mẽ, được quy định một cách cụ thể trong nhiều điều. Đó là:
Điều 5, Hiến pháp năm 2013, quy đinh: "1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt
Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng
Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát
huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4. Nhà nước
thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số
phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước".
Và khoản 1 Điều 9 quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.”
Nhìn từ góc độ khác, việc tôn trọng quyền con người, quyền tự do dân chủ của
công dân, tôn trọng khác biệt, hòa nhập tương đồng cũng là sự thể hiện tư tưởng
đại đoàn kết toàn dân tộc. Điều 42 của Hiến pháp 2013 cũng ghi nhận: "Công dân
có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ
giao tiếp"; hay Điều 61 quy định: "Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền
núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người

khuyết tật và người nghèo được học văn hoá và học nghề. ".
Một số quy định khác, tại khoản 1 Điều 58, khoản 1 Điều 60, khoản 2 Điều
75 Hiến pháp năm 2013 cũng thể hiện nội dung tư tưởng đại đoàn kết dân tộc. Cụ
7
thể: khoản 1 Điều 58 qui định: “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính
sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền
núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.”; khoản 1
Điều 60: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.”; và khoản 2 Điều
75: “Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc;
thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.”
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 cũng là
quan điểm nhất quán mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định:
"Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm,
định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau
không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống
nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung,
tăng cường đồng thuận xã hội".
Các trích dẫn trên đây là những ví dụ điển hình để minh chứng cho thấy tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những điều Người dặn dò trong Di chúc về xây
dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta nghiêm túc thực hiện, trong đó có Hiến pháp 2013; qua đó góp phần quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh"
Câu 5.

Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân? Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?
Gợi ý trả lời:
1.Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992
(Sửa đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Một số ví dụ:
CHƯƠNG II
QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG
DÂN
HIẾN PHÁP 1992
(ĐÃ ĐƯỢC SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG
NĂM 2001)
HIẾN PHÁP NĂM
2013
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ
SUNG, THAY THẾ
Chương V
QUYỀN VÀ
CHƯƠNG II
QUYỀN CON
- Đây không phải là sự thay đổi
vị trí từ chương V lên chương II
8
NGHĨA VỤ CƠ
BẢN CỦA CÔNG
DÂN
NGƯỜI,
QUYỀN VÀ

NGHĨA VỤ CƠ
BẢN CỦA CÔNG
DÂN
một cách ngẫu nhiên mà là thể
hiện tầm quan trọng của quyền
con người trong Hiến pháp.
- Về tên chương: Hiến pháp năm
1992 tên là quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân. Hiến pháp năm
2013 nêu rõ quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Điều này cho thấy tư
tưởng lập hiến khẳng định vị trí
quan trọng của quyền con người.
Điều 50
Ở nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con
người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn
hoá và xã hội được
tôn trọng, thể hiện ở
các quyền công dân
và được quy định
trong Hiến pháp và
luật.
Điều 14 (sửa đổi,
bổ sung Điều 50)
1. Ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, quyền con
người, quyền công
dân về chính trị, dân
sự, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp
và pháp luật.
2. Quyền con người,
quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo
quy định của luật
trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng
đồng.
- So với Hiến pháp 1992 thì
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ
quyền con người, quyền công dân
tại các điều luật cụ thể trong Hiến
pháp và quyền con người, quyền
công dân chỉ bị hạn chế theo Luật
định (chứ không thể bị giới hạn
tùy tiện hay trong văn bản dưới
luật như Nghị định, Thông tư )
- Hiến pháp năm 1992, chỉ mang
tính chất thừa nhận quyền con

người thông qua các quyền công
dân mà không quy định cụ thể cơ
chế đảm bảo thực hiện quyền con
người, quyền công dân . Nhưng
bản Hiến pháp năm 2013 đã quy
định rất rõ các quyền con người,
quyền công dân được Nhà nước
thừa nhận, bảo đảm thực hiện.
Điều 52
Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp
luật.
Điều 16 (sửa đổi,
bổ sung Điều 52)
1. Mọi người đều
bình đẳng trước pháp
luật.
2. Không ai bị phân
biệt đối xử trong đời
sống chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa,
- Nếu Hiến pháp năm 1992 sử
dụng thuật ngữ “mọi công dân”
tức là chỉ những người là công dân
Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam.
- Hiến pháp năm 2013 sử dụng
thuật ngữ “mọi người” tức là đó là
quyền con người, cho dù là người
có quốc tịch Việt Nam, không
quốc tịch đều được bình đẳng

9
xã hội. trước pháp luật. Quyền con người
gắn với yếu tố tự nhiên, đã là con
người sinh là là họ có quyền đó,
Nhà nước Việt Nam có trách
nhiệm thừa nhận và bảo đảm thực
hiện.
Điều 19 (mới)
Mọi người có quyền
sống. Tính mạng con
người được pháp luật
bảo hộ. Không ai bị
tước đoạt tính mạng
trái luật.
- Đây là quy định mới được bổ
sung trong Hiến pháp năm 2013.
Điều Luật cho thấy: Mặc dù Nhà
nước bảo bộ tính mạng con người
nhưng Nhà nước cũng có thể quy
định trong luật về việc tước đoạt
tính mạng con người trong Luật
Hình sự
Điều 71
Công dân có
quyền bất khả xâm
phạm về thân thể,
được pháp luật bảo
hộ về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự và
nhân phẩm.

Không ai bị bắt,
nếu không có quyết
định của Toà án nhân
dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện
kiểm sát nhân dân,
trừ trường hợp phạm
tội quả tang. Việc bắt
và giam giữ người
phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi
hình thức truy bức,
nhục hình, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm
của công dân.
Điều 20 (sửa đổi,
bổ sung Điều 71)
“ 3. Mọi người có
quyền hiến mô, bộ
phận cơ thể người và
hiến xác theo quy
định của luật. Việc
thử nghiệm y học,
dược học, khoa học
hay bất kỳ hình thức
thử nghiệm nào khác
trên cơ thể người phải
được người được thử
nghiệm”
Đây là điểm mới của Hiến pháp

năm 2013 thể hiện quyền được
hiến mô, bộ phận cơ thể người và
hiến xác của mọi người để chữa
bệnh cho người thân, cũng như đề
cao vai trò bộ phận cơ thể người
phục vụ cho việc nghiên cứu, chữa
bệnh trong y học hiện nay.
Ý nghĩa của quy định này trong
xã hội hiện đại ngày nay.
Điều 57
Công dân có quyền
tự do kinh doanh
theo quy định của
pháp luật.
Điều 33 (sửa đổi,
bổ sung Điều 57)
Mọi người có
quyền tự do kinh
doanh trong những
ngành nghề mà pháp
luật không cấm.
- Hiến pháp năm 1992 quy định
công dân có quyền tự do kinh
doanh nhưng Hiến pháp năm 2013
quy định mọi người có quyền tự
do kinh doanh. Như vậy Hiến
pháp đã mở rộng hơn về đối tượng
được kinh doanh và ngành nghề
được kinh doanh để tạo điều kiện
10

mọi người tự do kinh doanh, làm
giàu chính đáng, tạo động lực phát
triển kinh tế xã hội.
Điều 71
Công dân có quyền
bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp
luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ,
danh dự và nhân
phẩm.
Không ai bị bắt, nếu
không có quyết định
của Toà án nhân dân,
quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ
trường hợp phạm tội
quả tang. Việc bắt và
giam giữ người phải
đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi
hình thức truy bức,
nhục hình, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm
của công dân.
Điều 21 ( Khoản
1)
Mọi người có
quyền bất khả xâm

phạm về đời sống
riêng tư, bí mật cá
nhân và bí mật gia
đình, có quyền bảo vệ
danh dự, uy tín của
mình.
Thông tin về đời
sống riêng tư, bí mật
cá nhân, bí mật gia
đình đượ pháp luật
đảm bảo an to vợàn.
Điều 54
Công dân, không
phân biệt dân tộc,
nam nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp,
thời hạn cư trú, đủ
mười tám tuổi trở lên
đều có quyền bầu cử
và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên đều có
quyền ứng cử vào
Quốc hội, Hội đồng
nhân dân theo quy
định của pháp luật.
Điều 27
Công dân đủ mười
tám tuổi trở lên có

quyền bầu cử và đủ
hai mốt tuổi trở lên
có quyền ứng cử vào
Quốc hội, Hội đồng
nhân dân. Việc thực
hiện các quyền này
do luật định.
11
Điều 34 ( Mới)
Công dân có quyền
được bảo đảm an sinh
xã hội.
Đây là điểm mới được quy định
trong Hiến Pháp năm 2013. Thông
qua điều luật này cho thấy công
dân là quốc tịch Việt nam có
quyền được bảo đảm an sinh xã
hội. Khi xã hội càng phát triển thì
chế độ phúc lợi xã hội cũng phát
triển theo. Ví dụ: những người có
công với cách mạng, người già,
người tàn tật
Điều 64
Gia đình là tế bào
của xã hội.
Nhà nước bảo hộ
hôn nhân và gia
đình.
Hôn nhân theo
nguyên tắc tự

nguyện, tiến bộ, một
vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng.
Cha mẹ có trách
nhiệm nuôi dạy con
thành những công
dân tốt. Con cháu có
bổn phận kính trọng
và chăm sóc ông bà,
cha mẹ.
Nhà nước và xã hội
không thừa nhận
việc phân biệt đối xử
giữa các con.
Điều 36
1.Nam nữ có quyền
kết hôn, ly hôn. Hôn
nhân theo nguyên tắc
tự nguyện, tiến bộ,
một vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau.
2. Nhà nước bảo hộ
hôn nhân và gia đình,
bảo hộ quyền lợi của
người mẹ và trẻ em.
Điều 65
Trẻ em được gia
đình, Nhà nước và xã
hội bảo vệ, chăm sóc

và giáo dục.
Điều 37
1.Trẻ em được nhà
nước, gia đình và xã
hội bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục; được
tham gia vào các vấn
đề về trẻ em. Nghiêm
cấm xâm hại, hành
hạ, ngược dãi, bỏ
mặc, lạm dụng, bóc
lột sức lao động và
những hành vi khác
12
vi phạm quyền trẻ
em.
2. Thanh niên được
nhà nước, gia đình
và xã hội tạo điều
kiện học tập, lao
động, giải trí, phát
triển trí lực, trí tuệ,
bồi dưỡng đạo đức,
truyền thống dân tộc,
ý thức công dân; đi
dầu trong công cuộc
lao động sáng tạo và
bảo vệ Tổ quốc.
3. Người cao tuổi
được Nhà nước, gia

đình và xã hội tôn
trọng, chăm sóc và
phát huy vai trò trong
sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 41( mới)
Mọi người có quyền
hưởng thụ và tiếp cận
giá trị văn hóa, tham
gia vào đời sống văn
hóa, sử dụng các cơ
sở văn hóa.
Đây là điểm mới được bổ sung
trong Hiến Pháp năm 2013. Điều
luật này cho thấy mọi người có
quyền hưởng thụ và tiếp cận văn
hóa, tham gia vào đời sống văn
hóa
Điều 42 ( mới)
Công dân có quyền
xác định dân tộc của
mình, sử dụng ngôn
ngữ mẹ đẻ, lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp.
Đây là điểm mới được bổ sung
trong Hiến pháp năm 2013. Điều
luật này quy định quyền tự do cơ
bản của công dân được bổ sung
thêm trong Hiến pháp. Trên cơ sở
đó công dân có quyền tự chủ xác

định dân tộc của mình, tự chủ
trong việc sử dụng ngôn ngữ mẹ
đẻ, có quyền lựa chọn ngôn ngữ
giao tiếp.
Điều 43 ( Mới)
Mọi người có quyền
được sống trong môi
trường trong lành và
có nghĩa vụ bảo vệ
môi trường.
Đây là điểm mới được bổ sung
trong Hiến pháp năm 2013. Điều
luật này quy định mọi người cần
có ý thức bảo vệ môi trường,
không vứt rác và đổ rác bừa bãi và
được sống trong môi trường trong
lành. Để có môi trường trong lành
13
thì cần phải trồng nhiều cây xanh
nơi mình ở, không chặt phá rừng
bừa bãi.
Khoản 6 – Điều 96
Bảo vệ quyền và lợi
ích của nhà nước và
xã hội, quyền con
người, quyền công
dân; bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội
Khoản 3 – Điều
107

Viện Kiểm sát nhân
dân có nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người,
quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân,
góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Khoản 3 – Điều
102
Tòa án nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá
nhân.
Ngoài những điều trên, Hiến pháp năm 2013 còn quy định nhiều điều luật
về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã quy định rõ ràng,
cụ thể và bổ sung đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992.
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo

hướng ghi nhận mọi người có quyền, công dân có quyền và quyền con người là
quyền tự nhiên, bất cứ ai cũng có quyền đó, quyền công dân là quyền của người
14
có quốc tịch Việt Nam Để mọi người, công dân thực hiện quyền của mình thì
Hiến pháp năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước phải ban hành văn bản
pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện đầy đủ
các quyền của mình.
* Trong các điểm mới vừa trình bày ở Hiến pháp năm 2013 về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân tôi tâm đắc nhất là Chương V-
hiến pháp năm 1992 có nội dung “ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” thành
chương II – Hiến pháp năm 2013 có nội dung “ Quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân” vì:
Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi
nhận trong Chương II của bản Hiến pháp mới này đã thể hiện đầy đủ về tính dân
chủ, nhân văn và cơ chế nhằm đảm bảo, bảo vệ tuyệt đối của Nhà nước ta bằng
pháp luật đối với mọi người dân về quyền con người, quyền công dân. Đồng thời,
thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về vấn đề quyền con người, quyền
công dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nổ
lực của Nhà nước ta trong việc hiến định những vấn đề có liên quan đến quyền
con người trong các công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên.
Cụ thể đó là:
+ Một là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi quy định đầy đủ hơn và đã có sự
phân định rạch ròi về quyền con người, quyền công dân. Mặc dù, trong Hiến
pháp năm 1992 đã ghi nhận về quyền con người, nhưng các quyền đó chỉ được
thể hiện thông qua các quy định về quyền công dân. Điều này dẫn đến rất khó
khăn khi cần xác định “ranh giới” đâu là quyền con người để thể chế hóa quy
định của Hiến pháp cũng như xác định, đưa ra những biện pháp để bảo đảm cho
mọi người dân thực hiện quyền của mình. Vì thế, trong Hiến pháp năm 2013 sửa
đổi, đã có sự phân định rõ ràng về vấn đề này, đồng thời các quy định về quyền
con người, quyền công dân được đặt ở vị trí trang trọng trong đạo luật cơ bản tại

Chương II của Hiến pháp. Mặt khác, trong các quy định cụ thể của bản Hiến pháp
này cũng đã thể hiện rõ ràng về vấn đề đó, chẳng hạn chúng ta thấy những quy
định nào ghi nhận“mọi người có quyền”, thì đó là sự thể hiện cụ thể về quyền con
người, còn những quy định nào ghi nhận “công dân có quyền” thì đó là thể hiện
cụ thể về các quyền cơ bản của công dân;
+ Hai là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi đã xác định rõ ràng hơn về các
nguyên tắc để đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo hiến định. Hiến
pháp năm 1992 chỉ quy định “các quyền con người được tôn trọng”, nhưng trong
các quy định của Hiến pháp năm 2013 sửa đổi đã xác định rõ ràng rằng “ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng” (Điều 14). Như vậy, trong các chế định này có hai nội dung mới được ghi
nhận, đó là: quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe cộng đồng chứ không thể vì lý do nào khác; việc hạn chế
15
quyền con người, quyền công dân phải do quy định của pháp luật, tức là phải
được quy định trong các đạo luật do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban
hành chứ không thể bị hạn chế một cách tùy tiện. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm
2013 sửa đổi còn xác định cụ thể về cách thức để mọi người thực hiện được các
quyền này, đó là “việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được
xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác” (khoản 4 Điều 15). Đồng thời, xác định về sự bình đẳng, bình quyền của
mọi người trước pháp luật, đó là “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật,
không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội” (Điều 16);
+ Ba là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi khẳng định rõ ràng và với đầy đủ

trách nhiệm về các mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
giữa Nhà nước với công dân, với người Việt Nam định cư ở nước ngoài và
trách nhiệm quốc tế đối với những người đấu tranh vì tự do, độc lập và chủ
nghĩa xã hội. Để đảm bảo điều này, tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi
khẳng định hùng hồn rằng, “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân ” (khoản 2). Đồng
thời, một lần nữa khẳng định lại về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân,
theo đó “quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” (khoản 1 Điều 15);
xác định rõ trách nhiệm của cá nhân, công dân trong việc thực hiện quyền con
người, quyền công dân là phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác, không được xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc (khoản 2,
khoản 4 Điều 15). Xác định rõ về mối quan hệ và trách nhiệm giữa Nhà nước, xã
hội và công dân, theo đó trong Hiến pháp ghi nhận rõ ràng rằng“công dân có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội” (khoản 3 Điều 15);
đồng thời “Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước
khác. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam bảo hộ” (Điều 17). Đặc biệt, với các quy định hiện hành Hiến
pháp đã làm rõ thêm về tình cảm, đạo lý và trách nhiệm đối với bộ phận người
Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18) và trách nhiệm quốc tế đối với những
người nước ngoài đấu tranh vì tự do, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, theo
đó “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội,
dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét cho cư trú” (Điều 49);
+ Bốn là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi đã bổ sung và quy định rõ ràng,
đầy đủ hơn về các quyền cụ thể của quyền con người, quyền công dân phù hợp
với đời sống thực tiễn. Về vấn đề này và để đảm bảo cho các quyền tự nhiên của
con người phù hợp với điều kiện của đời sống thực tiễn, trong các quy định của
bản Hiến pháp này đã bổ sung thêm các quyền con người, quyền công dân
như, quyền sống (Điều 19); quyền hiến mô, bộ phận người và hiến xác (khoản 3
Điều 20); quyền được đảm bảo an sinh xã hội (Điều 34); quyền sở hữu tư nhân và

quyền thừa kế (khoản 2 Điều 32); quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền bình đẳng
trong việc sử dụng các dịch vụ y tế (khoản 1 Điều 38); quyền nghiên cứu khoa
học và công nghệ (Điều 40); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa,
quyền tham gia vào đời sống văn hóa và sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều
16
41); quyền xác định dân tộc của mình, quyền sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ và tự do
lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền sống trong môi trường trong
lành (Điều 43) Đồng thời, bổ sung và quy định rõ hơn về quyền của các nhóm
đối tượng đặc thù, như trẻ em, thanh niên, người cao tuổi. Đó là, Hiến pháp quy
định rõ rằng, trẻ em có quyền được tham gia vào các vấn đề liên quan tới trẻ em;
nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động
và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (khoản 1 Điều 37); người cao tuổi
được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (khoản 3 Điều 37). Liên quan đến quyền
lao động Hiến pháp năm 2013 sửa đổi quy định rõ ràng, đầy đủ hơn về quyền này,
Theo đó, công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm
việc. Đặc biệt, Hiến pháp còn đưa ra các quy định để bảo đảm thực hiện các
quyền này, chẳng hạn bên cạnh việc quy định mọi người bình đẳng trước pháp
luật, thì Hiến pháp cũng quy định rõ ràng rằng “Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (khoản 2 Điều 16) ;
Trên đây là một số điểm mới, tiến bộ thể hiện về tính ưu việt, dân chủ trong
hoạt động lập hiến của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tiến
trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân và vì Nhân dân.
Câu 6.
Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. Phân tích điểm mới về mối
quan hệ giữa các cơ quan đó trong thực hiện quyền lực Nhà nước?
Gợi ý trả lời:
1. Quốc hội

- Về vị trí: chương V của Hiến pháp, sửa đổi, quy định về Quốc Hội (QH),
với 16 điều, từ Ðiều 69 đến Ðiều 85 (so với 18 điều, từ Ðiều 83 đến Ðiều 100 tại
Chương VI của Hiến pháp năm 1992).
- Về mặt kỹ thuật, số lượng các điều trong Chương có giảm đi (giảm 2
Điều); cách thiết kế các điều cũng thể hiện sự hợp lý, logic, chặt chẽ hơn về văn
phong, bố cục, thể hiện bước tiến mới về kỹ thuật lập hiến.
- Nội dung: Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước
CHXHCN Việt Nam (Ðiều 69). Ðánh giá một cách tổng thể, có thể nói các vấn đề
căn bản nhất về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong bản
Hiến pháp 2013 tiếp tục kế thừa các quy định về Quốc hội trong Hiến pháp năm
1992. Theo đó, "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước".
Bên cạnh đó, các quy định về Quốc hội trong Hiến pháp 2013 đã có những
điều chỉnh theo hướng minh định rõ hơn về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền
17
hạn của Quốc hội, các chủ thể có liên quan trong tổ chức và hoạt động của Quốc
hội. Thể hiện qua một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất, về quyền lập hiến, Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến (Ðiều 69), so với Hiến pháp năm 1992, đã bỏ cụm từ "duy nhất",
gắn với khả năng thực hiện trưng cầu ý dân về Hiến pháp trong quy trình sửa đổi
Hiến pháp trong tương lai. Tại khoản 4 Ðiều 120 đã bổ sung quy định: "Hiến
pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định"; quy
định này nhằm thể chế hóa chủ trương của Ðảng về phát huy dân chủ XHCN;
Quốc hội với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam được trao thẩm quyền quyết
định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn
cụ thể của đất nước.

Thứ hai, Hiến pháp 2013 đã có các điều chỉnh tương ứng liên quan đến
thẩm quyền của Quốc hội, như: trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao, đã bổ
sung quy định Quốc hội thực hiện việc "xét báo cáo công tác của Hội đồng bầu cử
quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập" (điểm
2 Ðiều 70); trong việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử
quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội
thành lập; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội
đồng bầu cử quốc gia (điểm 7 Ðiều 70), v.v.
Hiến pháp năm 2013 cũng quy định bổ sung theo hướng đầy đủ, chặt chẽ
hơn về thẩm quyền của Quốc hội không chỉ giới hạn ở việc thành lập, giải thể đơn
vị hành chính - kinh tế đặc biệt, mà còn bổ sung cả việc nhập, chia, điều chỉnh địa
giới hành chính của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; bổ sung quy định việc
Quốc hội có thẩm quyền thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến
pháp và Luật (điểm 9 Ðiều 70).
Về Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, so với Hiến pháp năm
1992, Hiến pháp 2013 đã có sự điều chỉnh theo hướng quy định việc Quốc hội chỉ
bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của QH; còn các Phó Chủ
tịch Hội đồng dân tộc và các Ủy viên, các Phó Chủ nhiệm các Ủy ban và các Ủy
viên Ủy ban do Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn (các điều 70, 75, 76); việc
thành lập, giải thể Ủy ban của Quốc hội do Quốc hội quyết định (Ðiều 76). Quy
định này một mặt vẫn bảo đảm được vị thế của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội, mặt khác bảo đảm tính chủ động, kịp thời, không phức tạp về quy trình,
thủ tục trong trường hợp cần có sự điều chỉnh về nhân sự do yêu cầu của thực
tiễn.
Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 còn bổ sung quy định về thẩm quyền của
Quốc hội trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao (điểm 7 Ðiều 70).
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 quy định theo hướng rõ và hợp lý hơn về
trách nhiệm, thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước. Quốc hội có thẩm quyền "quyết định chính sách cơ bản về

tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết
định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và
18
ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ
công, nợ Chính phủ; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ
ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước" (điểm 4
Ðiều 70).
Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 quy định thẩm quyền của Quốc hội trong các
vấn đề liên quan đến đối ngoại, chủ quyền quốc gia cũng đã được điều chỉnh lại
theo hướng rõ, chặt chẽ hơn. Tại điểm 14, Ðiều 70, bên cạnh việc tiếp tục quy
định thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định chính sách cơ bản về đối
ngoại, đã có sự điều chỉnh cụ thể, hợp lý hơn thông qua việc quy định thẩm quyền
của Quốc hội trong việc phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực
của Điều ước Quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư
cách thành viên của CHXHCN Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan
trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân và điều ước.
2. Chính phủ.
Đây là một chương có nhiều nội dung đổi mới trong bản Hiến pháp năm
2013. Một số điểm mới căn bản sau đây:
Thứ nhất: Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
Trước đây, Hiến pháp năm 1992 quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành
và điều hành tức là chấp hành Luật, văn bản luật của Quốc hội và điều hành
chung hoạt động kinh tế- xã hội của quốc gia.
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ
là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, nhấn mạnh và đề cao hơn tính chất, vị trí
của Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời cũng nhấn mạnh Chính phủ có vai trò hoạch
định chính sách (Khoản 2- Điều 96).
Hiến pháp quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc

tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật…
Về cơ cấu, thành phần của Chính phủ: Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung
thêm quy định cơ cầu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định để
trên cơ sở đó quy định trong luật về cơ cấu, số lượng, thành viên của Chính phủ.
Thứ hai: Về chế định Thủ tướng Chính phủ
Theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 chế định về Thủ tướng Chính phủ vị
thế và vai trò của Thủ tướng được nâng cao hơn. Tập trung thẩm quyền của Thủ
tướng trong việc lãnh đạo, điều hành Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước
từ Trung ương đến địa phương.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội về hoạt đọng của Chính phủ và nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước.
Thứ ba: Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng
Hiến pháp năm 2013 có một số sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò,
trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là thành viên
của Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ với tư cách là thành
viên Chính phủ.
19
- Về vị trí , vai trò của Bộ trường, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Về chế độ chịu trách nhiệm
- Về nhiệm vụ, quyền hạn
- Về trách nhiệm giải trình…
Đối với Chính phủ, Hiến pháp (sửa đổi) có nhiều quy định mới, thậm chí
rất mới, vừa tạo cơ sở hiến định để Chính phủ chủ động, năng động, sáng tạo hơn
trong hoạch định chính sách, tổ chức thực thi Hiến pháp, pháp luật và trong đối
phó với tình hình mới; vừa đặt Chính phủ trong cơ chế kiểm soát chặt chẽ của
nhân dân, đề cao trách nhiệm trước nhân dân. Với những quy định mới của Hiến
pháp (sửa đổi) về Chính phủ, tin rằng đất nước sẽ có một Chính phủ mạnh, đủ sức
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài điểm mới đã nêu ở trên, ở mức độ khái

quát, có thể thấy quy định của Hiến pháp (sửa đổi) còn có một số điểm mới cụ thể
như sau:
Một là, Hiến pháp đã sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo
hướng khái quát, hợp lý hơn, phù hợp với vị trí hành pháp của Chính phủ (Điều
96), chẳng hạn như: (i) Khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ,
Hiến pháp quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ "đề xuất, xây dựng chính
sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định
theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này "
(khoản 2 Điều 96).
Hai là, Hiến pháp quy định rõ cơ cấu, thành phần của Chính phủ "gồm Thủ tướng
Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ". Như vậy, Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ cụm từ "các thành viên khác" so
với Hiến pháp năm 1992 và bổ sung quy định "cơ cấu, số lượng thành viên Chính
phủ do Quốc hội quy định" để trên cơ sở đó sẽ quy định trong luật về cơ cấu, số
lượng thành viên Chính phủ nhằm bảo đảm tính ổn định.
Ba là, Hiến pháp tăng cường vai trò, vị thế và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng
Chính phủ (Điều 98). Thủ tướng Chính phủ được xác định là người đứng đầu
Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và
những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (thay vì quy
định chung chung, không rõ ràng như Hiến pháp năm 1992).
Bốn là, Hiến pháp tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ.
3. Điểm mới về Tòa án
Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
tư pháp”. So với Hiến pháp năm 1992 thì ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân
dân còn thực hiện quyền tư pháp là nhằm phân định quyền lực nhà nước theo
hướng Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Chính phủ là cơ quan
thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập

pháp. Đây là cơ sở pháp lý để giao cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết
những loại vụ việc liên quyền con người, quyền của công dân, mà những loại việc
đó hiện nay là các cơ quan hành chính đang thực hiện…
20
Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định “Tòa án nhân dân gồm
Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định” cho phù hợp với chủ
trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị là xác định tổ chức
hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào địa giới hành chính mà để
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định, làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới hoạt
động tư pháp, phù hợp với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.
Bổ sung Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định về nhiệm vụ của
Tòa án nhân dân là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân đã thể hiện rõ nét về nhiệm vụ của Tòa án, đảm bảo
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ Tòa án.
Câu 7: Cấp chính quyền địa phương quy định trong Hiến pháp năm
2013 gồm những cơ quan nào? Bạn hãy nêu nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của chính quyền địa phương đối với Nhân dân.
Gợi ý trả lời:
* Hiến pháp năm 2013 quy định về Chính quyền địa phương tại Chương IX
Chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân. HĐND và UBND thường gọi là chính quyền, là cơ quan thực thi quyền lực
Nhà nước ở địa phương. HĐND và UBND là 2 cơ quan có vị trí và tính chất khác
nhau, nhưng được tổ chức và hoạt động trên cùng một địa bàn, một cấp hành
chính, có sự gắn kết chặt chẽ giữa HĐND và UBND trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.
Điều 113 – Hiến pháp 2013 quy định:
1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân do Nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan Nhà

nước cấp trên.
2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương do
Luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Điều 114 – Hiến pháp 2013 quy định:
1. Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên.
2. Ủy ban nhân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ
chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ
*Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương đối
với nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp chức năng nhiệm vụ của chính quyền
địa phương. Theo đó, chính quyền địa phương có 2 nhiệm vụ được phân biệt với
nhau: Nhiệm vụ tổ chức và đảm bảo việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa
phương và nhiệm vụ quyết định các vấn đề của địa phương do luật định, chịu sự
kiểm tra, giám sát của cơ quan Nhà nước cấp trên. Nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các
21
cơ quan Nhà nước ở Trung ương, địa phương và mỗi cấp chính quyền địa
phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa phương được giao thực hiện
một số nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực
hiện nhiệm vụ được phân công.
Về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương: Hiến pháp năm
1992 không có điều khoản riêng quy định về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
chính quyền địa phương mà nội dung này được thể hiện thông qua các quy định
về thẩm quyền của HĐND

và UBND. Hiến pháp năm 2013 đã thay đổi cách tiếp

cận khi bổ sung một điều mới (Điều 112) quy định về vai trò, chức năng, nhiệm
vụ của chính quyền địa phương. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, khoản 1 của Điều này khẳng định rõ chính quyền địa phương có 02
loại nhiệm vụ được phân biệt với nhau: (1) Nhiệm vụ tổ chức và bảo đảm việc thi
hành Hiến pháp, pháp luật tại địa phương; (2) Quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định.
Trong một Nhà nước đơn nhất như nước ta, nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của chính
quyền địa phương là tổ chức và bảo đảm thực hiện Hiến pháp, pháp luật tại địa
phương. Đồng thời, chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ xuất phát từ
tính đặc thù của địa phương. Đây là quy định thể hiện nhiệm vụ có tính tự quản
cao của chính quyền địa phương, nhằm phát huy lợi thế của mỗi địa phương trên
thực tế.

Thứ hai, khoản 2 Điều 112 quy định rõ “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền
địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà
nước ở Trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương”. Có
thể nói, đây là một định hướng quan trọng trong việc thiết kế cơ chế điều chỉnh
mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và chính quyền Trung ương (cũng như
giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau) trong thời gian tới. Chỉ có trên cơ
sở phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp chính quyền theo tinh thần phân cấp
mạnh mẽ thì cơ chế xác định trách nhiệm, bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của mỗi cấp chính quyền cũng như thực hiện việc kiểm soát quyền lực mới
có hiệu quả.

Thứ ba, khoản 3 Điều 112 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, chính quyền địa
phương được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với
các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó”. Trên thực tế rất nhiều nhiệm vụ
của Trung ương được giao cho địa phương thực hiện, nhưng chỉ giao việc mà
không kèm theo các điều kiện để thực hiện công việc, do đó, gây rất nhiều khó
khăn cho địa phương. Quy định tại khoản 3 Điều 112 của Hiến pháp tạo cơ sở

hiến định giải quyết nhiều khó khăn của các địa phương hiện nay.
Đại biểu Hội đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
nhân địa phương. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động Nhân dân
thực hiện Hiến pháp và pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội
đồng nhân dân, động viên Nhân dân tham gia quản lý nhà nước.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân,
các thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh tòa án nhân dân….Đại biểu Hội
22
đồng nhân dân có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị địa
phương.
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân có trách nhiệm thông báo tình hình
địa phương cho Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, lắng nghe
ý kiến, kiến nghị của các tổ chức về xây dựng chính quyền và phát triển kinh tế xã
hội ở địa phương, phối hợp với Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân vận động nhân dân cùng nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.
Câu 8. Hiến pháp năm 2013 quy định như thế nào về trách nhiệm của
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đối với cử tri và Nhân dân?
Gợi ý trả lời:
Hiến pháp năm 2013 quy định về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân đối với cử tri và Nhân dân?
- Trách nhiệm của Đại biểu quốc hội được quy định từ Điều 79 của Hiến
pháp năm 2013. “1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước. 2. Đại biểu
Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và
phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ
chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của
đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn
đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công
dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. 3. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động

Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật”.
Quy định trên của Hiến pháp đã xác định rõ mối quan hệ giữa đại biểu Quốc
hội với cử tri và Nhân dân. Thể hiện ở hai khía cạnh:
Thứ nhất, đại biểu Quốc hội là người được Nhân dân ủy quyền
1
, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả
nước. Thứ hai, để thực hiện được trách nhiệm của người được ủy quyền, đại biểu
Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và
phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ
chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của
đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân
thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Chính vì vậy, theo quy định của pháp luật hiện
hành và trên thực tế, các đại biểu Quốc hội đều phải thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc
cử tri trước và sau kỳ họp để tiếp thu ý kiến của cử tri và Nhân dân. Tại Nghị
trường, đại biểu Quốc hội sử dụng quyền của mình để thể hiện chính kiến, nói lên
ý chí, nguyện vọng của cử tri ở nơi bầu ra mình và của Nhân dân cả nước.
*. Trách nhiệm của Đại biểu Hội đồng nhân dân đối với cử tri và nhân
dân.
Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do
1
23
Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ
quan nhà nước cấp trên. Theo đó, có thể hiểu trách nhiệm của đại biểu Hội đồng
nhân dân với cử tri và Nhân dân được thể hiện ở hai nội dung lớn:
Một là, trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri và Nhân dân
được thể hiện qua trách nhiệm chung của Hội đồng nhân dân. Ở khía cạnh này,
Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát

việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết
của Hội đồng nhân dân.
Hai là, trách nhiệm của đại biểu Hội đồng nhân dân với cử tri và Nhân dân
được thể hiện qua trách nhiệm của từng đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 115 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ địa vị pháp lý của Đại biểu
HĐND: “Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân
dân địa phương”. Theo đó, đại biểu HĐND có trách nhiệm sau:
- Đối với cử tri
+ Đại biểu Hội đồng nhân dân phải liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vị bầu ra
mình, chịu sự giám sát của cử tri, có trách nhiệm thu thập và phản ánh trung thực
ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của cử tri với Hội đồng nhân dân và cơ quan nhà
nước hữu quan ở địa phương.
+ Mỗi năm một lần vào cuối năm, kết hợp với việc tiếp xúc cử tri, đại biểu
Hội đồng nhân dân báo cáo với cử tri ở đơn vị bầu ra mình về hoạt động trong
năm, nhiệm vụ năm tới của mình và của Hội đồng nhân dân.
+ Sau mỗi kỳ họp Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách
nhiệm báo cáo với cử tri về kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị
quyết của Hội đồng nhân dân, vận động và cùng với nhân dân thực hiện các nghị
quyết đó.
- Tại kỳ họp Hội đồng nhân dân
+ Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ chấp hành nội quy kỳ họp, tham
dự đầy đủ kỳ họp, phiên họp của Hội đồng nhân dân, cuộc thảo luận ở Tổ đại biểu
Hội đồng nhân dân, cuộc họp Ban của Hội đồng nhân dân mà đại biểu là thành
viên, tham gia các hoạt động khác của Hội đồng nhân dân.
+ Khi nhận được thông báo về thời gian, dự kiến chương trình và tài liệu kỳ
họp, đại biểu Hội đồng nhân dân phải nghiên cứu tài liệu, tiếp xúc cử tri, tham gia
các hoạt động của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân chuẩn bị cho kỳ họp Hội đồng
nhân dân.
+ Trong kỳ họp Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có những
nhiệm vụ sau đây: Tham gia thảo luận và quyết định chương trình kỳ họp; Thảo

luận tại phiên họp toàn thể và thảo luận ở Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân về các
vấn đề thuộc nội dung, chương trình kỳ họp; Biểu quyết thông qua những vấn đề
thuộc nội dung, chương trình kỳ họp.
- Trách nhiệm tiếp xúc cử tri, tiếp công dân
+ Trong thời gian giữa hai kỳ họp, đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ
tiếp xúc cử tri ở đơn vị bầu cử của mình, phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân
dân với Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà nước, báo cáo kết quả kỳ họp với
cử tri, tuyên truyền thực hiện tốt pháp luật.
24
+ Đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp công dân nhằm thu thập ý kiến, nguyện
vọng, kiến nghị của công dân; giải thích, tuyên truyền chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước cho công dân; hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo và nhận đơn thư của công dân để chuyển đến cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
+ Khi nhận được ý kiến, kiến nghị của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân
xem xét, nghiên cứu để phản ánh tới Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc
chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
+ Khi nhận được khiếu nại, tố cáo của công dân, đại biểu Hội đồng nhân dân
có trách nhiệm nghiên cứu và hướng dẫn công dân gửi khiếu nại, tố cáo đến đúng
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp cần thiết,
đại biểu Hội đồng nhân dân trực tiếp hoặc thông qua Thường trực Hội đồng nhân
dân chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để xem xét giải quyết.
Đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm đôn đốc, theo dõi cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
+ Đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp công dân phải tổng hợp ý kiến, kiến nghị,
đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân để báo cáo Thường trực Hội đồng nhân
dân
Tóm lại, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân không
chỉ phụ thuộc vào cách thức tổ chức hoạt động chuyên nghiệp của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân mà điều quan trọng hơn là phụ thuộc vào chính năng lực,

trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trước cử
tri và Nhân dân. Do đó, trong thời gian tới, mỗi Đại biểu dân cử nói riêng và
cơ quan dân cử nói chung cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu
quả hoạt động của mình trong việc thực hiện các nhiệm vụ cơ bản được
Nhân dân ủy quyền. Đó chính là việc làm thiết thực nhất thể hiện trách
nhiệm của từng đại biểu, của cơ quan dân cử với sự tín nhiệm của cử tri và
Nhân dân.
Câu 9.
“…Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (trích Lời nói đầu Hiến
pháp năm 2013)
Theo bạn, Nhà nước và mỗi người dân có trách nhiệm làm gì và làm như
thế nào để thi hành và bảo vệ Hiến pháp?
Trả lời:
Theo tôi thì Nhà nước và mỗi công dân cần thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật Việt
Nam, học tập làm việc tốt, nâng cao lòng nhân ái, phát huy các truyền thống quý
báu của dân tộc, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức thật tốt góp phần xây dựng nước
Việt
Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh:
Trách nhiệm của nhà nước:
Theo điều 3 Hiến pháp 2013: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của
Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
25

×