1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HOÀNG LONG
PHÓNG SỰ VỀ NÔNG THÔN, NÔNG DÂN
GIAI ĐOẠN ĐẦU THỜI ĐỔI MỚI 1986-1991
(KHẢO SÁT TRÊN BÁO VĂN NGHỆ)
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
HÀ NỘI-2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HOÀNG LONG
PHÓNG SỰ VỀ NÔNG THÔN, NÔNG DÂN
GIAI ĐOẠN ĐẦU THỜI ĐỔI MỚI 1986 – 1991
(KHẢO SÁT TRÊN BÁO VĂN NGHỆ)
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60.22.01.20
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Khánh Thành
Hà Nội-2013
3
LỜI CẢM Ơ
N
Với tình cảm trân trọng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến
qúy thầy, cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc PGS.TS.
Trần Khánh Thành - người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cám ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đề tài.
Nguyễn Hoàng Long
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Lý do chọn đề tài……………………………………………………
1
2
Lịch sử vấn đề nghiên cứu ………………………………………
2
3
Mục tiêu, nhiệm vụ ………………………………………………
6
4
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu………………………………
7
5
Phƣơng pháp nghiên cứu …………………………………………
8
6
Cấu trúc luận văn …………………………………………………
8
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ VĂN PHÓNG SỰ
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẦU ĐỔI MỚI
9
1.1
Sự xuất hiện và phát triển của thể phóng sự……………………….
9
1.1.1
Bối cảnh xã hội và tiền đề xuất hiện……………………………………
9
1.1.2
Phóng sự Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới 1986-1991…………………
11
1.2
Phóng sự báo chí và phóng sự văn học…………………………
13
1.2.1
Phóng sự báo chí…………………………………………………………
14
1.2.2
Phóng sự văn học………………………………………………………….
16
1.3
Mảng phóng sự viết về nông thôn, nông dân…………………….
18
Chƣơng 2: NỘI DUNG HIỆN THỰC, CẢM HỨNG VÀ TƢ
TƢỞNG TRONG CÁC PHÓNG SỰ VỀ NÔNG THÔN,
NÔNG DÂN
25
2.1
Hiện thực nông thôn, nông dân Việt Nam trong phóng sự giai
đoạn đầu thời đổi mới 1986-1991…………………………………
25
2.1.1
Những đặc trưng vùng miền……………………………………………
25
2.1.2
Số phận con người…………………………………………………………
30
2.1.3
Hiện thực xã hội nhức nhối………………………………………………
35
2.2
Cảm hứng, tƣ tƣởng trong các tác phẩm phóng sự……………
53
2.2.1
Thẳng thắn vạch trần, tố cáo và phê phán……………………………
54
2.2.2
Niềm thương cảm sâu sắc………………………………………………
58
2.2.3
Ca ngợi vẻ đẹp con người, biểu dương những giá trị tích cực……
63
2.2.4
Những tiến bộ trong cái nhìn hiện thực………………………………
66
5
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT CỦA CÁC PHÓNG SỰ VỀ
NÔNG THÔN, NÔNG DÂN
73
3.1
Nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tƣ liệu
73
3.1.1
Tinh tế trong chi tiết thực tại…………………………………………………
73
3.1.2
Năng động trong tiếp cận hiện thực……………………………………………
75
3.1.3
Sáng tạo trong khai thác tư liệu…………………………………………………
79
3.2
Đa dạng trong kết cấu……………………………………………
81
3.2.1
Kết cấu phi cốt truyện…………………………………………………….
81
3.2.2
Kết cấu có cốt truyện……………………………………………………
83
3.2.3
Nghệ thuật thuật kể………………………………………………………
85
3.3
Phong cách ngôn ngữ, giọng điệu…………………………………
91
3.3.1
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ……………………………………………
91
3.3.2
Giọng điệu trần thuật……………………………………………………
95
KẾT LUẬN………………………………………………………….
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
104
6
MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới (1986 – 1991) khởi đầu từ Đại hội Đại biểu Đảng
toàn quốc lần thứ VI diễn ra từ ngày 5 đến ngày 18 tháng 12 năm 1986 tại Hà Nội có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển văn học Việt Nam. Trong giai đoạn
này, bên cạnh đổi mới về chính trị, kinh tế, đổi mới về văn hóa trong đó có văn học
nghệ thuật được biết nhiều dưới cụm từ “cởi mở” - tương tự như chính sách Glastnost
của Liên Xô cũ.
Là thể loại xung kích của văn học và báo chí thời kỳ đổi mới, một trong những
yếu tố tạo nên tầm quan trọng của phóng sự là “trong những thời kỳ có những biến
thiên xã hội nhanh chóng, nó là thể loại đầu tiên có thể bắt mạch sự kiện” [12], kịp
thời tiếp cận và phản ánh sự kiện một cách sinh động và hấp dẫn. Trong giai đoạn “cởi
mở” của thời kỳ đầu đổi mới, phóng sự về nông thôn, nông dân đã trở thành một thể
loại ăn khách, tạo sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với bạn đọc. Nếu như trước đổi mới,
những “cơ chế” hợp quy luật của cuộc sống, hợp lòng dân (như bãi bỏ ngăn sông cấm
chợ, trả lại quyền lợi của người nông dân trên mảnh đất của mình) không được đề cập
tới thì nay được “cởi mở” phản ánh. Sự hồi sinh của phóng sự là xu thế phát triển tất
yếu của thể loại trước những biến thiên của hiện thực đời sống và nhu cầu của thực
tiễn tiếp nhận. Không dừng lại ở chức năng thông tin, phóng sự về nông thôn, nông
dân giai đoạn đầu thời đổi mới còn “thức tỉnh bạn đọc về những vấn đề cần giải quyết
trong cuộc sống” [12].
Trong một xã hội cơ bản là nông nghiệp nên mảng phóng sự về nông thôn,
nông dân đã trở thành một đề tài thu hút nhiều cây bút tài năng và đã thu được những
bức tranh chân thực khá ấn tượng cũng là điều dễ lý giải. Tuy nhiên những chuyển
biến của phóng sự có ý nghĩa dự cảm cho sự xuất hiện một chặng đường văn học mới
dường như vẫn chưa thực sự lôi cuốn và thuyết phục các nhà nghiên cứu. Các công
trình nghiên cứu đa phần dành cho thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết. Phóng sự chưa được
nhìn nhận là đối tượng nghiên cứu độc lập bởi tính chất “lưỡng thê” giữa văn học và
báo chí của nó. Chính vì vậy, phóng sự chỉ được điểm qua thật sơ lược, vắn tắt ở một
vài bài viết có tính chất tổng kết thành tựu văn học thời kỳ đổi mới. Vấn đề đặt ra là
cần có sự quan tâm thỏa đáng đối với phóng sự, cần có những công trình nghiên cứu
7
tương xứng với tầm vóc thể loại. Nhất là cần nhìn nhận, đánh giá một cách chuyên biệt
từ nhiều góc độ khác nhau.
Chọn đề tài Phóng sự về nông thôn, nông dân giai đoạn đầu thời đổi mới,
chúng tôi tiến hành khảo sát một cách có hệ thống các phóng sự về nông thôn, nông
dân giai đoạn đầu thời đổi mới (khảo sát trên báo Văn nghệ), nhằm mục đích tìm ra
những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, những hạn chế của các phóng sự về
nông thôn, nông dân giai đoạn đầu đổi mới; thấy được những giá trị đặc sắc, khả năng
sáng tạo độc đáo; sự điều chỉnh cũng như sức sống của thể loại trước yêu cầu thực
tiễn, nhất là khi gặp thời điểm thuận lợi để phát triển.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Giai đoạn 1986 – 1991 là giai đoạn sôi nổi của đời sống văn nghệ ở Việt Nam.
Trong mọi lĩnh vực nghệ thuật, từ văn học, hội họa, âm nhạc, cho tới sân khấu, điện
ảnh, sự đổi mới diễn ra vô cùng quyết liệt. Trên báo Văn Nghệ - cơ quan ngôn luận của
Hội Nhà văn Việt Nam (số 49 và 50, ra ngày 5/12/1987), Nguyễn Minh Châu cho in
bài phát biểu nổi tiếng Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ. Bài
báo vừa là tuyên ngôn lý thuyết, vừa thể hiện tinh thần đổi mới văn học hết sức triệt để
của giới sáng tác.
Có thể nói, chưa bao giờ các cuộc toạ đàm “bàn tròn”, hội nghị, hội thảo khoa
học về những vấn đề lý luận văn học được tổ chức rầm rộ như ở giai đoạn này. Có hai
cuộc hội thảo lớn thu hút sự tham gia rất đông đảo của cả giới sáng tác, lẫn giới nghiên
cứu phê bình. Cuộc hội thảo thứ nhất xoay quanh đề tài về mối quan hệ giữa văn nghệ
và chính trị. Cuộc hội thảo thứ hai tập trung vào đề tài văn học phản ánh hiện thực.
Văn học cần phản ánh hiện thực như thế nào ?. Chủ thể sáng tạo của người nghệ sỹ có
vai trò gì trong việc phản ánh hiện thực ?. Văn học phục vụ chính trị là như thế nào ?.
Đặc trưng của văn học là gì ?. Vì sao văn học cần đổi mới ?. Đó là những vấn đề lý
luận và thực tiễn sáng tác liên quan tới hai đề tài nói trên. Những vấn đề này, tưởng
như đã có kết luận xong xuôi từ lâu, nay được xới lên bàn bạc, phân tích, giải quyết lại
theo tinh thần đổi mới. Tuy nhiên, dù trong khuôn khổ cuộc hội thảo thứ hai có bàn
luận về vai trò phản ánh hiện thực của phóng sự trong đó có phóng sự viết về nông
thôn, nông dân nhưng những ý kiến, nhận xét, trao đổi và thảo luận mới chỉ dừng lại ở
vấn đề đặc trưng của thể loại cũng như làm thế nào để đổi mới sáng tác theo hướng
phản ánh hiện thực một cách toàn diện.
8
Từ năm 1987 đến năm 1989, đổi mới, mở cửa vẫn là những cụm từ tiếp tục
được nhắc đến nhiều nhất và văn học nghệ thuật cũng không phải là ngoại lệ. Đóng
góp của phóng sự văn học trong đó có mảng đề tài về nông nghiệp, nông thôn được
nhắc tới nhiều hơn bằng những đánh giá, phân tích, nhận xét trên báo chí hoặc trên
một số diễn đàn khác. Đặc biệt, những cuộc tranh luận về văn học ở Việt Nam diễn ra
sôi nổi, vì lúc này người ta được ăn nói, được phát biểu chính kiến, được hít thở trong
một bầu không khí tương đối dân chủ, lành mạnh. Cũng chính bầu không khí ấy đã tạo
nên sự khởi sắc trong sáng tác văn học, nhất là văn học phản ánh hiện thực mà đi đầu
là các phóng sự về đề tài nông nghiệp, nông thôn. Thể phóng sự sau nhiều năm vắng
bóng, nay lại lên tiếng làm xôn xao dư luận. Những Tiếng đất của Hoàng Hữu Các,
Người đàn bà quỳ của Trần Khắc, Cái đêm hôm ấy…đêm gì ? của Phùng Gia Lộc, Lời
khai của bị can của Trần Huy Quang, Thủ tục để làm người còn sống của Minh
Chuyên, Suy nghĩ trên đường làng của Hồ Trung Tú, Làng giáo có gì vui của Hoàng
Minh Tường…để lại tiếng vang trong ký ức người đọc và được đưa lên bàn “nghị sự”
để phân tích, mổ xẻ. Trong những nốt nhạc dạo đầu cho chặng đường phóng sự mới,
có thể xem Cái đêm hôm ấy…đêm gì ? của Phùng Gia Lộc là nốt nhạc có sức lan tỏa
mạnh mẽ nhất. Một cuộc tranh luận gay gắt, thú vị về tác phẩm báo chí này đã diễn ra
với hai ý kiến đánh giá đối lập:
- Nhóm ý kiến thức nhất: “Dị ứng” và phản đối gay gắt với cái mới, cái “có
tính vấn đề”. Các ý kiến đều lên án tác giả, cho rằng tác giả lẫn lộn giữa hiện tượng và
bản chất. Trong Một bức thư (báo Văn nghệ, ngày 19/3/1988), Đặng Bửu viết: “Cũng
có thể ở đâu đấy, trong một hợp tác xã nào đó, có thể xảy ra cách đòi nợ kiểu này
nhưng mức độ không bao giờ đạt đến sự cường điệu của Lộc”. Cũng trong bài viết
này, ở tâm trạng bức xúc, Đặng Bửu lớn tiếng quy kết Cái đêm hôm ấy…đêm gì ? là
một “loại rác rưởi nọc độc”.
- Nhóm ý kiến thứ hai: Phản đối thái độ thiếu thiện chí của Đặng Bửu cũng như
của những cá nhân khác có ý kiến phản đối cái mới, cái “có tính vấn đề” và đồng tình
với những gì mà phóng sự phản ánh. Tựu trung có 15/46 ý kiến phản hồi bài viết của
Đặng Bửu, báo Văn nghệ (ngày 2/4/1988 và ngày 9/4/1988) có bài Trao đổi về bức thư
của ông Đặng Bửu. Nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất ở luận điểm: “Cái đêm
hôm ấy…đêm gì ? của Phùng Gia Lộc không phải là cá biệt nữa mà là một điển hình
có tính khái quát cao trong thực tế đời sống và trong văn học hôm nay”. “Cái đêm
9
hôm ấy…đêm gì ? là một sáng tác có giá trị…vừa mang tính hiện thực sâu sắc, vừa
mang tính dự báo kịp thời”.
Nhiều năm sau ngày Phùng Gia Lộc mất, trong bài “Nhớ mãi cái đêm hôm
ấy…(báo Văn nghệ, ngày 7/3/1992), nhà thơ Bế Kiến Quốc khi đó là biên tập viên của
báo Văn nghệ - người trực tiếp cưu mang và biên tập bài báo của Phùng Gia Lộc,
khẳng định: “Người ta không thể “bất ngờ” viết ra được Cái đêm hôm ấy…đêm gì ?
nếu không gắn bó, từng trải tất cả những buồn vui sướng khổ của người nông dân đích
thực như Lộc”. Và “tư cách của một người cầm bút như Phùng Gia Lộc sẽ mãi mãi
không bao giờ có thể bị lãng quên”.
Ba năm sau, năm 1995, trong bài Phùng Gia Lộc vinh quang và cay đắng, Chu
Giang viết: “Như một đốm sáng, Phùng Gia Lộc đã lóe lên giữa cơn cuồng say phẫn
nộ của một thời chất chứa từ Cái đêm hôm ấy Phùng đã ném thêm quả tạ lên bàn cân
dư luận, xoạc cẳng nhấn thêm cho đối thủ chìm xuống dòng phẫn nộ” [25, tr.353].
Cũng trong thời kỳ này, những luận bàn về phóng sự của các cây bút năng nổ
khác như: Minh Chuyên, Trần Huy Quang, Hoàng Minh Tường, Hồ Trung Tú…đa
phần là đồng tình, hưởng ứng sự năng động, bản lĩnh của người viết khi khai thác
những “vùng cấm địa” mà trước đây chưa có vết chân người. Phóng sự Suy nghĩ trên
đường làng của Hồ Trung Tú đăng trên báo Văn nghệ ngày 9/1/1988 có được lời
nhận xét đầy tích cực của bạn đọc Nguyễn Xuân Phúc – Bí thư Đảng ủy xã Thượng
Ấm, huyện Sơn Dương, tỉnh Hà Tuyên. Trong một bài viết đăng trên báo Văn nghệ
ngày 5/3/1988, Nguyễn Xuân Phúc nhận xét: “Phóng sự nho nhỏ ấy lại rất có sức
nặng, vì nó dám nói lên sự thật, nó dự báo hướng đi (tuy hơi chậm), nó góp phần
giải phóng sức sản xuất, giải phóng người nông dân, những người đang bị đau khổ
vì ách “bao cấp”. Giống như vậy, các phóng sự khác về nông thôn, nông dân trên
báo Văn nghệ thời kỳ đầu đổi mới của các cây bút khác cũng được bạn đọc và dư
luận đánh giá cao, thể hiện lập trường ủng hộ các cây bút xông xáo vào “mặt trận”.
Họ đặc biệt quan tâm đến sự dấn thân, nhập cuộc của người làm phóng sự. Chính từ
sự quan tâm này, các ý kiến đều chung quan điểm: sự thành công của các cây bút
phóng sự trong những năm đầu thời đổi mới đều khởi phát từ thái độ nhập cuộc có
trách nhiệm của bản thân tác giả.
Trong số những cây bút phóng sự nhập cuộc bằng tinh thần trách nhiệm, dấn
thân quên mình, Minh Chuyên nhận được nhiều nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên
cứu. Đa số đều nhận định, Minh Chuyên là cây phóng sự có nhiều phát hiện mới mẻ,
10
độc đáo, ấn tượng. Nhà nghiên cứu Đức Dũng cho rằng: “Sức hấp dẫn trong tác phẩm
của Minh Chuyên trước hết và chủ yếu gắn liền với những sự thật điển hình đến mức
không thể tin nổi…Những sự thật điển hình đó đã chắp cánh cho tác phẩm đi thẳng
đến trái tim của hàng triệu công chúng mà không cần đến bất cứ trợ giúp nào của trí
tượng tượng” [14]. Nhà nghiên cứu Trần Thị Trâm thì cho rằng, đề tài chiến tranh đã
tạo nên một hiện tượng Minh Chuyên - một “phong cách nghệ thuật khá độc đáo trong
làng báo, làng văn Việt Nam đương đại” [81, tr. 294].
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, dù phóng sự về nông thôn, nông dân giai
đoạn đầu thời đổi mới đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm hơn trong giai đoạn
từ năm 1991 đến năm 2001 song vẫn chỉ dừng lại ở những nhận xét sơ lược, chủ yếu
ở phương diện tư liệu mà chưa được xem là đối tượng nghiên cứu độc lập, toàn diện
và có hệ thống trong mối tương quan với đời sống xã hội đương thời. Giai đoạn này
tiêu biểu nhất có thể kể tới là bài nghiên cứu với nhan đề: Văn xuôi sau 1975 thử
thăm dò đôi nét quy luật phát triển của Nguyên Ngọc đăng trên Tạp chí Văn học năm
1991 và Đời sống văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại của Vũ Tuấn Anh
in trong Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định của Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
Mười năm trở lại đây cũng có thêm một số trao đổi, đánh giá, nhận xét về thể
loại phóng sự thời kỳ đổi mới, đó là: Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn
học thời kỳ đổi mới của Lý Hoài Thu đăng trên Tạp chí Văn học Nghệ thuật năm 2002;
Những thành tựu văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới của Hà Minh Đức đăng trên Tạp
chí Văn học năm 2002; Thể loại phóng sự trong văn học Việt Nam thế kỷ XX của Tôn
Thảo Miên đăng trên Tạp chí KHXH Việt Nam năm 2006…Cũng trong thời gian này,
nhiều luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ đề cập tới phóng sự tuy nhiên các đề tài chỉ
dừng lại ở đặc điểm của phóng sự của một tác giả cụ thể hoặc một phương diện của thể
loại. Đáng chú ý trong số này là:
- Đối chiếu ngôn ngữ phóng sự trên báo in bằng tiếng Anh và tiếng Việt (Luận
án tiến sỹ Ngữ văn của Nguyễn Thị Thu Hương, năm 2003). Tuy nhiên, vì đây là luận
án thuộc chuyên ngành ngôn ngữ học so sánh nên tác giả chỉ đưa ra được một vài nhận
xét về đặc điểm phóng sự thời kỳ đổi mới.
- Phóng sự Việt Nam trong môi trường sinh thái thời kỳ đổi mới (Luận án tiến
sỹ Ngữ văn của Trịnh Thị Bích Liên, năm 2008). Đây là đề tài khá công phu, đối
tượng khảo sát khá rộng, gồm nhiều tác phẩm, trong sự so sánh, đối chiếu với nhiều
11
thể tài. Tuy nhiên, tác giả chỉ dừng lại ở những khái quát về diện mạo phóng sự Việt
Nam thời kỳ đổi mới.
Ngoài hai luận án tiến sỹ trên, còn cố một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ,
chuyên đề…có cùng hướng nghiên cứu về thể phóng sự thời kỳ đổi mới, nhưng cũng
chỉ xem xét trên phương diện tư liệu hoặc nhận xét, đánh giá về đặc điểm của thể loại.
Nhìn nhận lại lịch sử vấn đề nghiên cứu thể loại phóng sự nói chung và phóng
sự về nông thôn, nông dân thời kỳ đầu đổi mới, do còn nhiều ý kiến khác nhau, do sự
kiểm duyệt nên những nghiên cứu về thể loại này còn ở mức hạn chế. Mặt khác, do
mai một của nhiều tờ báo, sự thất lạc của nhiều tác phẩm, do những cách nhìn nhận
đánh giá khác nhau, đặc biệt là đối với những tác phẩm viết về mặt trái của xã hội…
nên việc công bố, tái bản khá dè dặt, thậm chí bị thu hồi. Vì thế, thành tựu của phóng
sự giai đoạn đầu thời đổi mới chưa được bạn đọc biết đến đầy đủ. Phóng sự viết về
nông thôn, nông dân cũng cùng chung số phận. Không ít những phóng sự hay, có sức
lay chuyển xã hội bị bỏ sót, nhiều giá trị ưu tú của phóng sự viết về nông thôn, nông
dân bị bỏ qua.
Thực tế đó cho thấy, việc nghiên cứu phóng sự về nông thôn, nông dân giai
đoạn đầu thời đổi mới 1986-1991 (khảo sát trên báo Văn nghệ) là một việc làm hết sức
cần thiết và có ý nghĩa.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ
Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) với xu hướng dân
chủ hóa như một lực đẩy cần thiết để cánh cửa phóng sự mở ra. Đề tài phóng sự được
mở rộng tới một số vấn đề thời đại vốn ngại nói đến trước đổi mới, nay được các tác
giả khai thác. Đề tài đặt ra mục tiêu làm sáng tỏ những vấn đề thời sự được mổ xẻ,
nghiền ngẫm với những lời giải đáp thẳng thắn.
Văn học thời kỳ đổi mới nói chung và phóng sự về nông thôn, nông dân là một
đối tượng rộng lớn và chưa hoàn thành. Tuy nhiên, trong một giai đoạn ngắn của thời
kỳ đầu đổi mới, phóng sự về nông thôn, nông dân trên báo Văn nghệ đã phác họa nên
một diện mạo mới. Mục tiêu của đề tài nhằm nhận ra những thành tựu và hạn chế,
những đổi mới thực sự của thể loại phóng sự, trong đó có phóng sự về nông thôn, nông
dân trong bối cảnh đổi mới của đất nước. Chỉ ra được bước phát triển mới của giai
đoạn phóng sự này dưới tác động trực tiếp của công cuộc đổi mới. Thẩm định những
đóng góp của phóng sự thời kỳ đầu đổi mới với sự phát triển của xã hội.
12
Nhìn lại giai đoạn đầu thời đổi mới, chúng ta nhận ra có những điểm hội tụ mà
ở đó tác giả, tác phẩm, đề tài, chủ đề, sự tiếp nhận, phản hồi của công chúng văn học
đang nói lên sức sống sinh động của thể loại. Những hiện tượng nổi bật như Trần Huy
Quang, Phùng Gia Lộc, Minh Chuyên, Hoàng Minh Tường, Hồ Trung Tú, Trần
Khắc…chính là những điểm hội tụ như thế. Từ góc độ tiếp nhận văn học, đề tài đặt ra
mục tiêu làm rõ bản chất của các hiện tượng vừa nêu cũng như thấy được thị hiếu thẩm
mỹ của cộng đồng, thời đại.
Trong bối cảnh xã hội đổi mới, cái mới/lạ là câu chuyện dễ thu hút con người.
Khen chê là điều tất yếu trong cơ chế tiếp nhận của công chúng. Đề tài luận văn tập
trung tìm hiểu làm rõ sức sống của thể loại trong thời kỳ đầu đổi mới để phù hợp với
thị hiếu người đọc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá những thành tựu và hạn chế, những
đổi mới thực sự của thể loại phóng sự, trong đó có phóng sự về nông thôn, nông dân
trong bối cảnh đối mới của đất nước (có sự so sánh, đối chiếu với các thể tài khác như
ký sự, ghi chép).
Luận văn khảo sát nghệ thuật biểu hiện cái tôi, những sáng tạo trong nghệ thuật
kết cấu, những cách tân về mặt giọng điệu để từ đó định vị vai trò của phóng sự đối
với tiến trình đổi mới văn học.
Phóng sự là “thể loại nằm trong cuộc kéo co giữa văn học và báo chí” (Ilia
Côchencơ). Thực tế cả báo chí và văn học đều có phóng sự: phóng sự văn học và
phóng sự báo chí. Đề tài tập trung khảo sát 41 tác phẩm phóng sự tiêu biểu và một số
ký sự có sự giao thoa với phóng sự về đề tài nông thôn, nông dân đăng tải trên báo
Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) trong giai đoạn đầu thời đổi mới 1986 – 1991.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và điều kiện cũng như năng lực nghiên cứu của bản thân còn hạn
chế nên chúng tôi chỉ xin nghiên cứu các phóng sự về nông thôn, nông dân được đăng
tải trên báo Văn nghệ trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 – 1991). Ngoài ra, để làm rõ
đặc điểm của phóng sự về nông thôn, nông dân giai đoạn đầu thời đổi mới, luận văn
còn mở rộng phạm vi khảo sát nhằm so sánh với phóng sự thuộc các thời kỳ 1932 -
1945, 1945 – 1975 và 1975 -1985.
13
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Do khảo sát ở phạm vi một giai đoạn, có tính khái quát và tổng hợp theo hướng
tìm ra những giá trị độc đáo của phóng sự về nông thôn, nông dân Việt Nam nên luận
văn sử dụng nhiều phương pháp:
- Phương pháp thống kê: Đây là phương pháp có ý nghĩa quan trọng trong toàn
bộ quá trình triển khai luận văn. Việc thống kê, phân loại nhằm xác lập hệ thống các
luận điểm, các phương diện lý luận và thực tiễn cần nhìn nhận, đánh giá. Trên cơ sở
đó, các phương pháp thống kê, phân loại chính sẽ được tiến hành để lựa chọn, sắp xếp
những tác phẩm phóng sự tiêu biểu về nông thôn, nông dân thời đổi mới theo những
tiêu chí khác nhau tương ứng với các mục đích, nội dung khác nhau của luận văn.
- Phương pháp so sánh: Để có cái nhìn chính xác, khách quan, đầy đủ, luận văn
vận dụng phương pháp so sánh để đối chiếu phóng sự thời kỳ đầu đổi mới với phóng
sự của giai đoạn 1932 - 1945, 1945 – 1975 và 1975 - 1985, từ đó thấy được những
điểm tương đồng và khác biệt giữa phóng sự các thời kỳ. Sự so sánh này không mang
tính chất đề cao hay hạ thấp một giai đoạn phóng sự nào.
- Phương pháp xã hội học: Là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng văn học
trong mối quan hệ với hoàn cảnh ra đời của nó. Luận văn vận dụng những đặc điểm về
chính trị, kinh tế, văn hóa của xã hội Việt Nam giai đoạn đầu thời đổi mới để lý giải
những thành tựu về nội dung và nghệ thuật của phóng sự giai đoạn này.
- Ngoài ra, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu
trước, dựa trên những tìm hiểu của chúng tôi, trong phạm vi một đề tài nghiên cứu,
chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp khác, như: phương pháp tiếp cận thi pháp học,
phương pháp loại hình, phương pháp tiểu sử…để thực hiện đề tài.
6. Cấu trúc của luận văn
Để thể hiện những kết quả nghiên cứu trên, ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận
và Tài liệu tham khảo, luận văn được tổ chức thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề về thể văn phóng sự trong văn học Việt Nam thời kỳ
đầu đổi mới
Chương 2: Nội dung hiện thực, cảm hứng và tư tưởng trong các phóng sự về
nông thôn, nông dân
Chương 3: Nghệ thuật trong các phóng sự về nông thôn, nông dân
14
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ VĂN PHÓNG SỰ TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẦU ĐỔI MỚI
Trong tương quan với các thể loại văn học và báo chí khác, phóng sự Việt Nam
là một thể loại còn khá non trẻ. Sự phát triển mạnh mẽ của của báo chí phương Tây thế
kỷ XIX đã tạo một môi trường hết sức thuận lợi cho việc nảy sinh nhiều thể văn - báo,
trong đó có phóng sự. Với những ưu thế đặc biệt, phóng sự đã nhanh chóng khẳng
định được vị thế của mình trong đời sống văn học và báo chí nước nhà. Dù còn được
nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng các quan điểm đều tập trung về chức năng
thể loại: Phóng sự là một thể loại đứng giữa văn học và báo chí, phản ánh những vấn
đề điển hình, có thật, có tính thời sự trong một quá trình phát sinh, phát triển, bằng
bút pháp văn học và những biện pháp nghiệp vụ của báo chí.
1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể phóng sự
1.1.1. Bối cảnh xã hội và tiền đề xuất hiện
Vấn đề thời điểm xuất hiện của thể loại phóng sự trong đời sống văn học và báo
chí Việt Nam hiện vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, phóng sự ra
đời cùng với sự ra đời của báo chí. Bằng chứng là hàng loạt tác phẩm chứa những
phẩm chất của phóng sự đã xuất hiện vào thời điểm báo chí có mặt trên đất Việt như:
Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký (1876), Hương Sơn hành trình của
Nguyễn Văn Vĩnh (1914), Pháp du hành trình nhật ký và Mười ngày ở Huế của Phạm
Quỳnh (1918), Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác…Tuy nhiên, có thể thấy, qua hơn
nửa thế kỷ từ khi Gia Định báo phát hành số đầu tiên (1865) cho đến 30 năm đầu của
thế kỷ XX vẫn chưa xuất hiện một tác phẩm nào đúng nghĩa là phóng sự. Những tác
phẩm được coi như phóng sự thực chất là những ký sự, những ghi chép tản mạn mang
tính nhật ký về những điều mắt thấy tai nghe mà nhà văn đã góp nhặt trong những
chuyến du hành. Ngay kể cả Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc vào
giữa những năm 20 cũng chỉ xem là những ghi chép giàu màu sắc thẩm mỹ thiên về
yếu tố điều tra giàu chất phóng sự mà thôi. Những tác phẩm này cố gắng cách tân thể
loại truyền thống để hình thành một thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực với ký
thác tâm sự. Bước đi mới mẻ này của văn học chưa có gì nổi bật song đã có định
hướng làm tiền đề cho phóng sự xuất hiện sau này.
15
Phóng sự là thể loại gắn liền với khả năng khám phá và phơi bày những mâu
thuẫn xã hội. “Phóng sự thường gắn với những thời điểm mà ở đó đời sống của xã hội
đang có những chuyển biến mạnh mẽ” [12, tr. 67]. Từ đặc trưng thể loại, có thể lý giải
sự xuất hiện đột ngột của phóng sự vào những năm 30 của thế kỷ XX cùng với sự
bùng nổ mạnh mẽ của báo chí. Những sự kiện chính trị - kinh tế - văn hoá đầy kịch
tính với những nét bi hài diễn ra kế tiếp nhau, chồng chéo nhau, đan xen nhau hết sức
sôi sục và nóng bỏng đã làm nảy sinh nhu cầu cấp bách là phải cập nhật nhanh chóng
lượng thông tin phong phú và sốt dẻo ấy. Những hiện tượng bức xúc như vậy không dễ
gì có thể được khám phá và chuyển tải một cách thời sự, cập nhật nếu chỉ nhờ vào các
thể loại văn chương và báo chí đương thời. Cũng vào thời điểm này, người đọc không
còn thích thú với những chuyện tình ướt át, lãng mạn, những hiện tượng văn chương
hư cấu, họ khát khao nếm trải những điều có thực, được nhìn thấy cuộc đời trên mỗi
trang văn. Theo Tam Lang: “…thị hiếu đại chúng hầu như thay đổi hoàn toàn, chỉ ưa
tìm đọc những văn, những truyện thuộc loại tả chân và lãng quên dần loại văn lãng
mạn mà người ta cho là không thích hợp” [69, tr.52].
Báo chí phát triển, làm báo trở thành một nghề, nhiều người đã đến với nghề
báo. Cũng từ đây, hiện tượng văn báo bất phân nảy sinh. Cả một thế hệ vừa cầm bút
viết báo, vừa viết văn. Các báo cạnh tranh nhau, không ngừng cải tiến cả nội dung lẫn
hình thức. Cái nhịp hối thúc của báo này, sự giục giã đặt hàng của báo kia khiến nhà
văn, nhà báo cứ viết, cứ săn lùng tin tức và đẻ ra hàng loạt thiên phóng sự nhiều kỳ
trên các báo gây xôn xao dư luận. Trong lúc đó, các tòa báo không ngừng cải tiến kỹ
thuật làm báo, điều chỉnh nội dung, đồng thời với những cách tân trong hình thức thể
hiện đã thực sự làm thay đổi diện mạo đời sống báo chí thời kỳ này. Những kinh
nghiệm, kỹ năng tác nghiệp cũng như cách trình bày ấn tượng mới mẻ của báo chí thế
giới đã được vận dụng vào thực tiễn sáng tạo báo chí Việt Nam, đem đến cho người
đọc những sản phẩm đậm dấu ấn, đó là phóng sự.
Có thể thấy phóng sự Việt Nam không xuất hiện đồng thời cùng sự xuất hiện
của báo chí như ở một số nước khác. Nó ra đời trong bối cảnh báo chí Việt Nam đã có
bước tiến về nhiều mặt. Thêm vào đó, đời sống xã hội trong trạng thái bị ức chế, bị
dồn nén bởi ngổn ngang những mâu thuẫn cần được giải tỏa, cần được phanh phui;
nhu cầu người đọc đương thời về một hình thức thông tin trực tiếp, thiết thực; sự bùng
nổ của đời sống báo chí cùng sự phát triển vượt bậc của đội ngũ ký giả chính là
16
những tiền đề cần thiết để phóng sự trình làng. Và trên thực tế, không ít phóng sự có
giá trị buổi đầu ấy đã trở thành những tác phẩm văn học để đời.
1.1.2. Phóng sự Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới 1986-1991
Bước vào thời kỳ đổi mới, phóng sự có dấu hiệu hồi sinh sau 40 năm chìm vào
quên lãng kể từ phóng sự Cây cói ở Hải Tân của Trần Huy Quang. Nhưng phải đến
giai đoạn sau 1986 phóng sự mới thực thực sự nhập cuộc một cách mạnh dạn, thẳng
thắn. Phóng sự là một bộ phận nhạy cảm vốn đã có những bước khởi động đổi mới
cách nhìn từ cuối những năm 70 đầu những năm 80, nay được tiếp xúc với ý thức
chính trị đổi mới mạnh mẽ do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động đã tìm được cơ hội
thực sự thoáng rộng để bứt phá. Công cuộc đổi mới không chỉ khôi phục lại địa vị
xứng đáng của phóng sự trong báo chí và văn học mà còn tạo nên một cuộc bức phá
ngoạn mục lần thứ hai cho phóng sự. Đó là Lời khai của bị can của Trần Huy Quang
(1987), Cái đêm hôm ấy…đêm gì ? của Phùng Gia Lộc (1988), Thủ tục để làm người
còn sống của Minh Chuyên (1988), Người đàn bà quỳ của Trần Khắc (1988), Suy nghĩ
trên đường làng của Hồ Trung Tú (1988), Tiếng đất của Hoàng Hữu Các (1987), Làng
giáo có gì vui của Hoàng Minh Tường (1987)…Đây có thể coi là những phóng sự “mở
đường” đầy ấn tượng. Chúng xuất hiện liền kề ngay từ những ngày đầu phát động đổi
mới nên vừa có giá trị như những trái bom đột phá mạnh mẽ, góp phần khai thông con
đường đổi mới buổi đầu còn lắm chông gai, vừa giải tỏa cơn khát thực sự cho công chúng.
Nét đặc sắc nổi bật của phóng sự giai đoạn này là sự mở rộng phạm vi đề tài
trên cả tầm vĩ mô và vi mô. Lối viết đào sâu, truy tìm, phơi bày mặt trái của hiện
thực cuộc sống là hình thức thể hiện chủ đạo. Đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được Đỗ
Quảng, Minh Chuyên, Hoàng Minh Tường…khai thác. Tuy nhiên, nếu trước đây ống
kính phóng sự được đặt ở vị trí cận cảnh, để ghi lại những thước phim sinh động,
hoành tráng về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, thì thời kỳ này chiến tranh được
nhìn từ một vị trí khác, từ số phận người lính đang chiến đấu bảo vệ biên cương, số
phận người lính trở về sau chiến tranh và những mất mát lặng thầm của những người
ở lại. Ngòi bút tìm tòi của phóng sự sục vào những góc khuất tối tăm để gặp gỡ
những mảnh đời bất hạnh. Họ là những con người bình thường, trở về từ chiến
trường ác liệt với những mảnh bom, viên đạn còn ghim trong máu thịt nhưng hàng
ngày, hàng giờ đang phải vật vã trước cuộc sống khó khăn, trước những nghịch lý
khó có thể chấp nhận.
17
Cùng với đề tài chiến tranh là đề tài kinh tế - xã hội được Trần Huy Quang,
Phùng Gia Lộc, Hoàng Minh Tường, Trần Khắc, Hồ Trung Tú, Nguyễn Thị Vân
Anh…phanh phui, mổ xẻ. Đó là cuộc đấu tranh chống lại thói bảo thủ trì trệ của cơ
chế quan liêu, bao cấp, chống thói buôn gian bán lận, làm ăn bất chính, ăn cắp, ăn
trộm, tha hóa biến chất…Từ sự đa dạng về đề tài của phóng sự thời kỳ đầu đổi mới
một lần nữa minh chứng cho cái nhìn phiến diện về thể phóng sự ở giai đoạn trước,
những lời ca ngợi một chiều, những lời tự tán dương, bào chữa. Nhìn chung hai chủ
đề lớn được các cây bút phóng sự tập trung chú ý là: biểu dương, ca ngợi những điển
hình tiên tiến trong mọi hoạt động của xã hội và phê phán những mặt trái tiêu cực
của cuộc sống như tệ nạn trì trệ, quan liêu, tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả, hàng
nhái, tha hóa biến chất…Ở chủ đề thứ hai và cũng là chủ đề nổi bật mà các nhà
phóng sự giai đoạn này tập trung khai thác. Họ đã mạnh dạn đột phá vào những vùng
hiện thực nhạy cảm, phối thêm một nét vẽ mới, góp phần định hình sắc diện của
phóng sự giai đoạn này, đồng thời tiếp sức cho sự xuất hiện của loạt tiểu thuyết mang
hơi thở cuộc sống.
Bối cảnh hiện thực mới cũng làm cho phóng sự có những cách tân về hình thức.
Ở thời kỳ đầu đổi mới hiếm có những phóng sự dài, thường là những phóng sự ngắn,
đăng trọn trong một, hai kỳ báo. Trong khi đó, nếu phóng sự 1930 – 1945 có ranh giới
giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí là khá rõ ràng thì ở giai đoạn này là khá
mờ nhạt. Có thể nói, thể loại phóng sự ngày càng phát huy tác dụng tích cực, góp phần
đáng kể vào việc lành mạnh hoá cuộc sống, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng
văn minh. Nhưng về phương diện nghệ thuật, vẫn chưa có nhiều nhà văn phóng sự có
phong cách nổi bật như giai đoạn 1932-1945.
Bên cạnh những nảy sinh phức tạp của xã hội thì những tư tưởng đổi mới về
văn hoá văn nghệ của Đảng thời kỳ đầu đổi mới (1986-1991) đã “cởi trói” cho chiều
hướng phát triển của văn học nói chung và phóng sự nói riêng. Chỉ trong thời gian
ngắn sau đổi mới, phóng sự đã nhập cuộc một cách mạnh dạn, thẳng thắn, nhất là khi
phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật mà đổi mới đề ra như mở ra cánh
cửa để cơn gió phóng sự ùa vào một cách mạnh mẽ. Với tinh thần can đảm vốn có của
thể loại này, phóng sự đã có đất để dụng võ. Trong khi đó, trước nhu cầu bức thiết phải
phản ánh hiện thực xã hội đương thời, các thể tài tiểu thuyết, thơ, kịch không đảm
nhận nổi thì phóng sự lại tỏ ra có hiệu quả đắc lực. Thể văn tư liệu này có khả năng đi
sâu vào hiện thực để điều tra những vụ bê bối, các tệ nạn xã hội, thói quan liêu một
18
cách kịp thời và có hiệu quả. Và chính xã hội Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới là mảnh
đất màu mỡ ươm mầm cho hạt giống phóng sự sinh sôi.
Trong bối cảnh mới, điều dễ nhận thấy là sự thay đổi phương thức trần thuật
của phóng sự. Từ chỗ người viết đứng ngoài sự kiện, dõi theo mọi diễn biến của sự
kiện và thuật lại một cách khách quan chuyển sang phương thức trần thuật từ nhiều
điểm nhìn đặt ngay trong lòng sự kiện. Bên cạnh đó, chất chính luận, cái tôi chính kiến
cũng bắt đầu xuất hiện đậm đặc ở một số phóng sự, trực tiếp can dự vào sự kiện, bàn
bạc, đánh giá sự kiện và đưa ra những kết luận khách quan, chính xác. Người viết
phóng sự ở trong một tâm thế mới, viết thoải mái, cởi mở đến tận cùng niềm thao thức
bấy lâu, dòng phóng sự cuồn cuộn chảy. Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu tiếp nhận của
người đọc hiện đại, phóng sự thời kỳ này có xu hướng tăng cường chất lượng thông
tin. Chất lượng thông tin được ngầm hiểu là cái mới, cái chưa phổ biến, cái xảy ra hôm
nay. Phóng sự tập trung vào các vấn đề nhất thời, vì vậy chỉ có giá trị ở một thời điểm
nhất định.
Với chặng đường dài gần một thế kỷ hình thành và phát triển, phóng sự đã tạo
nên những biến đổi bất ngờ. Sau sự xuất hiện một cách đột khởi đầy viên mãn, phóng
sự như dòng chảy ngầm bền bỉ và dai dẳng trôi qua hai cuộc chiến tranh có lúc tưởng
như chìm hẳn và mất hút. Nhưng rồi phóng sự lại phục sinh một cách mạnh mẽ, kỳ
diệu trong thời kỳ lịch sử sang trang. Sự thăng hoa hoặc chìm lắng đó đều mang những
dấu ấn đặc thù của thể loại văn – báo quan trọng này.
1.2. Phóng sự báo chí và phóng sự văn học
Nằm trong vùng giao thoa giữa văn học và báo chí với những phẩm chất được
cộng hợp tự nhiên từ nhiều thể loại gần kề. Tuy nhiên, có thể thấy, phóng sự thời kỳ
1986-1991 có sự phân biệt khá rõ giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí. Theo
Bùi Huy Phồn: “Phóng sự tân văn là loại làm cho người đọc thấy người thật, việc thật
ở một thời gian, không gian nhất định với những tài liệu, số liệu cụ thể. Đọc nó quả có
phần khô khan, vì nó chỉ nhằm thuyết phục độc giả về mặt lý và nhẹ về mặt tình” (…)
“Phóng sự văn học có những điểm khác phóng sự tân văn, tất nhiên về căn bản vẫn
giống nhau” (…) “Mặt khác, thể phóng sự văn học, ngoài tính phản ánh người thật,
việc thật còn thêm phần tả người, tả cảnh bằng hình tượng nghệ thuật và có xen kẽ
những cảm nghĩ chủ quan của tác giả nên nó có sức thuyết phục về mặt lý trí, cả về
mặt tình cảm của con người” [55, tr.8].
Như vậy, Bùi Huy Phồn khẳng định: phóng sự văn học và phóng sự báo chí cơ
19
bản là giống nhau, điểm mà tác giả chỉ ra sự khác biệt đó là phóng sự báo chí nặng
về “lý”, nhẹ về “tình”, còn phóng sự văn học thuyết phục người đọc cả về lý trí cả về
tình cảm.
Cũng quan điểm như Bùi Huy Phồn, Nguyễn Đình Lạp đã chia phóng sự thành
hai loại: loại “có tính chất báo, thông tin, tường thuật, báo cáo” và loại có “tính chất
văn chương: điều tra, phỏng vấn, mẩu chuyện phóng sự” [39, tr.310]. Rõ ràng,
Nguyễn Đình Lạp bước đầu cũng có sự khu biệt khá rõ phóng sự văn học và phóng sự
báo chí.
Tuy nhiên, phải đến sau những năm 1986, việc phân chia thể loại phóng sự mới
được giới nghiên cứu quan tâm và bùng phát mạnh mẽ vào trong thời kỳ đổi mới.
Trên báo Văn Nghệ, số 21 ngày 26/5/1990, tại trang 11, N. Đuytơne khi “Bàn về
phóng sự” cũng đã phân biệt khá rõ phóng sự văn học và phóng sự báo chí “Các nhà
lý luận văn học xác định một sự phân biệt rõ rệt giữa phóng sự báo chí – tường thuật
các sự việc một cách trần trụi, không “văn hoa” – với văn học phóng sự – cũng như
phóng sự báo chí, vốn cũng dựa trên cơ sở các sự kiện và nhân vật có thật nhưng
khía cạnh văn học rất trau chuốt”. Mặc dù chưa rõ nét, nhưng ý kiến này bước đầu
đã chú ý đến chất văn học – một điểm cơ bản để phân biệt phóng sự văn học và
phóng sự báo chí.
Như vậy, những ý kiến trên đều khẳng định sự giống nhau cơ bản giữa phóng
sự văn học và phóng sự báo chí là ở tính chân thật và tính thời sự của đối tượng phản
ánh. Cái làm nên sự khác biệt của hai thể phóng sự này là ở chức năng của thể loại:
nếu phóng sự báo chí có chức năng phản ánh - thông tin thì phóng sự văn học có chức
năng phản ánh – thông tin – thẩm mỹ. Chính thông tin – thẩm mỹ này tạo nên chất văn
học cho phóng sự văn học.
Trên thực tế, việc phân chia này chỉ mang tính chất tương đối, cần thiết cho
việc quan sát, đối chiếu bởi vẫn còn nhiều ý kiến xung quanh việc có nên phân chia
phóng sự thành phóng sự văn học và phóng sự báo chí hay không. Tuy nhiên, khác với
thời điểm trước năm 1945, khi mối quan hệ “văn – báo bất phân” thì báo chí thời kỳ
đổi mới đã có bước chuyển động theo xu hướng tách dần khỏi “sự phong tỏa của văn
học”.
1.2.1. Phóng sự báo chí
Do đảm nhận chức năng riêng biệt là phản ánh – thông tin nên phóng sự báo chí
có những đặc trưng riêng biệt về tính xác thực, tính thời sự và phương thức phản ánh.
20
Thứ nhất, tính xác thực và là một đòi hỏi có tính tuyệt đối của phóng sự báo chí
- là một chế định chặt chẽ của nguyên tắc thông tấn báo chí. Nhà văn có thể khép kín,
không giao lưu xã hội vẫn có thể cho ra đời tác phẩm, kiểu như Đichkensơn (Mỹ) sau
những thất vọng về tình cảm đã tự khép mình trong ngôi nhà riêng và không giao tiếp
với xã hội vẫn có vần thơ hay. Báo chí thì khác, nhà báo không thể không lăn lộn vào
xã hội mà vẫn có bài viết được. Báo chí ở giữa cuộc đời và cuộc sống có thể tràn vào
báo chí với độ sâu, rộng nhất, sinh động và thời sự nhất. Chủ thể phản ánh là nhà báo
phải trực tiếp chứng kiến những điều “mắt thấy, tai nghe”, những sự kiện đang tồn tại,
đang diễn ra không ngừng. Nội dung phản ánh phải chính xác nhất, chi tiết nhất, cụ thể
nhất. Vì vậy, một điều tối kị đối với người viết phóng sự báo chí là anh ta không được
“sản xuất” thông tin, bịa đặt sự kiện, không được di chuyển không gian, thời gian,
không được thay hình, đổi dạng nhân chứng. Phóng sự báo chí không chấp nhận hư
cấu dưới bất cứ hình thức nào. Phóng sự báo chí thuyết phục người đọc bằng logic của
sự thật: “mô tả được hiện thực điển hình đúng với những phẩm chất tinh thần và bộ
mặt của nó, nghĩa là tác phẩm đã tiếp cận đến với những phạm trù thẩm mỹ” [12, tr. 51].
Phóng sự báo chí phản ánh và thẩm định hiện thực bằng cái tôi tỉnh táo và lý
trí. Trong phóng sự báo chí, cái tôi tác giả có khi xuất hiện với tư cách là một nhân
chứng làm nhiệm vụ kết nối các dữ liệu thông tin đến bạn đọc, khi khác lại trong vai
trò một bình luận viên thẳng thắn bình luận, đánh giá vấn đề, không ít trường hợp
làm công việc của một chuyên gia xã hội học nghiên cứu, mổ xẻ, đề xuất những giải
pháp cải thiện thực trạng. Dù đứng ở vị trí nào, cái tôi tác giả luôn tỏ ra khách quan
và sáng suốt.
Ở giai đoạn 1930 - 1945, phóng sự dạng này chỉ xuất hiện lẻ tẻ ở một số cây
bút như: Yến Đình (Nguyễn Đình Lạp), Việt Sinh (Thạch Lam), Trúc Hà, Minh
Tuyền…Sang giai đoạn 1945 – 1945, loại phóng sự này có sự pha trộn, không ổn
định về thể loại. Phải đến thời kỷ đổi mới, phóng sự báo chí mới thực sự ổn định và
phát triển.
Với phóng sự văn học, yếu tố xác thực không phải bao giờ cũng cần thiết.
Thậm chí, có thể thẩm định hiện thực thông qua cái tôi cảm xúc thẩm mỹ. Trong khi
đó, phóng sự báo chí thì khác, xuất phát từ cái tôi khách quan, lý giải hiện thực bằng
một tư duy biện chứng khoa học. Chính báo chí là tấm gương trung thực nhất của đời
sống, hay chính là đời sống trong dạng được ghi chép, mô tả trực tiếp. Nhà báo không
tái tạo cuộc sống như một số ngành nghệ thuật khác mà giữ nguyên vẹn bức tranh cụ
21
thể, chính xác đến từng chi tiết của đời sống xã hội. Báo chí có nhiệm vụ chọn lọc,
phân tích, đánh giá những hiện tượng của đời sống – những hiện tượng không bao giờ
tồn tại ở thế ổn định – bằng những nhận định đúng đắn, có giá trị. Vi phạm tính chính
xác này, phóng viên có khi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ hai, tính thời sự là một trong những yêu cầu hàng đầu, là đòi hỏi vô cùng
bức thiết mà phóng sự báo chí phải đạt được. Đây có thể coi là giá trị nổi bật của
phóng sự báo chí với khả năng truyền tải thông tin mới mẻ, trực tiếp và định hướng dư
luận công chúng một cách kịp thời. Những thông tin mà báo chí cập nhật trong mỗi
thiên phóng sự phải luôn nóng hổi, mới mẻ, đáp ứng yêu cầu đang hối thúc từng giờ,
từng phút của dư luận. Phóng viên phải khẩn trương, tức thời đưa lên mặt báo vấn đề
dư luận đang quan tâm. Tránh tình trạng “vuốt đuôi” khi sự việc đã xảy ra mới thông
tin, bàn luận.
Thứ ba, phương thức phản ánh của phóng sự báo chí mang những đặc trưng
riêng biệt. Điểm giống nhau giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí là đều thể
hiện tính sinh động của ngòi bút người kể chuyện, nghĩa là phải tìm tòi những hình
thức diễn đạt sáng tạo, các bút pháp phải đa dạng, kết cấu linh hoạt…để hấp dẫn, lôi
cuốn người đọc. Thực tế, khó có thể liệt kê đầy đủ các kiểu dạng kết cấu, bởi lẽ cùng
với sự mở rộng về phạm vi, đối tượng phản ánh là những bứt phá, sáng tạo không
ngừng của đội ngũ những người làm phóng sự đem đến sự phong phú về hình thức
biểu hiện nói chung và mô thức kết cấu nói riêng. Một yếu tố khác mang đặc trưng
riêng biệt của thể loại này là ngôn ngữ báo chí đòi hỏi tính chính xác cao, cô đọng,
chọn lọc, mẫu mực, đơn nghĩa. Ngôn ngữ phóng sự báo chí “đến thẳng trực tiếp với
người đọc, không thông qua một trung gian nào. Không cần đến những hình thức diễn
đạt quanh co gián tiếp, những ẩn dụ, phóng dụ, những thách đố về chữ nghĩa, những
trò chơi về ngôn từ” [22, tr.91].
Đặt trong mối tương quan với phóng sự văn học, có thể thấy phóng sự nghiêng
về chất thông tấn báo chí với những đặc trưng riêng đang chứng tỏ những ưu thế của
mình, nhất là trong việc tạo ra hiệu quả nhanh, mạnh, tức thời cho công cuộc cải tạo và
xây dựng xã hội theo hướng chân – thiện – mỹ.
1.2.2. Phóng sự văn học
Loại phóng sự này từng chiếm ưu thế chủ đạo và được đánh giá cao trong thời
kỳ 1930 - 1945. Thậm chí, một số ý kiến còn cho rằng, có những tác phẩm thuộc loại
này được chấp nhận như những tác phẩm văn học có giá trị.
22
Cũng như phóng sự báo chí, tính xác thực và thời sự là nguyên tắc mà phóng
sự văn học luôn phải tôn trọng, song không yêu cầu phải ở mức tuyệt đối. Bởi lẽ,
phóng sự văn học không chịu áp lực cấp bách của dư luận như phóng sự báo chí,
phóng sự văn học “có thể thoát ra khỏi áp lực của người thật, việc thật” để mở rộng
biên độ phản ánh bằng những liên tưởng, tưởng tượng giàu tính thẩm mỹ. So với
phóng sự báo chí, không gian sáng tạo trong phóng sự văn học rộng rãi hơn. Chính vì
thế, phần lớn các tác phẩm phóng sự giàu chất văn học thường chọn những thông tin,
sự kiện có chiều sâu, bề dày đi sâu vào số phận con người, hoặc những vấn đề mang
tính điển hình, nhạy cảm, cần lý giải từ nhiều góc độ khác nhau, ví dụ như Thủ tục để làm
người còn sống của Minh Chuyên hay Cái đêm hôm ấy…đêm gì ? của Phùng Gia Lộc.
Là hoạt động sáng tạo nghệ thuật, phóng sự văn học sáng tác những mảng khác
nhau của đời sống một cách khái quát thông qua nhân vật điển hình. Sự kiện, con
người, tình huống mà phóng sự văn học phản ánh không chỉ tiêu biểu mà còn chứa
đựng yếu tố thẩm mỹ. Đây là đặc trưng khu biệt của phóng sự văn học và phóng sự báo
chí. Trong vô số cái bình thường, người viết phải biết phát hiện nét điển hình. Phóng
sự văn học không chỉ dừng lại ở việc tái hiện sự kiện mà còn phát hiện “vấn đề”, thậm
chí vấn đề mang tầm thời đại. Tuy nhiên, do tính chất, quy mô của loại sự kiện nhiều
tầng bậc, nhiều chiều kích khác nhau nên nhiều khi người viết không cần thiết phải
theo sát dòng thời sự.
Giống như phóng sự báo chí, phóng sự văn học cũng lựa chọn những phương
thức phản ánh thích hợp để đạt hiệu quả. Phương thức làm nên sự độc đáo của phóng
sự văn học là sự hư cấu, nhưng hư cấu này không giống trong tiểu thuyết và truyện
ngắn, hư cấu trong phóng sự văn học không phải là sự tưởng tượng, thêm thắt vô căn
cứ. Trong phóng sự văn học, trường tư duy, liên tưởng của nhà báo như “cánh diều
luôn bị sợi dây giữ chặt với mặt đất”. Phóng sự văn học có thể căn cứ vào “cái lõi của
sự thật” để tưởng tượng, để sáng tạo thêm những chi tiết mới, miễn là không làm thay
đổi bản chất của sự kiện.
Như vậy, sự hư cấu trong phóng sự văn học diễn ra ở một “ngưỡng” cho phép:
“Sự hư cấu trong phóng sự văn học chỉ diễn ra ở phạm vi và mức độ nhất định. Thứ
nhất, phần nhiều chỉ ở mức độ hư cấu kĩ thuật: lựa chọn những hiện tượng có thực
trong cuộc sống, tổ chức. Sắp xếp, tô đậm, xoá mờ…để kết cấu tác phẩm một cách tối
ưu, theo logic của khách thể. Thứ hai, có thể dùng trí tưởng hợp logic để hư cấu nâng
cấp những hiện tượng ghi chép sự thật. Sự nâng cấp này không chỉ dừng ở việc hư cấu
23
ở những thành phần không xác định (như thế giới nội tâm của nhân vật…) mà trong
một chừng mực nào đó, có thể sáng tạo thêm những chi tiết, những dữ kiện mới, nhằm
mục đích trình bày hiện thực cho đúng bản chất của nó. Đấy là sự phản ánh và sáng
tạo” [70, tr.47].
Bên cạnh hư cấu, một đặc trưng của phóng sự văn học là cái tôi – nhân vật trần
thuật. Cái tôi này thể hiện thái độ thẩm mỹ trong việc thông tin sự thật. Từ sự dẫn dắt,
thuyết phục, cái tôi này bộc lộ những tình cảm để bàn luận, thuyết phục một cách chân
thành tạo ra những văn bản thẩm mỹ đa nghĩa. Trong khi đó, về ngôn ngữ, phóng sự
văn học không sử dụng ngôn ngữ tường minh, một tầng nghĩa như phóng sự báo chí.
Phóng sự văn học thuộc phạm trù ngôn ngữ văn chương nên nó có tính đa nghĩa:
không chỉ nói cái xảy ra mà còn gợi nhiều tầng nghĩa suy ra từ chính cái xảy ra đó. Để
chuyển tải thông tin đến người đọc, phóng sự báo chí chủ yếu sử dụng ngôn ngữ sự
kiện, trong khi đó phóng sự văn học có thể chuyển chở hiện thực bằng kênh ngôn ngữ
giàu hình tượng thẩm mỹ, là lớp ngôn ngữ sống động, giàu sắc thái biểu cảm, hàm ẩn
nhiều tầng nghĩa thông qua nghệ thuật sử dụng ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ khá phổ biến.
Từ những tìm hiểu trên, có thể nhận thấy phóng sự báo chí và phóng sự văn học
ngoài những điểm giống nhau về đối tượng phản ánh, tính xác thực và thời sự nhưng
phương thức biểu hiện là khác nhau. Phóng sự văn học vượt lên trên sự phản ánh thông
thường, hướng đến sử dụng một số hình thức biểu đạt của văn chương, nhằm tạo sức
năng động cho tác phẩm, hấp dẫn người đọc…“không chỉ làm tròn chức năng thông tin
mà còn đậm sắc thái trữ tình. Người đọc không chỉ thấy sự kiện (thông qua vô số tình
tiết, số liệu, thống kê…) mà còn thấy vấn đề; không chỉ thấy những phiến đoạn khác
nhau của đời sống mà còn đến được với thế giới nội tâm, hiểu được hoàn cảnh và tính
cách, thấm thía với số phận của một số nhân vật. Rất tự nhiên, phóng sự trở thành cầu
nối vững chắc cho hai vùng đất báo chí và văn chương. Nó làm cho báo chí thêm sức
hấp dẫn và làm cho văn chương thêm giàu có, gần với đời thường” [30, tr.1422].
Xét về những ưu thế đặc trưng, phóng sự văn học không phải là kiểu loại hoàn
toàn mới mẻ, song với những tính năng cơ động, linh hoạt trong việc chuyển tải thông
tin sự thật, loại phóng sự này thực sự phát huy được những thế mạnh vốn có trong
công cuộc đẩy mạnh đổi mới sự sáng tạo trên tinh thần dân chủ hóa của nền văn học –
báo chí nước nhà.
1.3. Mảng phóng sự viết về nông thôn, nông dân
Trong khi các nhà phóng sự hướng ống kính về thành thị để phản ánh cuộc sống
24
muôn mặt đầy những bi hài của xã hội thì mảng hiện thực về nông thôn, nông dân
cũng có những lực hút mãnh liệt đối với các cây bút phóng sự đương thời. Hiện thực
nóng hổi, ngổn ngang đang còn khuất lấp sau những luỹ tre xanh đã hấp dẫn các nhà
phóng sự. Phóng sự về những miền quê trong ngày đầu thời kỳ đổi mới đã có được
những bức tranh đầy ấn tượng, mặc dù số lượng tác phẩm không nhiều, nhưng đó thực
sự là những tác phẩm có giá trị.
Nông thôn Việt Nam giai đoạn đầu thời đổi mới 1986 - 1991 qua các phóng sự
không còn là những miền quê yên ả, thanh bình nữa mà là một hiện thực đau lòng,
chất chứa nhiều trái ngang, oan khuất. Đó là một nông thôn của nạn “cường hào mới”,
của thói nhũng nhiễu, tham nhũng, tha hóa, biết chất, vô cảm của một lớp cán bộ, một
nông thôn với hàng trăm thứ thuế, phí nhấn chìm người dân vào cảnh khốn cùng,
nghèo mạt. Dọc theo chiều dài của đất nước, nông thôn Việt Nam những năm đầu đổi
mới lần lượt hiện lên một cách sinh động, rõ nét qua những thiên phóng sự xuất sắc,
như: Cái đêm hôm ấy…đêm gì ? của Phùng Gia Lộc, Tiếng đất của Hoàng Hữu Các,
Người đàn bà quỳ của Trần Khắc, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, Thủ tục
để làm người còn sống của Minh Chuyên, Làng giáo có gì vui, Con nuôi Nhà nước,
Anh hùng khi đã sa cơ, Bốn nghìn ngày tìm nàng Áp Sa Ra của Hoàng Minh Tường,
Suy nghĩ trên đường làng của Hồ Trung Tú, Tiếng hú của con tàu của Nguyễn Thị
Vân Anh, Động mạch chính của Phạm Huy Thành, Vàng ơi của Nguyễn Hoài Nhơn,
Tôi đào được hồng ngọc của Thái Chí Thanh…Tất cả là những mảng màu sinh động
tập hợp lại tạo nên bức tranh toàn cảnh của nông thôn Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới
1986 – 1991 đầy những bề bộn.
Trong số những cây phóng sự về nông thôn, nông dân Việt Nam thời kỳ này,
Phùng Gia Lộc, Nguyễn Huy Quang, Minh Chuyên, Hoàng Minh Tường, Hồ Trung
Tú, Trần Khắc nổi lên như những tác gia tiêu biểu nhất. Trình làng với ký sự Cái đêm
hôm ấy…đêm gì ?, những dòng chữ rút ruột từ nỗi uất ức, cay đắng, ngỡ ngàng của
Phùng Gia Lộc đã tạo nên một "cơn địa chấn". Nhiều người đã phải giật mình, phải tự
nhìn lại mình, nhìn lại những việc mình làm và đang hô hào người khác làm. Một hơi
gió của đổi mới cũng bắt đầu từ đây, góp vào cơn gió sẽ đổi mới cả một đất nước, đổi
đời cho hàng chục triệu con người.
Đó là thời gian trước đổi mới 1986, ở xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân (Thanh
Hóa) quê của tác giả và sau này được biết là khắp nông thôn miền Bắc, nạn "cường
hào mới" nổi lên như một thứ bệnh dịch. Một số cán bộ vốn là "đầy tớ của nhân dân",
25
thời chiến tranh được nhân dân nuôi nấng, che chở, bây giờ thành "người có công" lên
nắm quyền hành, lợi dụng quyền thế ức hiếp nông dân gây nhiều bức xúc. Chính sách
thuế khóa từ trên áp đặt xuống, các địa phương phải tận thu để đủ chỉ tiêu cùng với
nhiều chính sách đường lối thời bao cấp khác làm cho người nông dân ngày càng
nghèo mạt, họ trực tiếp làm ra lúa gạo nhưng vẫn chịu cảnh đói thiếu.
Trăn trở, suy nghĩ và đau đớn trước nỗi khổ người nông dân, cũng như Phùng
Gia Lộc, Hồ Trung Tú viết về nông thôn giai đoạn đầu thời đổi mới với bộn bề những
trái ngang, nghịch cảnh. Là người làm ra hạt thóc nhưng họ lại không được hưởng
thành quả của mình một cách đầy đủ, chưa kể người nông dân phải đóng góp nặng hơn
các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Hồ Trung Tú mạnh mẽ chỉ ra rằng: ở nông
thôn, tham ô, lãng phí có trăm nghìn vẻ, từ công điểm đến tiền mặt, từ tài sản đến vật
tư, từ sản phẩm đến ruộng đất, từ trực tiếp đến lợi dụng. Nằm trong vòng vây trùng
điệp của cơ chế “bao cấp”, hạt thóc bị chia năm xẻ bảy, người nông dân đói khổ, chèn
ép tức khắc họ có những phản ứng tiêu cực để “thích nghi” với cơ chế. Vậy là tiêu cực
đẻ ra tiêu cực: anh bao cấp thì tôi giữ lại lại sản phẩm tôi quay vòng: xây nhà, mua trâu
bò…Nhưng nợ sản phẩm phần lớn lại rơi vào các hộ thiếu đói, ăn chẳng đủ, nợ mới
chồng nợ cũ, có gia đình gặt đến đâu ăn hết đến đấy. Phóng sự Suy nghĩ trên đường
làng của Hồ Trung Tú cũng chính là suy nghĩ của những người nông dân. Dù mới nói
ra một phần nghìn của sự thật, nhưng cũng là tiếng nói tích cực góp phần thúc đẩy đổi
mới cách nghĩ, cách làm, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp – sớm đưa mặt trận hàng đầu
thật sự là mặt trận hàng đầu.
Tiếp nối dòng cảm hứng của Phùng Gia Lộc và Hồ Trung Tú, Trần Huy Quang
cũng thêm một nét vẽ nữa về những khốn khổ đầy oan trái của người nông dân chỉ vì
quá…tháo vát và có quá nhiều…sáng kiến. Thiên phóng sự Lời khai của bị can đăng
trên báo Văn nghệ năm 1987 chính là tiếng kêu cứu của một ngành sản xuất, tiếng nói
của sự phi lý, thậm chí bấy giờ có người nói nó là tiếng chuông cáo chung về một giai
đoạn bao cấp. Trần Huy Quang là người đầu tiên "nổ phát súng" đòi công lý trên diễn
đàn báo chí cho "vua lốp" Nguyễn Văn Chẩn – một nông dân nghèo quê ở huyện Nga
Sơn (Thanh Hóa) quyết tâm ra Hà Nội làm giàu. Chính nhờ cuộc chiến này, "vua lốp"
được minh oan, nhưng đổi lại, một sản phẩm mang tính phát minh của người nông dân
Việt Nam mới đi vào thực tế không được bao lâu đã bị "khai tử" – đó là sản phẩm lốp
xe nhãn mác Quyết Thắng.
Đấy là những năm trước 1986, đất nước vận hành theo cơ chế bao cấp. Vật tư,