Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
Trần Chi Mai
Phương thức biểu hiện
hành vi từ chối lời cầu khiến
trong tiếng Anh
(liên hệ với tiếng Việt)
Luận án tiến sĩ ngôn ngữ học
Hà Nội - 2005
i
Những quy ước viết tắt của luận án
CK Cầu khiến
HVCK Hành vi cầu khiến
HVNN Hành vi ngôn ngữ
HVTC Hành vi từ chối
NNS Non-native speaker – Người nói phi bản ngữ
NS Native speaker – Người nói bản ngữ
PQƯ Phi quy ước
QƯ Quy ước
TC Từ chối
TCGT Từ chối gián tiếp
TCTT Từ chối trực tiếp
TP Thành phần
TPCL Thành phần cốt lõi
TPMR Thành phần mở rộng
Trong trường hợp thuật ngữ không được sử dụng nhiều, chúng tôi sẽ chú giải
viết tắt ngay từ khi thuật ngữ bắt đầu xuất hiện.
Các trích dẫn lý luận ngôn ngữ được quy định trong [ ]; các trích dẫn ngữ liệu
được quy định trong ( ).
ii
Mục lục
Trang
Mở đầu
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2
4. Đóng góp mới của luận án
3
5. Tư liệu nghiên cứu
3
6. Phương pháp nghiên cứu
4
7. Bố cục của luận án
4
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
6
1.1. Hội thoại và hành vi ngôn ngữ
7
1.1.1 Hội thoại và các vấn đề liên quan
7
1.1.2. Hành vi ngôn ngữ và các vấn đề liên quan
20
1.2. Đoạn thoại cầu khiến và hành vi cầu khiến
22
1.2.1. Đoạn thoại cầu khiến
22
1.2.2. Hành vi cầu khiến
23
1.2.3. Phân loại hành vi cầu khiến
25
1.3. Hành vi từ chối lời cầu khiến
25
1.3.1. Khái niệm về từ chối lời cầu khiến
25
1.3.2. Tiêu chí nhận diện hành vi từ chối
27
1.3.3. Hoạt động thương lượng trong hành vi từ chối
28
1.3.4. Phân biệt hành vi từ chối với một số hành vi ngôn ngữ khác
33
1.3.5. Phân loại hành vi từ chối
39
1.4. Các nhân tố tác động đến hành vi từ chối
42
1.4.1 Nhân tố văn hoá
43
1.4.2. Tính phù hợp
43
1.4.3. Thói quen tư duy và thói quen trong sử dụng ngôn ngữ
45
1.5. Tiểu kết
46
Chương 2: Phương thức biểu hiện hành vi từ chối trực tiếp trong
tiếng Anh (Liên hệ với tiếng Việt)
48
iii
2.1. Đặc điểm chung của hành vi từ chối trực tiếp
48
2.1.1. Khái niệm về hành vi từ chối trực tiếp
48
2.1.2. Đặc điểm về phương thức thể hiện hành vi từ chối trực tiếp
48
2.1.3. Các kiểu loại hành vi từ chối trực tiếp
51
2.2. Các phương tiện biểu hiện hành vi từ chối trực tiếp chứa thành
phần cốt lõi
52
2.2.1. Hành vi từ chối trực tiếp chứa thành phần cốt lõi là động từ ngôn
hành
52
2.2.2. Hành vi từ chối trực tiếp chứa thành phần cốt lõi là từ phủ định
54
2.3. Hành vi từ chối trực tiếp chứa thành phần cốt lõi và thành phần
mở
rộng
65
2.3.1. Hành vi từ chối trực tiếp chứa thành phần mở rộng nêu lý do hoặc
lời giải thích
65
2.3.2. Hành vi từ chối trực tiếp chứa thành phần mở rộng bày tỏ ý đáng
tiếc vì không thực hiện được nội dung cầu khiến
65
2.3.3. Hành vi từ chối trực tiếp chứa thành phần mở rộng bày tỏ sự đồng
tình
69
2.3.4. Hành vi từ chối trực tiếp chứa thành phần mở rộng bày tỏ thiện chí
bằng lời cảm ơn
72
2.3.5. Hành vi từ chối trực tiếp chứa thành phần mở rộng đề cao người
cùng đối thoại
74
2.3.6. Hành vi từ chối trực tiếp chứa nhiều thành phần mở rộng
77
2.4. Tiểu kết
79
Chương 3: Phương thức biểu hiện hànhvi từ chối gián tiếp theo quy
ước trong tiếng Anh (Liên hệ với tiếng Việt)
81
3.1. Đặc điểm chung của hành vi từ chối gián tiếp theo quy ước
81
3.1.1. Khái niệm về hành vi từ chối gián tiếp theo quy ước
81
3.1.2. Đặc điểm về phương thức thể hiện hành vi từ chối gián tiếp theo
quy ước
81
3.1.3. Phân loại hành vi từ chối gián tiếp theo quy ước
82
3.2. Các phương tiện biểu hiện hành vi từ chối gián tiếp theo quy ước
83
3.2.1. Hành vi từ chối biểu hiện thông qua cấu trúc cầu khiến
83
3.2.2. Hành vi từ chối biểu hiện thông qua cấu trúc nghi vấn
95
3.2.3. Hành vi từ chối biểu hiện thông qua cấu trúc trần thuật
109
3.3. Tiểu kết
115
Chương 4: Phương thức biểu hiện hànhvi từ chối gián tiếp phi quy
ước trong tiếng Anh (Liên hệ với tiếng Việt)
117
iv
4.1. Đặc điểm chung của hành vi từ chối gián tiếp phi quy ước
117
4.1.1. Khái niệm về hành vi từ chối gián tiếp phi quy ước
117
4.1.2. Đặc điểm về phương thức thể hiện hành vi từ chối gián tiếp phi quy
ước
117
4.1.3. Phân loại hành vi từ chối gián tiếp phi quy ước
119
4.2. Các phương tiện biểu hiện hành vi từ chối gián tiếp phi quy ước
121
4.2.1. Hành vi từ chối biểu hiện bằng lời đe doạ
121
4.2.2. Hành vi từ chối biểu hiện bằng lời chỉ trích, trách cứ
124
4.2.3. Hành vi từ chối biểu hiện bằng lời tự vệ
127
4.2.4. Hành vi từ chối biểu hiện bằng lời ngỏ ý cho một lựa chọn khác
128
4.2.5. Hành vi từ chối biểu hiện bằng hình thức điều kiện
130
4.2.6. Hành vi từ chối biểu hiện bằng hình thức giả định phản thực
135
4.2.7. Hành vi từ chối biểu hiện bằng lời hứa
137
4.2.8. Hành vi từ chối biểu hiện bằng lời nêu lý do
140
4.2.9. Hành vi từ chối biểu hiện bằng thương lượng quyền lợi
143
4.2.10. Hành vi từ chối biểu hiện bằng cách thức lảng tránh
145
4.2.11. Hành vi từ chối biểu hiện bằng sử dụng ý hàm ẩn
155
4.2.12. Hành vi từ chối biểu hiện bằng cách thức chấp nhận – từ chối và
từ chối – chấp nhận
163
4.3. Tiểu kết
169
Chương 5: Khảo sát cách lựa chọn phương thức biểu hiện hành vi từ
chối của người Anh và người Việt nói tiếng Anh (Trên cứ
liệu trắc nghiệm)
171
5.1. Khảo nghiệm cách lựa chọn phương thức biểu hiện hành vi từ chối
trên cứ liệu phiếu điều tra
171
5.1.1. Phương thức biểu hiện hành vi từ chối được NS và NNS lựa chọn
173
5.1.2. Phân tích tỉ lệ sử dụng các phương thức biểu hiện hành vi từ chối
của NS và NNS
175
5.1.3. Nhận xét
187
5.2. Lý giải quá trình tiếp nhận và hình thành lời đáp -từ chối của NNS
189
5.3. Tiểu kết
193
Kết luận
195
danh mục Các công trình của tác giả liên quan đến luận án
200
v
Tài liệu tham khảo
201
Các tác phẩm dùng để trích dẫn
210
1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong những năm gần đây, nhu cầu giao tiếp giữa các cộng đồng ngôn ngữ -
văn hoá trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng tăng. Chính sách
mở cửa, bắt tay thân thiện và hợp tác của Việt Nam theo xu thế hội nhập và phát
triển trong khu vực và toàn thế giới đã tạo đà cho sự phát triển ngôn ngữ theo hướng
giao tiếp liên văn hoá cùng một số ngoại ngữ khác, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ
chủ yếu được sử dụng để giao tiếp với người nước ngoài ở Việt Nam. Các hoạt động
giao tiếp liên ngữ nói chung và giao tiếp bằng ngôn ngữ Anh – Việt nói riêng đã
thúc đẩy quá trình nghiên cứu sử dụng ngôn ngữ theo hướng giao tiếp liên ngôn ngữ
- văn hoá. Vì vậy, việc nghiên cứu phương thức biểu hiện các hành vi ngôn ngữ (1)
trong giao tiếp liên ngữ nói chung và giao tiếp Anh – Việt nói riêng, tìm hiểu mối
liên hệ, những tương ứng và không tương ứng giữa chúng là hết sức cần thiết.
Hoạt động giao tiếp liên ngữ - liên văn hoá đòi hỏi mỗi cá nhân hiểu biết
cả chiều sâu lẫn chiều rộng về ngôn ngữ, về văn hoá để có thể thực hiện được
thành công mục đích giao tiếp. Những khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá giữa
tiếng Anh và tiếng Việt có thể mang lại những xung đột văn hoá hoặc các
ngừng trệ giao tiếp ở mức độ khác nhau. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về
các HVNN trong tiếng Anh và tiếng Việt ở những phương diện khác nhau như
Một số khác biệt giao tiếp lời nói Việt-Mỹ trong cách thức khen và tiếp nhận lời
khen của Nguyễn Văn Quang (1999), Câu hỏi tiếng Anh trong sự đối chiếu với
tiếng Việt của Nguyễn Đăng Sửu (2002), Khảo sát các phương tiện từ vựng, ngữ
pháp biểu đạt tính tình thái nhận thức trong tiếng Anh và tiếng Việt của Ngũ
Thiện Hùng (2003), Một số đặc điểm ngôn ngữ-văn hoá ứng xử của hành vi từ
chối trong tiếng Việt (có sự đối chiếu với tiếng Anh) của Nguyễn Phương Chi
(2004) Cùng chung một mục đích, chúng tôi lựa chọn đề tài “Phương thức
biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt)”
với mong (1) Thuật ngữ speech act được một số nhà nghiên cứu chuyển dịch khác nhau: Tác giả Đỗ
Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân gọi là hành vi ngôn ngữ, tác giả Diệp Quang Ban gọi là hành động nói,
2
tác giả Nguyễn Thiện Giáp gọi là hành động ngôn từ Chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ hành
vi ngôn ngữ theo tác giả Đỗ Hữu Châu và tác giả Nguyễn Đức Dân trong luận án này.
muốn góp phần vào việc nghiên cứu những cách biểu hiện khác biệt trong hoạt
động giao tiếp ngôn từ giữa hai nền ngôn ngữ - văn hoá Anh -Việt (không phân
biệt tiếng Anh-Mỹ, Anh-úc, Anh-Anh hay tiếng Anh tại một nước sử dụng như
ngôn ngữ chính thống [như Singapore] hoặc ngôn ngữ thứ hai [như ấn Độ]),
đồng thời góp phần vào công tác giảng dạy tiếng Anh cho người Việt tại Việt
Nam và dạy tiếng Việt cho người nước ngoài theo hướng giao tiếp liên văn hoá.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Luận án chỉ nghiên cứu về HVTC lời CK ở góc độ cấu trúc - ngữ nghĩa - ngữ
dụng, ở bình diện giao tiếp ngôn ngữ. Phạm vi đối tượng nghiên cứu là các phát
ngôn TC thuộc lượt lời thứ 2 của đoạn thoại CK. Chúng tôi không khảo sát các phát
ngôn TC là lời đáp thuộc hành vi hỏi, khen, chê, đánh giá hay các HVTC phi lời
nói như lắc đầu, nhún vai, xua tay v.v…, hoặc TC bằng thư, bằng điện tín mặc dù
trong thực tế, các hành vi này được sử dụng rất nhiều và đóng vai trò tích cực trong
giao tiếp.
Phạm vi và nội dung nghiên cứu của luận án này khác với luận án của
Nguyễn Phương Chi (bảo vệ năm 2004 tại Viện Ngôn ngữ học) ở chỗ:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các phương thức biểu hiện HVTC
lời CK trong tiếng Anh bằng phương tiện ngôn ngữ (có liên hệ với tiếng Việt), tìm
hiểu cách lựa chọn phương thức biểu hiện HVTC lời CK của NS và NNS, nêu nhận
xét để đề xuất một vài ý kiến góp phần vào công tác giảng dạy.
- Luận án của Nguyễn Phương Chi tập trung nghiên cứu các HVNN nói
chung được sử dụng để đạt đích giao tiếp là TC trong tiếng Việt (có sự đối chiếu với
HVTC trong tiếng Anh và các HVNN cụ thể khác trong tiếng Việt) trên phương
diện chiến lược ngôn ngữ và đặc điểm ngôn ngữ-văn hoá của loại HVNN này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
- Nghiên cứu TC với tư cách là hành vi đáp lời, là lượt lời thứ hai trong
hội thoại, luận án trước hết có mục đích nghiên cứu và xác định các phương
thức, các phương tiện biểu hiện HVTC lời CK, phân biệt HVTC với một số
hành vi khác.
3
- Đối chiếu các phương thức biểu hiện HVTC lời CK trong tiếng Anh và
tiếng Việt, chỉ ra nét tương đồng và khác biệt (những tương ứng và phi tương
ứng) giữa hai thứ tiếng.
- Trong chừng mực có thể, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến HVTC
lời CK trong hai ngôn ngữ.
- Từ kết quả nghiên cứu, đưa ra một số lưu ý trong giao tiếp Anh - Việt
nhằm tránh các xung đột văn hoá và một số nhận xét về việc sử dụng HVTC
trong giao tiếp giữa NS và NNS.
4. Đóng góp mới của luận án.
Về ý nghĩa lý luận, luận án góp phần làm rõ những tương đồng và khác
biệt của cùng một HVTC lời CK trong tiếng Anh - tiếng Việt ở cả hai mặt hình
thức tổ chức và ngữ nghĩa - ngữ dụng, bước đầu giải thích những tương đồng,
khác biệt đó từ góc độ ngôn ngữ và văn hoá.
Về ý nghĩa thực tiễn, chúng tôi mong muốn góp phần nghiên cứu sâu hơn về
giao tiếp ngôn ngữ dưới góc độ văn hoá và giao thoa văn hoá thuộc phạm vi HVTC.
Những kết quả nghiên cứu sẽ có tác dụng tích cực trong việc dạy và học ngoại ngữ
theo HVNN, đồng thời trong lĩnh vực dịch thuật, góp phần tăng sự hiểu biết về
văn hoá ngôn từ giữa tiếng Anh và tiếng Việt.
5. Tư liệu nghiên cứu.
Ngữ liệu nghiên cứu được khai thác từ các nguồn:
a. Văn bản:
- Các tác phẩm văn học cổ điển và hiện đại có chứa các đoạn thoại CK
bằng tiếng Anh và tiếng Việt.
- Các tác phẩm song ngữ chứa các đoạn thoại CK phục vụ cho mục đích liên
hệ, đối chiếu giữa tiếng Anh và tiếng Việt. (Chúng tôi dịch sát nghĩa của từ theo cấu
trúc để có thể so sánh cấu trúc - ngữ nghĩa, đồng thời giữ nguyên tên gọi trong tiếng
Anh mà không phiên âm để bảo đảm tính thống nhất văn bản.)
b. Những đoạn thoại tự nhiên trong giao tiếp hàng ngày có chứa các
phát ngôn TC lời CK theo quan sát cá nhân.
c. Phỏng vấn, điều tra:
4
- Tiến hành khảo sát với các nghiệm thể là sinh viên khoa tiếng Anh - Viện
Đại học Mở Hà Nội, sinh viên khoa Kinh tế Đối ngoại - Trường Đại học Ngoại
thương Hà Nội, cư dân Anh đang sống và làm việc tại Luân Đôn, sinh viên Việt
Nam đang học đại học và sau đại học tại Luân Đôn.
Quy trình tiến hành khảo sát:
- Nêu 05 lời CK và phát phiếu khảo sát để các nghiệm thể điền lời TC
theo ý muốn của họ.
- Nêu tình huống và tiến hành thu băng khi các nghiệm thể đối thoại (với
nghiệm thể là sinh viên Việt Nam đang theo học tại Luân Đôn - NNS và nghiệm
thể là NS), sau đó bóc tách và diễn đạt các phát ngôn thu được bằng ký tự trên
giấy để khảo sát.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Để làm sáng tỏ các phương thức biểu hiện HVTC lời CK trong tiếng
Anh và phần nào chỉ ra nét tương đồng và khác biệt giữa HVTC lời CK trong
tiếng Anh và tiếng Việt (lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ gốc và tiếng Việt làm
ngôn ngữ đích), luận án sử dụng phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích
định tính, phương pháp điều tra và phỏng vấn, phương pháp thống kê và lập
bảng biểu, phương pháp đối chiếu. Cụ thể là:
- Từ tư liệu thu được, chúng tôi phân tích hội thoại để tìm ra nét nghĩa ổn
định nhất, phân loại và miêu tả các phương thức và phương tiện biểu hiện
HVTC lời CK trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt), khảo sát và thống kê các
mô hình, biến thể (biến thể tình huống) mang tính hoạt động biểu hiện loại
HVNN này.
- Chúng tôi sử dụng các kết quả đã phân tích và miêu tả để đối chiếu, so
sánh nhằm tìm ra những tương đồng và khác biệt, tương ứng và phi tương ứng
của HVTC lời CK giữa hai ngôn ngữ Anh - Việt trên bình diện cấu trúc ngữ
nghĩa và các nghĩa chuyển dịch.
- Với phiếu điều tra và băng ghi âm thu được, chúng tôi lập bảng biểu và
khảo sát các phương tiện biểu hiện HVTC của NS và NNS qua tình huống cho
trước. Từ đó tìm ra sự khác biệt trong cách chọn lựa và sử dụng phương thức
TC của NS và NNS.
5
7. Bố cục của luận án.
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm năm
chương:
Chương I: Cơ sở lý thuyết.
Chương II: Phương thức biểu hiện hành vi từ chối trực tiếp trong tiếng
Anh (Liên hệ với tiếng Việt).
Chương III: Phương thức biểu hiện hành vi từ chối gián tiếp theo quy
ước trong tiếng Anh (Liên hệ với tiếng Việt).
Chương IV: Phương thức biểu hiện hành vi từ chối gián tiếp phi quy ước
trong tiếng Anh (Liên hệ với tiếng Việt).
Chương V: Khảo sát cách lựa chọn hình thức biểu hiện hành vi từ chối của
người Anh và người Việt nói tiếng Anh (Trên cứ liệu trắc nghiệm).
6
Chương 1
Cơ sở lý thuyết
Việc nghiên cứu các HVNN trong hoạt động giao tiếp của loài người được
các nhà ngôn ngữ học bắt đầu chú ý khoảng những năm 80 của thế kỷ trước
(J.Rubin-1983, G.Leech-1983, S.C.Levinson-1983, S.Blum-Kulka-1986, H.Kijio-
1987, S.Gass-1997, C.Kramsch-2001 ). Các nhà khoa học nghiên cứu HVNN nhằm
giải quyết các vấn đề sau:
- Nghiên cứu để làm sáng tỏ các đặc điểm phổ quát trong giao tiếp ngôn từ ở
bình diện dụng học thuộc các phạm trù khác nhau như lịch sự, giới, quyền lực và các
quan hệ xã hội , mối liên hệ giữa cấu trúc bề mặt và cấu trúc bề sâu, quan hệ giữa
các tầng nghĩa của cấu trúc, cung cấp các hình mẫu phân tích giao tiếp hội thoại cho
ngôn ngữ nói chung.v.v
- Phân tích hàm ý ngôn từ được bộc lộ qua các cách diễn đạt khác nhau về
hình thức.
- Tìm ra bản chất của sự khác biệt văn hoá trong giao tiếp giữa các ngôn ngữ.
Những nghiên cứu này không chỉ giới hạn trong phạm vi một ngôn ngữ mà
mở rộng bằng việc đối chiếu HVNN ở các ngôn ngữ khác nhau, các nền văn hoá
khác nhau và ở các cộng đồng người khác nhau. Nhìn chung các nghiên cứu về
HVNN đều tập trung vào các vấn đề sau đây:
1. Thực tế sử dụng HVNN ở một ngôn ngữ cụ thể (như Gender and
conversation interaction - Giới và giao tiếp hội thoại của D.Tannen [1993] )
2. Thực tế sử dụng một HVNN cụ thể ở các ngôn ngữ khác nhau (như Oral
refusals of invitation and requests in English and Japanese - Cách nói lời từ chối lời
mời và thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Nhật của H.Kijio [1987] )
3. Sự sản sinh ra một HVNN khi chủ thể phát ngôn là NNS (như Non-native /
native conversation: A model for negotiation of meaning - Hội thoại giữa người nói
7
phi bản ngữ và người nói bản ngữ: Một mô hình thương lượng về ý nghĩa của
Varonis, Evangeline và S.Gass [1985a] )
Các nghiên cứu cũng tập trung vào phân tích HVNN của cá nhân dựa vào
một số đặc trưng (như đề phòng, các hoạt động khuyến khích, các hoạt động suy
nghĩ ) ở các mức độ khác nhau, và liên hệ với sự biểu hiện bằng lời, đặc biệt các
nhà nghiên cứu lưu ý đến tính tự nhiên, cách truyền đạt, văn phong của những hoạt
động này.
Vấn đề cơ bản là cần cụ thể hoá thực tế các hoạt động ngôn ngữ theo mục
đích và phong cách sử dụng, chỉ ra được các phương thức biểu hiện một HVNN
cùng ảnh hưởng của các nhân tố xã hội đối với một HVNN nói chung và HVTC nói
riêng. Trong luận án này, chúng tôi đặt vấn đề khảo sát cách ứng xử của mọi người
khi họ TC một lời CK (như một yêu cầu, một lời đề nghị hay một lời mời ) như thế
nào với mong muốn tìm ra được phương thức chung biểu hiện HVTC, cụ thể hoá
hoạt động đối với loại HVNN này để từ đó có thể đưa ra nhận xét về cách ứng xử,
vai trò của ngôn ngữ trong giao tiếp và năng lực thực tế của những người tham gia
cuộc thoại. Để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài, dưới đây, chúng tôi sẽ điểm
qua một số vấn đề cơ bản liên quan đến hội thoại và HVNN nói chung và HVTC nói
riêng.
1.1. Hội thoại và hành vi ngôn ngữ
1.1.1. Hội thoại và các vấn đề liên quan
1.1.1.1. Khái niệm hội thoại
“Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người.” (V.I.Lênin)
Giao tiếp bằng ngôn ngữ có nhiều hình thức: giao tiếp một chiều (độc thoại), giao
tiếp hai chiều hoặc nhiều hơn (hội thoại). Giao tiếp hai chiều là hoạt động cơ bản
nhất, phổ biến nhất của con người. Giao tiếp hai chiều gồm một người nói, một
người nghe và phản hồi trở lại. Giao tiếp hai chiều này được gọi là hội thoại. Một
người nói với chính bản thân mình không gọi là hội thoại. Hội thoại là một hoạt
động xã hội. Trong cuộc thoại, khi hoạt động phản hồi nảy sinh, vai trò của hai
người tham gia cuộc thoại đã thay đổi. Bên nghe trở thành bên nói và bên nói trở
thành bên nghe mà G.Yule [137] gọi là tương tác (interaction). Thuật ngữ tương tác
ứng với nhiều kiểu tiếp xúc và trao đổi trong xã hội tuỳ vào bối cảnh giao tiếp.
8
Nhưng cấu trúc cơ bản của cuộc thoại sẽ là anh nói – tôi nói – anh nói – tôi nói mà
chúng ta đã sử dụng một cách rất quen thuộc. Tương tác nhị phân liên tục này cũng
phản ánh quy trình giao tiếp ngôn ngữ nói chung theo mô hình:
Nói Nghe
(Phương tiện ngôn ngữ) (Phương tiện ngôn ngữ)
Hiểu
Và như vậy, hội thoại là một sự nỗ lực hợp tác giữa các bên tham thoại. Hội
thoại cũng có thể có ba bên hoặc nhiều hơn. Tuy nhiên hội thoại gồm hai bên là
quan trọng nhất. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi chỉ đề cập đến hội thoại hai
bên (đối thoại).
Theo Wardhaugh [134, 60], hội thoại là một hoạt động mang tính điều chỉnh
(tuned activity). Hoạt động này kéo theo một thoả hiệp (trade-off) giữa lợi ích
chung và quyền lợi cá nhân. Những người tham thoại buộc phải tuân theo hoạt động
này. Nếu bạn là một trong hai người tham thoại mà không cung cấp lời đáp, thông
tin phản hồi hoặc không bày tỏ thái độ khuyến khích, động viên thì bạn sẽ nhận
được sự đáp lại miễn cưỡng (reluctant). Người tham gia cuộc thoại phải chuẩn bị
thật tốt những gì cần thiết để đổi lại điều mà mình mong muốn nhận được. Có nghĩa
là bạn biểu lộ sự nhiệt tình với đối tác bao nhiêu thì bạn sẽ nhận được được sự nhiệt
tình tương ứng. Nhưng đôi khi cuộc thoại sẽ trở nên khó chịu (burdensome) bởi
người tham thoại cảm thấy mình không nhận được gì khi anh ta đã cố gắng duy trì
và làm tất cả cho cuộc thoại đạt kết quả tốt đẹp. Khi ấy, cuộc thoại với anh ta là một
sự lãng phí thời gian (a waste of time), vô ích (frustrating), khó chịu (exasperating),
bực mình (maddening) và nhiều điều tương tự.
Có rất nhiều yếu tố liên quan đến hội thoại. Theo GS. Đỗ Hữu Châu (2001),
các cuộc thoại có thể khác nhau ở nhiều khía cạnh: như thời gian, không gian, nơi
chốn; số lượng người tham gia; về cương vị tư cách của người tham gia cuộc thoại;
về tính chất cuộc thoại; về vị thế giao tiếp; về tính có đích hay không có đích, tính
hình thức hay không hình thức; về ngữ điệu hay động tác kèm lời.v.v Những yếu
tố này không tách rời nhau mà liên kết nhau, tạo thành một khối thống nhất hữu
quan trong hội thoại, chi phối và điều hoà cuộc thoại để đạt đến đích cuối cùng của
mỗi bên giao tiếp theo những quy tắc nhất định.
9
1.1.1.2. Các quy tắc hội thoại.
Hội thoại diễn ra theo những quy tắc nhất định. Cái bị chi phối bởi quy tắc
của hội thoại có thể là những nghi thức của hội thoại. Bàn về quy tắc hội thoại, tác
giả Orecchioni chia quy tắc hội thoại thành ba nhóm:
- Các quy tắc điều hành sự luân phiên lượt lời.
- Những quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại.
- Những quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.
[Dẫn theo 8, 225]
Luân phiên lượt lời là nguyên tắc của sự tương tác qua lại trong hội thoại.
Trong cuộc thoại, mỗi lúc có một người nói và không nói đồng thời. Người nói luân
phiên nhau và đó là lượt lời (turn). Sẽ không có lượt lời nếu nhiều người nói cùng
một lúc. Như vậy, vai nói sẽ thường xuyên thay đổi, trật tự của những người nói
không cố định mà luôn thay đổi. Đồng thời lượt lời thứ nhất có chức năng định
hướng cho lượt lời thứ hai. Khi nói một điều, người ta dự đoán, chờ đợi một điều
khác sẽ xảy ra. Nghĩa là hai lượt lời có quan hệ mật thiết với nhau, liên kết chặt chẽ
với nhau. Hội thoại là một hình thức hoạt động xã hội nên theo G.Yule [137], lượt
lời hoạt động theo một hệ thống điều hành cục bộ (2) (local management system)
được hiểu theo lối quy ước giữa thành viên trong một nhóm xã hội. Đây thực chất là
quyước nắm giữ lượt lời, giữ hoặc trao lượt lời cho người đối thoại một cách uyển
chuyển. Kiểm soát quyền được nói, chủ động nắm giữ đề tài và lượt lời là một quyền
lực đáng kể trong hội thoại, có thể chi phối cuộc thoại.
Về quy tắc chi phối hội thoại, theo GS. Nguyễn Đức Dân (1998), những phát
ngôn trong một lượt lời là những hành vi hội thoại. Sự liên kết giữa hai lượt lời là sự
liên kết giữa hành vi dẫn nhập và hành vi hồi đáp. Trong hội thoại, HVNN gây ra
những dạng HVNN nhất định. Rất nhiều loại phát ngôn trong hội thoại đòi hỏi phải
có sự hồi đáp riêng biệt như: hành vi chào yêu cầu một một lời chào trở lại; hành vi
hỏi yêu cầu có câu trả lời; hành vi đề nghị cần một phản hồi (chấp nhận/TC); hành vi
cảm ơn cần một yêu cầu đáp lời Wardhaugh [134] gọi các HVNN này là điều
muốn nói (uptakes). Một HVNN xuất hiện có thể được tiếp nhận tích cực hoặc tiếp
nhận tiêu cực, chấp nhận hoặc TC. Tất nhiên người tham thoại cũng có thể lờ đi mà
không có một biểu đạt ngôn ngữ nào. Với những HVNN đòi hỏi thông tin phản hồi,
10
Wardhaugh cho rằng, người tham thoại có quyền lựa chọn cách thức hồi đáp khác
nhau: hoặc tuân theo (comply), hoặc từ chối (refuse), hoặc đơn giản là lờ đi (ignore)
những gì người ta nói với mình. Nhưng dù tuân theo hành vi dẫn nhập, TC hay lờ đi,
người tham thoại vẫn phải có chiến lược giao tiếp và phương tiện biểu đạt trong
hành vi hồi đáp của mình. Một số khuôn mẫu về hình thức biểu hiện các hành vi này
đã được định sẵn cho người tham thoại lựa chọn. Nhưng trong hội thoại, sự liên kết
các
hành vi tại lời chỉ có giá trị trên bề mặt phát ngôn. Sự liên kết các hiệu lực tại lời của
2) Thuật ngữ của GS. Diệp Quang Ban
HVNN mới có giá trị đích thực. Có nhiều hình thức biểu đạt ngôn ngữ cùng đem lại
một hiệu lực tại lời. Như vậy, việc lựa chọn hình thức ngôn ngữ cụ thể để biểu hiện
một HVNN dẫn đến hiệu lực tại lời là rất quan trọng. Điều này quyết định hiệu quả
trong giao tiếp. Ví dụ:
(I.1) - Chiều đi học về nấu cơm cho em ăn trước, con nhé.
TC 1: - Con không nấu được đâu. Chiều nay con phải hoàn thành đồ án rồi. (TCTT)
TC 2: - Thôi mà, mẹ. Chiều nay con phải hoàn thành đồ án rồi. (TCTT nhưng có
phần giảm thiểu độ dứt khoát.)
TC 3: - Mẹ giúp con với. Chiều nay con phải hoàn thành đồ án rồi.(TCGT bằng lời
đề nghị trở lại.)
TC 4: - Hay mua cái gì về ăn tạm, mẹ ạ. Chiều nay con phải hoàn thành đồ án rồi.
(TCGT bằng hình thức đưa ra một hướng giải quyết mới) v.v
Trong thực tế, mỗi người chúng ta thường phải lựa chọn một cách nói nào đó
đem lại hiệu quả giao tiếp cao nhất chứ không chỉ yêu cầu bằng một mệnh lệnh hoặc
TC thẳng thừng. Nghi thức, thói quen, phong tục, tập quán làm thành quy ước xã
hội mà mỗi cá nhân đều cố gắng tuân theo. Những quy ước này giữ gìn và tạo độ
cân bằng trong cuộc thoại, giúp duy trì cuộc thoại, đem lại hiệu quả trong giao tiếp.
Những quy ước mang tính nghi thức này được quy định theo một trình tự chặt chẽ
với những hành vi cụ thể mà mỗi bên tham gia cuộc thoại cần tuân theo ở mỗi loại
hội thoại xác định.
Quan hệ cá nhân giữa những người tham thoại cũng có tầm quan trọng đặc
biệt trong tương tác hội thoại. Đó là những nhân tố sẵn có trước cuộc tương tác do
11
chúng nằm ngoài tương tác. Chúng liên quan tới quan hệ thân - sơ, quan hệ vị thế xã
hội, tuổi tác, quyền lực và được thể hiện rất khác nhau ở từng cộng đồng người.
Theo GS. Nguyễn Đức Dân (1998), quan hệ cá nhân được xem xét dưới các góc độ:
- Quan hệ ngang (hay còn gọi là quan hệ thân-sơ).
- Quan hệ dọc (hay còn gọi là quan hệ vị thế).
a. Quan hệ ngang :
Quan hệ ngang chỉ rõ mối quan hệ gần gũi, thân cận hay xa cách giữa những
người tham gia giao tiếp. Mối quan hệ này có thể thay đổi và điều chỉnh trong quá
trình hội thoại, từ sơ đến thân hoặc ngược lại. Hình thức có thể đối xứng, hoặc phi
đối xứng. Có nhiều dấu hiệu thể hiện quan hệ ngang: dấu hiệu bằng lời, dấu hiệu cử
chỉ điệu bộ hoặc dấu hiệu kèm lời. Người nói có nhiều công cụ để lựa chọn khi
muốn thể hiện quan hệ này một cách thích hợp.
Những dấu hiệu bằng lời như hệ thống đại từ xưng hô, từ dùng thưa gửi,
cách sử dụng từ tình thái mang sắc thái quan hệ cá nhân rất rõ ràng. Trong tiếng
Anh, các ngôi xưng hô đơn giản hơn trong tiếng Việt, có thể chỉ là cặp từ phản ánh
quan hệ You/I (Anh/Tôi) giữa hai người tham gia đối thoại. Ngược lại hệ thống từ
xưng hô trong tiếng Việt rất phong phú như sắc thái của từ tự xưng: tôi - tớ - tao -
mình - ông - đây , hay cách gọi người đối thoại trực tiếp là ông (bà) - anh (chị) -
ngài - cậu - mày chỉ rất rõ mối quan hệ thân - sơ, trọng - khinh giữa những người
tham gia cuộc thoại. Cách gọi tên tục, biệt hiệu hay đầy đủ họ tên, thậm chí nói
trống ngôi nhân xưng cũng thể hiện rõ quan hệ này. Việc dùng đúng từ xưng hô thể
hiện vốn văn hoá, sự hiểu biết, tính lịch thiệp, mức độ tôn trọng đối với người nghe.
b. Quan hệ dọc:
Đây là quan hệ tôn ti trong xã hội, tạo thành các vị thế trên dưới trong giao
tiếp. Quan hệ này được đặc trưng bằng yếu tố quyền lực. Quan hệ vị thế có tính chất
tương đối và phụ thuộc vào những yếu tố khách quan như cương vị xã hội, giới tính,
tuổi tác Những yếu tố khách quan này tạo các vị thế khác nhau tuỳ theo quan niệm
truyền thống văn hoá của mỗi cộng đồng người. Có nhiều dấu hiệu thể hiện quan hệ
vị thế: bằng lời, bằng cử chỉ hoặc điệu bộ Hầu như mọi yếu tố trong hội thoại đều
thể hiện quan hệ vị thế. Những dấu hiệu bằng lời, tương tự như ở quan hệ ngang, hệ
thống từ xưng hô, hệ thống đại từ, nghi thức xưng hô đều thể hiện quan hệ vị thế,
12
và điều này cũng rất khác nhau ở từng cộng đồng ngôn ngữ - văn hoá. Cách tổ chức
các lượt lời về phương diện số lượng và chất lượng, cách tổ chức cuộc thoại (ai mở
thoại, ai hồi đáp hay kết thúc ), các HVNN và hành vi hội thoại cũng như sự thể
hiện phép lịch sự, những từ tình thái, từ đi kèm HVNN đều thể hiện quan hệ vị thế.
Những vị thế này đã được ngôn từ hoá thành từ ngữ và cấu trúc ngôn ngữ .
Ngoài những đặc điểm trên, dấu hiệu cử chỉ và dấu hiệu kèm lời như tư thế,
âm lực và âm lượng, không gian giao tiếp, hình thức trang phục trong giao tiếp
cũng phản ánh quan hệ vị thế. Người tham gia giao tiếp cần hiểu và nắm bắt những
quan niệm về vị thế giữa các dân tộc, giữa các nền văn hoá để tránh những những
hành vi ứng xử không đáng có. Trong quá trình hội thoại, các nhân vật luôn tác động
qua lại lẫn nhau, nắm bắt thông tin từ mỗi bên giao tiếp để có những điều chỉnh kịp
thời, phù hợp với đích của cuộc thoại và mang lại hiệu quả giao tiếp thích hợp.
Liên quan đến mối quan hệ giữa những người tham thoại, chúng tôi không
thể không nhắc đến quan hệ quyền lực (power) và quan hệ hoà đồng (solidarity) mà
thực chất là quan hệ dọc và quan hệ ngang theo quan niệm của Brown và Levinson.
Theo Tannen [122], quan hệ quyền lực và quan hệ hoà đồng là vấn đề cơ bản của
hội thoại. Quyền lực và hoà đồng có ảnh hưởng nhiều đến lời nói trong hội thoại,
đặc biệt với HVTC. Quyền lực gắn liền với cách sử dụng từ xưng hô. Hệ thống đại
từ nhân xưng trong tiếng Việt, như đã trình bày ở trên, thể hiện quyền lực của người
tham thoại. Còn trong tiếng Anh, cách sử dụng tên đầu (first name) hay tước vị đi
kèm tên họ (tittle-last name) hướng tới người đối thoại đã ấn định thái độ giao tiếp
của người nói. Một tước vị kèm theo tên họ chỉ rõ quyền lực của người đó với người
đối thoại trong cuộc thoại (ví dụ: bác sĩ [như Dr. Smith] với bệnh nhân, giáo sư [như
Professor Green] với sinh viên, giám đốc [như Director Scott] với nhân viên ).
Còn sử dụng tên đầu trong giao tiếp lại thể hiện tính hoà đồng giữa những người
tham thoại. Quyền lực chi phối mối quan hệ không tương đương, nơi có một người
là cấp dưới, chịu sự chi phối của người kia và một người là cấp trên, có quyền điều
khiển đối tượng còn lại. Còn hoà đồng chi phối mối quan hệ tương đương được mô
tả như một sự bình đẳng xã hội (social equality) và những gì tương tự. Tannen cho
rằng, quan hệ quyền lực và quan hệ hoà đồng chứa đầy mâu thuẫn. Có nghĩa là,
quyền lực và hoà đồng dường như đối lập nhau, nhưng ảnh hưởng lẫn nhau. Quan hệ
13
quyền lực sẽ kéo theo quan hệ hoà đồng và ngược lại. Bất cứ hình thức hoà đồng
nào cũng cần có quyền lực để giới hạn sự tự do và những nhu cầu giống nhau. Và
bất cứ hình thức quyền lực nào cũng kéo theo quan hệ hoà đồng bằng mối liên hệ
giữa các cá nhân. Và để làm được như vậy, người tham thoại phải tuân theo một số
nguyên tắc hội thoại được xem xét dưới đây.
1.1.1.3. Nguyên tắc hội thoại.
1. Nguyên tắc cộng tác hội thoại.
Theo P.Grice, nguyên tắc cộng tác trong hội thoại làm cho "cuộc hội thoại
được xem xét đúng như mục đích hay phương hướng mà cuộc thoại đòi hỏi". [21-
130]. Nguyên tắc cộng tác này có hiệu quả đặc biệt với cả người nói và người nghe.
Khi nói, người tham thoại phải quan sát và thực hiện nguyên tắc cộng tác theo
phương châm nhất định.
Nguyên tắc cộng tác có vai trò trung tâm trong lý thuyết hội thoại. Hai bên
tham gia giao tiếp cùng cố gắng để đối tác của mình hưởng ứng, phát triển cuộc
thoại. Nguyên tắc này gồm các phương châm: lượng, chất, quan hệ và cách thức
[137]. Tuy nhiên, thực tế giao tiếp đã nảy sinh những tình huống vi phạm nguyên
tắc cộng tác hội thoại do sự khác biệt về trình độ, về văn hoá, về kinh nghiệm ngôn
ngữ và vốn hiểu biết cuộc sống dù một bên tham gia cuộc thoại vẫn cố gắng tuân
theo nguyên tắc cộng tác. Chúng ta phải căn cứ vào ngữ cảnh, gắn phát ngôn với
hoàn cảnh giao tiếp và mối quan hệ liên nhân để nhận rõ những vi phạm nguyên tắc
cộng tác. Trong hội thoại, những nền văn hoá khác nhau quy ước những nghi thức
giao tiếp khác nhau. Nói khác đi, nguyên tắc cộng tác thay đổi theo chiều sâu văn
hoá của từng cộng đồng ngôn ngữ. Khi bắt đầu nói chuyện, phần lớn những người
tham thoại đều cho rằng họ đang đảm nhận (undertake) nhiệm vụ duy trì cuộc thoại.
Bởi vậy, nếu họ không muốn tiếp tục cuộc thoại, họ sẽ phải tìm cách thực hiện điều
đó một cách lịch thiệp. Kết thúc cuộc thoại là một vấn đề nhạy cảm. Một người tham
thoại không thể bị người khác tuỳ tiện (arbitrarily) áp đặt cắt đứt cuộc thoại, mà
phải được thương lượng (negotiate) bằng những hình thức khác nhau, ít nhất là một
lời xin lỗi. Theo Wardhaugh [134, 49], nếu bạn là người phá vỡ cuộc thoại, bạn phải
tạo ra một cử chỉ hoặc thái độ (gesture) đem lại sự hài lòng cho người đối thoại.
Thái độ trong giao tiếp chỉ ra tinh thần cộng tác của người tham thoại. Thái độ cộng
14
tác cũng chính là thái độ chia xẻ. Một người không thể độc quyền chiếm giữ cuộc
thoại mà phải cho và tạo cơ hội để người kia cùng tham gia cuộc thoại với mình,
thậm chí cả khi người kia TC cơ hội đó. Liên tục ngắt lời người đối thoại là một
cách phủ nhận quyền được nói của anh ta.
Những người trọng tinh thần cộng tác trong hội thoại có xu hướng kết hợp
nhau khi giải quyết các vấn đề. Tốc độ nói, kiểu loại từ sử dụng, cấu trúc ngữ pháp
và những trọng tâm cơ bản mà những người tham thoại cùng chọn để giải quyết đề
tài biểu đạt trách nhiệm và sự nhiệt tình cũng như sự thông cảm, hiểu biết giữa các
thành viên của cuộc thoại. Khi cuộc thoại hoạt động thiếu đồng bộ (synchrony),
(thiếu những yếu tố nêu trên - TCM), một loạt các vấn đề sẽ nảy sinh như: phương
ngữ khác nhau, cách biểu đạt thông tin và đề nghị - hồi đáp (chấp nhận/TC) khác
nhau, sự thiếu thiện cảm và cái tôi trong mỗi con người quá lớn v.v sẽ làm cho mỗi
thành viên của cuộc thoại cảm thấy không hài lòng, và mỗi người tham thoại đều tin
rằng đối tác gây khó khăn cho mình, không có tinh thần hợp tác. Nguy cơ phá vỡ
cuộc thoại là một điều tất yếu. Tình trạng này thường xảy với những thành viên
tham thoại có nguồn gốc dân tộc khác nhau, có vốn tri thức nền khác nhau, sinh
sống và tiếp nhận chương trình giáo dục cơ bản trong những xã hội có sự khác biệt
lớn. Trong những tình huống như vậy, cuộc thoại trở nên rời rạc (disjointed), khó có
thể duy trì và đôi khi khiến những người tham thoại trở nên đối đầu (confrontation).
Tất nhiên, sự đối đầu đối lập với cộng tác. Khi một người tham thoại tỏ ra đối
đầu với đối tác, anh ta tỏ ra thiếu tin tưởng, thậm chí công kích người kia. Anh ta,
người tỏ ra đối đầu với người kia, khẳng định mình đúng, mong muốn điều mình
yêu cầu phải được đáp ứng. Nhưng theo quan sát của chúng tôi, phần lớn những
người tham thoại hiếm khi đối đầu trực tiếp, bởi lẽ hình thức giao tiếp này thô ráp,
khó có thể chấp nhận dễ dàng. Một thực tế là trong hội thoại, người nói luôn cố gắng
tránh nói những điều không hài lòng về nhau, đặc biệt khi TC. Và nếu không thể
tránh được, người nói sẽ lựa chọn cách biểu đạt nhẹ nhàng (milder) với những
phương tiện tế nhị, khôn khéo (subtle) để thể hiện thái độ cộng tác của mình trong
hội thoại. Hội thoại là một hoạt động giao tiếp xã hội luôn được điều chỉnh trong quá
trình thực hiện, nhưng không phải lúc nào cũng hoàn hảo và thành công.
2. Nguyên tắc lịch sự.
15
"Có thể xem xét lịch sự như là một khái niệm cố định, như trong khái niệm"
hành vi xã hội lịch sự "hay nghi thức xã giao, bên trong một nền văn hoá". [69-118].
Có rất nhiều nhà ngôn ngữ như P.Brown và S.Levinson, G.N.Leech, G.Kasper, R.
Scollon và S.B.K Scollon, D.Tannen, A. Wierzbicka nghiên cứu về lĩnh vực lịch sự
và
lịch sự đã trở thành mối quan tâm lớn của ngữ dụng học
Lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn từ thể hiện rõ nhất trong các cuộc thoại quy
thức (formal) và cuộc thoại phi quy thức (informal). Muốn cuộc thoại thành công,
mỗi bên tham thoại cần tuân thủ không chỉ nguyên tắc cộng tác (cooperative
principle) đã trình bày, mà còn phải tuân thủ nguyên tắc lịch sự (principle of
politeness). Những nguyên tắc này có tác động tới cuộc thoại, làm rõ hàm ý mà
người nói thể hiện trong mỗi lượt lời với hình thức ngôn từ và cấu trúc phát ngôn
trong tình huống giao tiếp cụ thể. Để xem xét vấn đề lịch sự chi phối như thế nào đối
với HVTC, chúng tôi dựa vào những lý thuyết về lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn
ngữ của một số tác giả dưới đây.
a. Quan điểm về lịch sự của R.Lakoff với ba quy tắc:
Quy tắc 1: Không áp đặt (don't impose). Theo quy tắc này, người nói sẽ tránh
hoặc giảm nhẹ tính áp đặt trong phát ngôn của mình khi mong muốn TC hoặc thoái
thác thực hiện điều gì đó. Ví dụ:
(I.2) - Mời anh vào chơi xơi nước.
TC1: - Chịu, bây giờ thì chịu. Tôi đang có mấy việc phải đi bây giờ.
TC2: - Thôi, bác để cho lúc khác. Tôi đang có mấy việc phải đi bây giờ.
TC3: - Lúc khác tôi vào ngồi chơi lâu. Tôi đang có mấy việc phải đi bây giờ.
TC4: - Vâng, cảm ơn bác, bác cho lúc khác chứ tôi đang có mấy việc phải đi bây
giờ.v.v
Phát ngôn TC1 là một lời TCTT với từ chịu bộc lộ ý định thoái thác của
người nói. Phát ngôn TC2 là một lời TCTT với từ phủ định thôi kèm theo một lời đề
nghị. Phát ngôn TC3 là lời TCGT dưới hình thức trì hoãn bằng một lời hứa. Phát
ngôn TC4 là lời TCGT có tính lịch sự cao do kèm theo lời cảm ơn thịnh tình của gia
chủ. Lời đáp - TC3 và TC4 đáp ứng được tính không áp đặt trong phát ngôn.
16
Quy tắc 2: Để ngỏ sự lựa chọn (Offer option). Thực hiện quy tắc này, người
nói phải diễn đạt làm sao cho lời TC của mình dễ được chấp nhận nhất mà không
ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người nghe và người nói. Quy tắc này hoạt động
khi những người tham thoại có quan hệ hoà đồng.
Ví dụ:
(I.3) - Cho mình mượn tờ báo.
- Có lẽ cậu chờ mình một chút, xem nốt tin này đã.
Lời TC này tăng mức lịch sự với các từ giảm thiểu có lẽ và một chút. Những
từ ngữ này có tác dụng rào đón, làm giảm nhẹ tính dứt khoát trong HVTC.
Quy tắc 3: Tăng cường tình cảm bằng hữu (Encourage feelings of
camaraderie). Với quy tắc này, chúng tôi có nhận xét: vấn đề lịch sự có thể được
nhìn nhận rộng hơn dưới góc độ xã hội học. Chúng ta quen với quan niệm lịch sự
thuộc phạm trù đạo đức, thuộc một góc nhìn chuẩn mực nhất định trong giao tiếp.
Nhưng thực tế cho thấy, lịch sự còn phải thoả mãn được tính phù hợp với bối cảnh
xảy ra cuộc thoại. Ví dụ:
(I.4) Người chồng nói với vợ:
- Anh để lương trên bàn, em cất đi nhé.
TC1: - Anh cất giúp em cũng được mà. Em đang dở tay.
TC2: - Anh có thể cất giúp em được không? Em đang dở tay.
TC3: - Anh làm ơn cất giúp em được chứ ạ? Em đang dở tay.v.v
Lời TC1 chỉ rõ mối quan hệ bình đẳng, thân tình, tin cậy trong quan hệ vợ
chồng. Lời TC 2 mang sắc thái lịch sự hơn do lời đề nghị được đặt trong câu hỏi
thăm dò khả năng. Nhưng lời TC3 với đề nghị quá lễ phép là một phát ngôn không
bình thường, hoàn toàn không phù hợp trong mối quan hệ vợ chồng, khó có thể
được chấp nhận trong một gia đình bình thường. Nếu đứng trên góc độ lịch sự thuần
tuý, TC3 mang tính lịch sự cao nhất nhưng không phù hợp với ngữ cảnh và mối
quan hệ giữa những người tham thoại. Lời TC lịch sự này hoặc trở thành sự lố bịch,
hoặc có thể làm hỏng cuộc thoại, gây cảm giác không tốt về mối quan hệ giữa những
người tham thoại.
Quan hệ trong xã hội vô cùng phong phú và người nói đóng những vai giao
tiếp khác nhau. Với mỗi vị thế xã hội, người nói phải có cách ứng xử phù hợp với
17
vai giao tiếp của mình, và như vậy có nghĩa là anh ta đã ứng xử lịch sự phù hợp với
quy tắc 3. ứng với một từ politeness, người Việt ngoài khái niệm lịch sự chung còn
tuân theo những khái niệm nhỏ hơn phù hợp với từng cảnh huống và vai giao tiếp xã
hội: Đó là lễ độ, lễ nghĩa và lễ phép.
b. Quan điểm về lịch sự của P.Brown và S.Levinson
Quan điểm về lịch sự được P.Brown và S.Levinson [89] phát triển, mở rộng
nguyên tắc tôn trọng thể diện và phân biệt hai phương diện của thể diện: tích cực
(positive face) và tiêu cực (negative face) (có bản dịch là thể diện dương tính và thể
diện âm tính). Trong diễn biến hội thoại, các HVNN tiềm ẩn sự đe doạ thể diện cả
người nói và người nghe được gọi là hành vi đe doạ thể diện (Face Threatening Acts
- FTA). P.Brown và S.Levinson coi các FTA thuộc dạng bi quan, xem con người
trong xã hội là những sinh thể luôn bị bao vây bởi các FTA. Bởi vậy cần điều chỉnh
mối quan hệ xã hội bằng mô hình FFA (Face Flattering Acts) có tính tích cực – các
hành vi tôn vinh thể diện. Như vậy tập hợp các HVNN được chia thành hai nhóm
lớn: nhóm có hiệu quả tiêu cực và nhóm có hiệu quả tích cực. Phép lịch sự tiêu cực
về căn bản có tính chất né tránh hay bù đắp. Phép lịch sự chủ yếu tạo ra những hành
vi có tính chất giảm đe doạ đối với người nghe như biểu thị sự tán thưởng, cảm ơn,
đề cao người cùng đối thoại trong lời TC. Phép lịch sự tích cực thường dùng
những yếu tố tăng cường cho FFA như ví dụ sau:
(I.5) - Mời anh rẽ qua nhà tôi chơi. Cũng trưa rồi, mình làm chén rượu mừng ngày
gặp lại.
- Cảm ơn anh. Có lẽ anh cho khi khác. Tôi có hẹn với bà xã
Lịch sự là hiện tượng có tính phổ quát với mọi xã hội trong mọi lĩnh vực
tương tác. G.Yule [137] nhận định, lịch sự là chuẩn mực trong giao tiếp và tồn tại
trong một xã hội nói chung. Một số nhà khoa học khác cũng đưa ra định nghĩa về
lịch sự. Nhưng Watts (1992) Mey (1993) Meir (1995) khẳng định khó có thể đưa ra
một định nghĩa khách quan về lịch sự. Chúng tôi tán thành quan điểm về lịch sự của
P.Brown và S.Levinson vì tính cụ thể của nó bởi phép lịch sự tiêu cực có tính chất
bù đắp hay né tránh. Đó là sự né tránh các FTA hoặc giảm nhẹ bằng một số biện
pháp khi buộc lòng phải dùng một FTA nào đó để TC như:
18
a. Dùng từ xưng hô lịch sự (bác, ngài, ông, bà trỏ ngôi thứ 2 khi đối thoại
trực tiếp). Ví dụ:
(I.6) - Anh thu xếp, hai ngày nữa cho tôi xin lại số tiền vợ anh vay hồi cuối tháng
trước.
- Bác yêu cầu vậy gấp quá, có thể lùi lại cho em vài ngày được chăng?
(Từ xưng hô có tính chất nhún nhường (bác - em) với hi vọng người nói lời CK sẽ
nể tình mà cho khất món nợ.)
b. Sử dụng dạng giả định. Ví dụ:
(I.7) - Sang tháng cô cho anh vay ít tiền mua lứa lợn bột.
- Anh chẳng nói sớm hơn, em vừa cho chị bạn mượn để mua xe cho con đi học ở
Hà nội mất rồi. (Giả định nếu nói sớm hơn thì cô đã có thể cho vay tiền.)
c. Dùng hành vi xin lỗi, thanh minh. Ví dụ:
(I.8) - Vào nhà xơi nước đã anh.
- Xin lỗi, anh đang bận quá. Lúc khác anh rẽ qua em chơi. (Xin lỗi vì không
thể thực hiện lời mời.)
d. Yếu tố giảm nhẹ. Ví dụ:
(I.9) - Cô cố gắng giúp chị việc này, hết bao nhiêu chị lo. Cô cứ yên tâm.
- Có lẽ việc này vượt quá khả năng của em. (Có lẽ mang tính đắn đo, làm giảm
mức độ dứt khoát.)
e.Yêu cầu thông cảm. Ví dụ:
(I.10) - Xin lỗi, tôi có thể hút thuốc ở đây không?
- Bác thông cảm, nhà có cháu nhỏ ạ. (Yêu cầu thông cảm nhằm làm người
cùng đối thoại hiểu và bày tỏ thiện chí của người nói.)
Nhìn chung, mỗi người tham gia giao tiếp phải có trách nhiệm thực hiện
nguyên
tắc cộng tác và nguyên tắc lịch sự. Một bên vi phạm nguyên tắc hội thoại, hoặc giữa
những người tham thoại không có sự đồng cảm đều có thể là nguyên nhân phá vỡ
cuộc thoại.
1.1.1.4. Ngữ cảnh.
19
Hội thoại bao giờ cũng xảy ra trong một ngữ cảnh nhất định. Các nhân tố
tham gia vào hoạt động giao tiếp được gọi chung là ngữ cảnh, trừ những lời được
nói
ra hoặc viết ra. Cách thức TC trong hội thoại thường xuất hiện trong những ngữ
cảnh dược xác định. Ngữ cảnh bao gồm tình huống ngôn ngữ và ngữ cảnh tự nhiên
xung quanh, đoạn thoại trước và sau đó, các quy tắc ứng xử, các khía cạnh liên quan
như quan hệ quyền lực hay hoà đồng, phục trang của những người tham thoại, địa
điểm/ thời gian diễn ra cuộc thoại, nội dung của cuộc thoại mà lời TC có liên
quan.v.v Tất cả các yếu tố được gọi là ngữ cảnh ấy cùng tham dự vào cuộc thoại,
quy định cách thức tiến hành cuộc thoại, giúp người tham thoại nắm diễn biến của
cuộc thoại và nhận diện HVTC. Ngữ cảnh tạo nên khả năng giải nghĩa cho các phát
ngôn TC khi chúng xuất hiện trong những cảnh huống riêng biệt.
1.1.1.5. Cấu trúc hội thoại
Hội thoại có những tổ chức nhất định như:
1. Đoạn thoại.
"Đoạn thoại là mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với
nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng". [8,313] Trong đoạn thoại, những người tham
thoại nói về một chủ đề duy nhất. Việc phân định đoạn thoại không dễ dàng bởi
những ranh giới mơ hồ, đôi khi phải dựa vào trực cảm và võ đoán. Có thể ít nhiều
định hình đoạn thoại qua cấu trúc: Đoạn mở thoại, đoạn thân thoại, đoạn thoại kết
thúc. Đoạn thân thoại liên quan tới HVTC lời CK là cặp trao - đáp có chứa phát
ngôn CK tiền vị và phát ngôn TC. Ví dụ:
(I.11) - Mình không còn lo nữa nhé. Nay mai tôi đã có chỗ làm rồi.
( ) - Làm gì?
- Dạy học.
- Hừ, không dạy Mình còn yếu lắm, cứ nghỉ cho bao giờ thật khoẻ, vả lại lần
này có khoẻ rồi, tôi cũng chẳng để mình dạy học. Dạy học hại người lắm
- ồ, vẽ chuyện
- Vẽ chuyện à? Đốc tờ họ bảo
( ) - Đốc tờ, đốc tờ. Thôi đi, tôi lạy các ông đốc tờ cả nón Tôi bất cần đến các ông
đốc tờ, tôi chỉ cần tiền thôi. Tôi cứ đi dạy học.