TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA NGÂN HÀNG -TÀI CHÍNH
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
§Ò tµi:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Lê Đức Lữ
Họ và tên sinh viên : Phan Thị Thanh Nga
Lớp : Ngân hàng 46 A
Khoá : 46
Hệ : Chính quy
Chuyên đề tốt nghiệp
Hà Nội, tháng 04 năm 2008.
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
2
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển
biến tích cực, đặc biệt là sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của WTO vào tháng 11/2006 và mới đây tháng 10/2007 được bầu làm Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã khẳng định vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như tạo thêm sức mạnh lòng tin của
các nhà đầu tư trong khu vực và toàn thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng
đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường tài chính, ngành Ngân hàng tuy có
nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.
Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các NHTM nói chung
và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, chủ yếu và chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu tài sản và thu nhập nhưng cũng là hoạt động phức tạp,
tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn cho các NHTM. Tín dụng trong điều kiện nền kinh tế
mở, hội nhập và cạnh tranh tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh
ngân hàng và đang đặt ra những yêu cầu mới về nâng cao chất lượng tín dụng,
đặc biệt là chất lượng tín dụng đối với các DNNN.
Qua quá trình học tập ở trường Đại học Kinh tế Quốc dân và thời gian
thực tập ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, em đã nghiên cứu,
tìm hiểu về hoạt động tín dụng đối với DNNN tại Chi nhánh và đã hoàn thành
chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “Nâng cao chất lượng tín dụng DNNN tại
Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm”. Đề tài thông qua việc tìm hiểu tổng quan về
hoạt động tín dụng của NHTM, đánh giá chất lượng tín dụng tại Chi nhánh
NHCT Hoàn Kiếm từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
hơn nữa chất lượng tín dụng tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
Kết cấu của Chuyên đề tốt nghiệp này gồm 3 Chương:
Chương 1: Chất lượng tín dụng của NHTM
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại Chi
nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
đối với DNNN tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
Trong giới hạn về thời gian tìm hiểu tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm,
đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu về hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Hoàn
Kiếm trong 3 năm 2005, 2006, 2007.
Để có kiến thức và tài liệu hoàn thành tốt Chuyên đề thực tập này là
nhờ sự quan tâm của các thầy cô giáo trong Khoa Ngân hàng – Tài chính, đặc
biệt là sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lê Đức Lữ cùng với sự giúp đỡ nhiệt
tình của các anh chị cán bộ tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
4
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1. TÍN DỤNG NHTM
1.1.1. Khái niệm tín dụng NHTM
Tín dụng, theo khái niệm chung nhất là một phạm trù kinh tế của nền
kinh tế hàng hóa, phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu với người sử
dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn
trả và sự tin tưởng.
Dựa trên nhiều tiêu thức phân chia khác nhau mà chúng ta có các loại
hình quan hệ tín dụng khác nhau.
Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng, tín dụng được phân thành:
tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng thuê
mua, tín dụng tiêu dùng và tín dụng quốc tế. Trong đó tín dụng ngân hàng
thương mại là mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ thể còn lại
trong nền kinh tế. Ở đây ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các
doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để
huy động vốn trong nền kinh tế. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng
cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tuy nhiên theo Luật các
tổ chức tín dụng năm 1997 và sửa đổi bổ sung năm 2004, hoạt động tín dụng
của NHTM được hiểu một cách hẹp hơn, là việc NHTM sử dụng nguồn vốn
tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng; trong đó cấp tín dụng là việc
NHTM thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có
hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê và các
nghiệp vụ khác.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM.
Chính vì thế hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM tạo ra phần
lớn lợi nhuận cho ngân hàng nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro, đó là
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
5
Chuyên đề tốt nghiệp
việc khách hàng nhận khoản vốn vay mà không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng (khách hàng không trả, không trả
đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi), gây tổn thất cho ngân hàng.
1.1.2. Các hình thức tín dụng NHTM
Có nhiều căn cứ để phân loại tín dụng NHTM như:
Căn cứ theo mục đích, tín dụng NHTM được phân thành: tín dụng sản
xuất và tín dụng tiêu dùng.
Căn cứ theo ngành kinh tế: tín dụng công nghiệp, tín dụng nông nghiệp
và tín dụng dịch vụ.
Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: tín dụng có đảm bảo
và tín dụng không có đảm bảo
Căn cứ theo mức độ rủi ro: tín dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình
và thấp.
Căn cứ theo thời gian có: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn.
Căn cứ theo hình thức cấp tín dụng có: Cho vay, Chiết khấu, bảo lãnh
và cho thuê.
Bài viết này chỉ đi sâu phân loại tín dụng theo thời gian và theo hình
thức cấp tín dụng qua đó có thể hiểu được những hình thức cơ bản của tín
dụng NHTM.
1.1.2.1. Phân loại theo thời gian
* Tín dụng ngắn hạn:
Đây là loại tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng, thường được sử
dụng để tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của
Nhà nước, doanh nghiệp và hộ sản xuất. Cụ thể:
Ngân hàng cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước dưới hình thức mua trái phiếu do Kho bạc phát hành. Với hình thức này
rủi ro tín dụng ở mức thấp nhất.
Ngân hàng cũng có thể cung cấp tín dụng ngắn hạn cho các tổ chức tài
chính như các ngân hàng, công ty tài chính, các quỹ tín dụng …nhằm đáp ứng
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
6
Chuyên đề tốt nghiệp
nhu cầu thanh khoản. Rủi ro tín dụng trong trường hợp này cao hơn so với
việc cho Nhà nước vay.
Ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất nhằm tài trợ
nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Do mức độ rủi ro đối với
việc cấp tín dụng cho đối tượng này là cao hơn nên thông thường nếu muốn
được vay vốn từ NHTM, các doanh nghiệp và hộ sản xuất đều phải làm đơn
trình bày với ngân hàng về kế hoạch sử dụng tiền vay.
Nếu để ý có thể thấy trên bảng cân đối kế toán của hầu hết các NHTM,
khoản tín dụng ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng cao hơn so với các khoản
mục tài sản khác vì các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của
khách hàng.
* Tín dụng trung và dài hạn
- Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến
60 tháng, thường được sử dụng để tài trợ cho các tài sản cố định như phương
tiện vận tải, cây trồng, vật nuôi, máy móc thiết bị có thời gian sử dụng ngắn.
- Tín dụng dài hạn có thời hạn trên 60 tháng, thường tài trợ cho các
công trình xây dựng như nhà cửa, cầu đường, máy móc thiết bị có thời gian sử
dụng dài và giá trị lớn.
Ngân hàng cấp tín dụng trung và dài hạn thông qua việc mua trái phiếu
trung và dài hạn do doanh nghiệp phát hành, cho vay theo dự án doanh nghiệp
thực hiện, hoặc cho vay đối với người tiêu dùng. Tín dụng trung và dài hạn
thường chiếm tỷ trọng thấp hơn so với tín dụng ngắn hạn.
1.1.2.2. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
* Cho vay
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Tùy theo thỏa
thuận với khách hàng mà ngân hàng áp dụng các phương thức cho vay khác
nhau:
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
7
Chuyên đề tốt nghiệp
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là phương thức cho vay mà ngân
hàng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có
trên tài khoản thanh toán của họ đến một giới hạn nhất định và trong khoảng
thời gian nhất định mà vẫn phù hợp với các quy định của Chính phủ và
NHNN về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Giới hạn nói trên được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, dựa trên cơ sở thu và chi của
khách hàng không phù hợp với nhau về quy mô và thời gian. Do đó phương
thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh
toán: chủ động, nhanh, kịp thời, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm
bảo.
- Cho vay từng lần: Đây là phương thức cho vay mà mỗi lần vay vốn,
khách hàng và ngân hàng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp
đồng tín dụng. Như vậy từng khoản vay là một hợp đồng tín dụng và gắn với
một phương án sử dụng vốn. Phương thức cho vay này phù hợp đối với những
khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, nguồn thu không ổn
định hoặc không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách
hàng chủ yếu sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chính, chỉ
khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt mới vay vốn
từ ngân hàng, nguồn vốn này chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định
trong chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Khi vay vốn theo hình thức này, khách hàng phải làm đơn và trình ngân
hàng phương án sử dụng vốn vay cho mỗi lần vay. Ngân hàng sẽ phân tích
khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, lãi suất, tài
sản đảm bảo (nếu cần), thời hạn giải ngân và thời hạn trả nợ. Hình thức cho
vay này tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay vì
mỗi món vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương thức cho vay, theo đó ngân
hàng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng nhất định.
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Hạn mức này có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, tương ứng với hạn mức
trong kỳ và hạn mức cuối kỳ. Hạn mức tín dụng được cấp dựa trên cơ sở kế
hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Đối với hạn mức trong kỳ, khách hàng có thể vay trả nhiều lần trong kỳ
nhưng mỗi lần dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Nếu là hạn mức
cuối kỳ: trong kỳ, dư nợ có thể lớn hơn hạn mức song đến cuối kỳ khách hàng
phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức đã
quy định.
Hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng phù hợp với những khách
hàng có nhu cầu vay vốn lưu động thường xuyên, tình hình sản xuất kinh
doanh ổn định, vòng quay vốn lưu động nhanh, quan hệ lâu dài và có uy tín
với ngân hàng. Khác hẳn với hình thức cho vay từng lần, đối với hình thức
này mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng vốn vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng, dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Nếu
phương án sử dụng vốn vay hiệu quả và các chứng từ hợp pháp, hợp lệ ngân
hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng
thỏa thuận và xác định số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra
để trả nợ làm nhiều lần trong thời hạn cho vay. Hình thức này phù hợp với
những doanh nghiệp và người tiêu dùng có lợi nhuận và thu nhập đều đặn, ổn
định vì đó chính là nguồn trả nợ chủ yếu hàng kỳ cho ngân hàng.
Trong cho vay theo hình thức trả góp, khách hàng thường thế chấp
bằng chính tài sản hình thành từ vốn vay (máy móc thiết bị, nhà cửa, hàng
hóa…), rủi ro là rất lớn, do đó lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong
khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay theo dự án đầu tư: là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn
nhằm hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện đầu tư vào các dự án
mới, các dự án nâng cấp, mở rộng sản xuất kinh doanh, giúp các doanh
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
9
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp thuận lợi trong việc triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
hoặc mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Các dự án đầu tư thường có thời hạn dài, vì thế đây là hình thức tín
dụng trung và dài hạn phù hợp cho các chủ đầu tư trong vay vốn thực hiện dự
án. Để được vay vốn, một trong những yêu cầu quan trọng của ngân hàng là
chủ đầu tư phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích của dự án, kế hoạch đầu tư
cũng như quá trình thực hiện dự án. Từ đó ngân hàng tiến hành phân tích,
thẩm định dự án về các yếu tố như: tài chính ,thị trường, nguồn nhân lực,
công nghệ, ảnh hưởng của dự án đến các vấn đề xã hội…trong đó vấn đề
được chú trọng nhất là phân tích tài chính dự án để đánh giá về mức độ hiệu
quả của dự án, thời gian hoàn vốn, tỷ suất thu nhập bình quân…
- Cho vay hợp vốn (cho vay đồng tài trợ): Đây là hình thức tín dụng
mà nhiều ngân hàng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án
vay vốn của khách hàng. Khoản vay này thường được thu xếp bởi một ngân
hàng có uy tín nhất trong tổ hợp các ngân hàng đồng tài trợ.
Cho vay hợp vốn thường được các ngân hàng sử dụng trong trường hợp
khách hàng vay với số tiền quá lớn vượt quá giới hạn cho vay đối với một
khách hàng hoặc ngân hàng cho vay hợp vốn nhằm mục đích chia sẻ rủi ro
với các ngân hàng khác. Với hình thức này khách hàng chỉ phải làm việc với
ngân hàng thu xếp chính, thủ tục và quá trình vay thuận tiện, hiệu quả.
- Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển
của hàng hóa. Khi doanh nghiệp thiếu vốn để mua hàng, ngân hàng có thể cho
vay và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Ngân hàng và khách hàng
thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung
cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận
trong một hoặc vài năm. Đó không phải là thời hạn hoàn trả như trong cho
vay theo hạn mức tín dụng mà là thời hạn để ngân hàng xem xét có tiếp tục
cho vay nữa hay không. Hình thức cho vay này phù hợp với các doanh nghiệp
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
10
Chuyên đề tốt nghiệp
thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày và có
quan hệ vay mượn thường xuyên với ngân hàng.
Khi vay theo hình thức luân chuyển, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân
hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và yêu cầu số tiền cần vay. Chính giá
trị hàng hóa mua vào là đối tượng được ngân hàng cho vay và thu nhập bán
hàng là nguồn chi trả cho khoản vay này.
- Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay của ngân hàng thông qua các
tổ chức trung gian như: Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ…
thường xuất phát từ mục đích hỗ trợ nhau phát triển kinh tế, làm giàu và xóa
đói giảm nghèo. Trong quá trình cho vay theo hình thức gián tiếp, ngân hàng
có thể chuyển một vài khâu sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền
vay…Tổ chức trung gian hoặc các thành viên trong nhóm có thể đứng ra bảo
lãnh cho các thành viên vay, rất thuận tiện cho người vay khi họ không có
hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng thường áp dụng hình thức cho vay gián tiếp đối với thị
trường có nhiều món vay nhỏ, các đối tượng vay phân tán, ở cách xa ngân
hàng, ngân hàng khó có thể quản lý, kiểm soát và thu nợ được. Như vậy việc
cho vay qua các tổ chức trung gian nhằm giảm bớt rủi ro và tiết kiệm chi phí
cho ngân hàng.
* Chiết khấu giấy tờ có giá
Chiết khấu là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng mua lại các GTCG
(thương phiếu, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc…) với thời hạn thanh
toán xác định của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán với số tiền
bằng mệnh giá ghi trên GTCG sau khi trừ đi số tiền chiết khấu và lệ phí chiết
khấu (nếu có). Đến hạn thanh toán GTCG ngân hàng đòi tiền của chủ thể phát
hành GTCG đó. Trường hợp giấy tờ có giá là thương phiếu có kí hậu, nếu
người mua không trả ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên kí tên trên
thương phiếu.
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Đối với nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thường kí với khách hàng hợp
đồng chiết khấu trong đó quy định về lãi suất chiết khấu, hình thức chiết
khấu, hạn mức chiết khấu…Lãi suất chiết khấu là lãi suất áp dụng để tính số
tiền thanh toán khi thực hiện chiết khấu GTCG.
Số tiền thanh toán = Mệnh giá GTCG – số tiền chiết khấu – lệ phí chiết khấu
Trong đó:
Số tiền chiết khấu = Mệnh giá GTCG x lãi suất chiết khấu x thời hạn còn
lại GTCG
Có hai hình thức chiết khấu, đó là:
- Chiết khấu toàn bộ thời gian còn lại của GTCG: với hình thức này
ngân hàng mua hẳn GTCG của khách hàng theo giá chiết khấu và khách hàng
chuyển ngay quyền sở hữu GTCG đó cho ngân hàng. Khi đến hạn thanh toán,
ngân hàng xuất trình GTCG để thanh toán với tổ chức phát hành.
- Chiết khấu có kỳ hạn: Ngân hàng không mua hẳn GTCG mà yêu cầu
khách hàng cam kết mua lại toàn bộ GTCG sau một thời gian nhất định. Nếu
hết thời hạn chiết khấu mà khách hàng không thực hiện việc mua lại GTCG
đó thì ngân hàng là chủ sở hữu hợp pháp và được hưởng toàn bộ quyền lợi
phát sinh từ GTCG đó.
* Bảo lãnh
Bảo lãnh của NHTM là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo
lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng của ngân hàng (bên được bảo lãnh) khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như cam kết với
bên nhận bảo lãnh; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng số
tiền đã được trả thay.
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không
phải xuất tiền ngay khi thực hiện bảo lãnh, do đó bảo lãnh được coi như tài
sản ngoại bảng. Tuy nhiên nếu khách hàng không thực hiện đúng cam kết,
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
12
Chuyên đề tốt nghiệp
ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Lúc này khoản chi
trả được xếp vào loại tài sản xấu trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn.
Để được cấp bảo lãnh khách hàng phải làm đơn xin được bảo lãnh gửi
ngân hàng, ghi rõ số tiền và điều kiện bảo lãnh. Ngân hàng sẽ phân tích khách
hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của
bên thứ ba. Sau đó ngân hàng và khách hàng sẽ kí kết hợp đồng bảo lãnh thể
hiện sự ràng buộc tài chính giữa ngân hàng với bên thứ ba. Hợp đồng này
hoàn toàn độc lập với hợp đồng kinh tế.
Có các loại bảo lãnh:
- Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh, về
việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả
hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh.
- Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh,
về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường
hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
thanh toán của mình khi đến hạn.
- Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của ngân hàng với bên mời thầu, để bảo
đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp, khách hàng phải
nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ
tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng sẽ thực hiện thay.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng với bên nhận
bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của khách
hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng
vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay.
- Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là cam kết của ngân hàng
với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thoả
thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
13
Chuyên đề tốt nghiệp
lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi
thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay.
- Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng với bên
nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách
hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng
vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng trước mà không hoàn trả hoặc
hoàn trả không đầy đủ thì ngân hàng sẽ thực hiện thay.
Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ
rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, sau đó mới đến
trách nhiệm của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ đối với
bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa khách hàng với ngân hàng có khả năng ràng
buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết nên bảo lãnh cũng góp phần
giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra.
* Cho thuê tài sản
Cho thuê tài sản là hình thức tín dụng dựa trên cơ sở hợp đồng cho thuê
giữa bên cho thuê là ngân hàng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn
thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Khách hàng thuê thường là các doanh nghiệp sản
xuất, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu sử dụng máy móc,
thiết bị có giá trị lớn với thời gian sử dụng ngắn hơn thời gian khấu hao của
tài sản nhưng không đủ tiền mua. Loại này có lợi thế là bên thuê không cần
bỏ toàn bộ số tiền ra một lúc để có máy móc thiết bị, đồng thời cũng không
cần phải thế chấp tài sản như trong các giao dịch vay vốn khác, bên thuê
không phải chịu những rủi ro do sự mất mát của tài sản, hao mòn tự nhiên…
Có hai hình thức cho thuê tài sản, đó là:
- Cho thuê nghiệp vụ (cho thuê vận hành): là hình thức cho thuê tài sản,
theo đó bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời
gian nhất định và sẽ hoàn trả lại tài sản đó cho bên cho thuê khi kết thúc thời
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
14
Chuyên đề tốt nghiệp
hạn thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền
cho thuê theo hợp đồng.
- Cho thuê tài chính (thuê mua): cũng giống như cho thuê nghiệp vụ,
bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất
định, nhưng khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê sẽ mua lại tài sản đó.
Đối với hình thức cho thuê tài sản, dựa trên yêu cầu thuê tài sản của
khách hàng, ngân hàng sẽ tiến hành phân tích dự án và tình hình tài chính của
khách hàng, sau đó sẽ xuất tiền để mua tài sản cho khách hàng thuê.
Xét dưới hình thức cấp vốn, cho thuê tài sản là một hoạt động tín dụng
trung hạn, dài hạn vì tài sản cho thuê thường là tài sản cố định. Thời hạn cho
thuê gồm có hai phần: thời hạn cơ bản và thời hạn gia hạn thêm. Trong đó
thời hạn cơ bản là thời hạn người đi thuê không được phép hủy hợp đồng, thời
hạn gia hạn thêm là thời hạn ngân hàng có thể cho người đi thuê tiếp tục thuê,
mua lại hoặc trả lại tài sản đó. Trong quá trình thuê, ngân hàng không chịu
trách nhiệm về bảo dưỡng tài sản và những thiệt hại đối với tài sản cho thuê.
Cho thuê tài sản là giai đoạn phát triển cao của tín dụng thuê mua. Với
những ưu thế nổi bật như hạn chế rủi ro, tiết kiệm chi phí, thủ tục đơn giản,
không phải thế chấp…cho thuê tài sản ngày nay đang là một loại hình kinh
doanh dịch vụ được ưa chuộng trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển.
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG DNNN
1.2.1. Khái niệm
Trong hầu hết các NHTM, tín dụng là hoạt động chủ yếu và mang lại
lợi nhuận cao, đặc biệt là tín dụng đối với các DNNN. Tuy nhiên cũng cần lưu
ý rằng không phải tất cả các ngân hàng đều thực hiện tốt hoạt động tín dụng
của mình. Một số ngân hàng gặp khó khăn trong vấn đề quản lý, thu hồi nợ,
số khác lại gặp khó khăn trong tìm kiếm dự án thích hợp để cho vay hay gặp
phải các rào cản trong các quy định của Ngân hàng Nhà nước…Như vậy chất
lượng tín dụng của NHTM là gì và như thế nào mới được coi là hoạt động tín
dụng có chất lượng?
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Chất lượng tín dụng hay hiệu quả tín dụng là thuật ngữ có phần mang
tính trừu tượng, nó phản ánh kết quả, lợi ích mà khoản tín dụng mang lại.
Chất lượng tín dụng cao hay thấp, tốt hay xấu không chỉ được đánh giá đơn
thuần qua lợi ích nó mang lại cho bản thân các NHTM mà còn phải nhìn nhận
từ phía các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đối với NHTM, chất lượng tín
dụng được cấu thành bởi hai yếu tố: mức độ an toàn và khả năng sinh lời của
ngân hàng do khoản tín dụng mang lại. Còn đối với doanh nghiệp, cụ thể
DNNN, chất lượng tín dụng thể hiện ở việc doanh nghiệp đó sử dụng khoản
tín dụng để đầu tư vào dự án, sản xuất kinh doanh và có được một khoản thu
nhập giúp doanh nghiệp tái đầu tư, tái sản xuất, mở rộng hoạt động sản xuất.
Đối với nền kinh tế, một khoản tín dụng có chất lượng sẽ góp phần thực hiện
các mục tiêu của Nhà nước như cân bằng kinh tế giữa các vùng, miền, các
thành phần trong xã hội, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người
dân…
Tóm lại chất lượng tín dụng DNNN là sự đáp ứng nhu cầu tín dụng hợp
lý của các DNNN, đồng thời đảm bảo tính an toàn và sinh lợi cho ngân hàng
và nhu cầu tín dụng đó phải phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2. Các chỉ tiêu biểu hiện chất lượng tín dụng DNNN
Chất lượng tín dụng là yếu tố tiên quyết đối với sự tồn tại và phát triển
của một ngân hàng. Vì vậy cần đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng để
từ đó có các giải pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Tuy
nhiên chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu vừa mang tính định lượng, vừa
mang tính định tính. Với những chỉ tiêu định lượng việc xác định tương đối
dễ, song với chỉ tiêu định tính việc đánh giá là hết sức khó khăn.
1.2.2.1. Chỉ tiêu định tính
+ Đối với một ngân hàng, khả năng thu hút khách hàng thể hiện qua uy
tín, kết quả hoạt động và chất lượng các dịch vụ đi kèm như tư vấn, môi
giới…Với việc thu hút được nhiều khách hàng cũng đồng nghĩa với việc ngân
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
16
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng đáp ứng được nhiều nhu cầu hợp lý của khách hàng, từ đó nâng cao chất
lượng tín dụng.
+ Việc các ngân hàng tuân thủ các quy định do NHNN đề ra trong lĩnh
vực tín dụng cũng chính là sự tuân thủ luật pháp, góp phần ổn định và tăng
trưởng kinh tế, tăng chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
+ Hoạt động tín dụng của ngân hàng góp phần vào việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đáp ứng nhu cầu vốn cho các
ngành kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy xét
về mặt đóng góp cho xã hội thì đó là chất lượng lượng tín dụng của ngân
hàng.
1.2.2.2. Chỉ tiêu định lượng
Có nhiều chỉ tiêu định lượng để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng
của ngân hàng như: nợ quá hạn, doanh số cho vay, dư nợ cho vay, doanh số
thu nợ, vòng quay vốn, tỷ lệ lợi nhuận…Việc phân nhóm các chỉ tiêu sau đây
chỉ mang tính chất tương đối.
* Nhóm chỉ tiêu về quy mô tín dụng DNNN
- Doanh số cho vay DNNN: Đây chính là tổng lượng vốn mà ngân
hàng đã cho DNNN vay theo hợp đồng tín dụng đã ký, không kể khoản cho
vay đó đã thu hồi về hay chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo
tháng, quý, năm. Doanh số cho vay lớn thể hiện quy mô tín dụng lớn. Sự tăng
trưởng về doanh số cho vay DNNN thể hiện ở tốc độ tăng doanh số cho vay
DNNN của ngân hàng qua các năm và doanh số cho vay DNNN của ngân
hàng so với doanh số cho vay DNNN bình quân trong hệ thống các NHTM.
- Dư nợ cho vay DNNN: là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác
định nào đó ngân hàng hiện còn cho vay đối với các DNNN là bao nhiêu; đây
cũng là khoản ngân hàng cần phải thu về. Khác với doanh số cho vay là chỉ
tiêu thời kỳ (thường là 1 năm) thì dư nợ cho vay là chỉ tiêu mang tính chất
thời điểm (thường tính vào thời điểm cuối năm).
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
17
Chuyên đề tốt nghiệp
- Doanh số thu nợ DNNN: là tổng các món nợ mà ngân hàng đã thu về
từ các khoản cho vay của ngân hàng đối với các DNNN kể cả năm nay và
những năm trước đó. Có nghĩa là doanh số thu nợ này không chỉ gồm nợ thu
được từ các khoản cho vay DNNN trong năm mà còn có các khoản thu nợ quá
hạn, nợ khó đòi các DNNN tưởng như khó có thể thu được ở những năm
trước đó. Chỉ tiêu này rất được các ngân hàng chú ý bởi nó nói lên lợi nhuận
thực mà ngân hàng đã thu được từ các khoản tín dụng đã cấp cho DNNN. Sự
tăng trưởng doanh số thu nợ luôn là mục tiêu của mọi ngân hàng.
Để phân biệt một cách rõ ràng hơn 3 chỉ tiêu nói trên, ta có ví dụ sau:
Dư nợ cho vay Công ty điện lực Hà Nội ngày 31/12/2006 là 200 triệu
đồng. Ngày 1/1/2007, Ngân hàng A cho Công ty điện lực Hà Nội vay số tiền
7 tỷ đồng. Đến 20/10/2007, Công ty điện lực Hà Nội trả nợ cho Ngân hàng 2
tỷ đồng và 100 triệu đồng nợ quá hạn năm 2006 của Công ty. Ngày 30/10,
Công ty tiếp tục vay Ngân hàng A số tiền 4 tỷ đồng và trả 1 tỷ vào ngày cuối
năm 2007.
Như vậy ta có:
Doanh số cho vay năm 2007 của Ngân hàng A đối với Công ty điện
lực Hà Nội : 7 + 4 = 11 tỷ đồng
Dư nợ cho vay của Ngân hàng A đối với Công ty điện lực Hà Nội đến
thời điểm cuối năm 2007 : 0.2 + 7 – 2 – 0.1 + 4 – 1 = 8.1 tỷ đồng
Doanh số thu nợ của Ngân hàng A đối với Công ty điện lực Hà Nội
năm 2007 : 2 + 0.1 + 1 = 3.1 tỷ đồng.
Xem xét các chỉ tiêu tăng trưởng trên với chính sách tín dụng đối với
DNNN của ngân hàng trong từng thời kỳ, ta có thể đánh giá được hoạt động
tín dụng đối với các DNNN có theo đúng quy định và mục tiêu mà ngân hàng
đề ra hay không.
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
18
Chuyên đề tốt nghiệp
* Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tín dụng DNNN
- Tỷ trọng doanh số cho vay DNNN
Doanh số cho vay DNNN được so sánh với doanh số cho vay của cả
ngân hàng qua các năm tương ứng. Từ chỉ tiêu này ta biết được quy mô tín
dụng ngân hàng cấp cho các DNNN so với các DNNQD là bao nhiêu phần
trăm.
Tỷ trọng doanh số CV DNNN =
Doanh số CV DNNN
Doanh số cho vay của NH
- Tỷ trọng dư nợ cho vay DNNN
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô tín dụng ngân hàng cấp cho các DNNN,
đồng thời phản ánh mức độ ảnh hưởng của hoạt động tín dụng đối với DNNN
đến hoạt động tín dụng chung của ngân hàng.
Tỷ trọng dư nợ CV DNNN =
Dư nợ CV DNNN
Dư nợ cho vay của NH
- Hệ số thu nợ DNNN:
Hệ số thu nợ DNNN =
Doanh số thu nợ DNNN
Doanh số cho vay DNNN
Bên cạnh chỉ tiêu doanh số thu nợ DNNN, cũng cần chú ý đến chỉ tiêu
hệ số thu nợ bởi nó phản ánh tình hình thu nợ DNNN trong tổng số đã cho
vay. Tuy nhiên chỉ tiêu này cũng mang tính tương đối vì doanh số thu nợ bao
gồm cả nợ quá hạn, nợ khó đòi ở những năm trước đó.
* Nhóm chỉ tiêu về an toàn sử dụng vốn
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn DNNN
Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn mà khách
hàng không trả được mà không có lý do chính đáng thì ngân hàng sẽ chuyển
từ tài khoản dư nợ sang tài khoản quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Có nhiều
nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. Đó có thể là do năng lực yếu kém của
doanh nghiệp đi vay, sự chiếm dụng vốn và rủi ro gián tiếp, thiếu vốn do đầu
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
19
Chuyên đề tốt nghiệp
tư quá dàn trải, do sự biến động và sức ép của thị trường, bên nợ thua lỗ mất
khả năng thanh toán…Dù phát sinh từ bất kỳ nguyên nhân nào cũng đều ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Thông thường ngân hàng sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn để đánh giá
chất lượng tín dụng. Trên thực tế một ngân hàng có nợ quá hạn năm sau giảm
hơn so với năm trước chưa hẳn chất lượng tín dụng đã tốt hơn mà nó còn phụ
thuộc vào dư nợ cho vay. Nếu dư nợ cho vay năm sau cũng giảm thì chất
lượng tín dụng của ngân hàng chưa hẳn tốt hơn. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
DNNN cho biết nợ quá hạn DNNN chiếm bao nhiêm phần trăm trong tổng dư
nợ cho vay DNNN.
Tỷ lệ nợ quá hạn DNNN =
Dư nợ quá hạn DNNN cuối kỳ
Tổng Dư nợ CV DNNN cuối kỳ
Trong đó Nợ quá hạn DNNN cuối kỳ được xác định theo phân loại nợ
do NHNN quy định (Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định
18/2007/QĐ-NHNN bổ sung Quyết định 493 về phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro), ngoại trừ các khoản nợ khoanh theo quyết định của Chính phủ
và nợ tồn đọng cũ được xử lý theo Quyết định số 149/2001/QĐ-TTg ngày
6/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
Theo Thông tư của Bộ Tài chính số 49/2004/TT-BTC hướng dẫn chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của tổ chức tín dụng, Ngân hàng
được xếp loại về an toàn sử dụng vốn như sau:
Loại A: Tỷ lệ nợ quá hạn =< 5%
Loại B: 5%<= Tỷ lệ nợ quá hạn < 8%
Loại C: Tỷ lệ nợ quá hạn >= 8%
Như vậy có thể thấy tỷ lệ nợ quá hạn thực sự là chỉ tiêu quan trọng
phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ dư nợ cho vay DNNN có tài sản đảm bảo
Tỷ lệ dư nợ CV DNNN có TSĐB =
Dư nợ CV DNNN có TSĐB
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Tổng Dư nợ CV DNNN
Chất lượng tín dụng ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng đối
với các DNNN nói riêng không chỉ phụ thuộc vào khả năng đảm bảo bằng tài
sản mà chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả của dự án. Tuy nhiên tỷ lệ dư nợ cho
vay DNNN có tài sản đảm bảo cũng là một chỉ tiêu cần thiết khi đánh giá chất
lượng tín dụng của NHTM đối với các DNNN.
* Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời
- Vòng quay vốn tín dụng đối với DNNN:
Vòng quay vốn tín dụng DNNN =
Doanh số thu nợ DNNN
Tổng Dư nợ CV DNNN
Chỉ tiêu này đánh giá tần suất sử dụng vốn của ngân hàng trong một
thời kỳ. Vòng quay vốn tín dụng càng lớn thể hiện nguồn vốn ngân hàng lưu
chuyển nhanh, tham gia nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh hàng hóa. Cùng
một lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế, nếu tốc độ vòng quay vốn tín dụng
DNNN nhanh thì ngân hàng có thể đáp ứng nhiều hơn nhu cầu về vốn cho
DNNN.
- Tỷ lệ lợi nhuận tín dụng DNNN
Tỷ lệ lợi nhuận tín dụng DNNN =
Lợi nhuận tín dụng DNNN
Tổng lợi nhuận từ tín dụng
Tỷ lệ này cho biết trong tổng lợi nhuận ngân hàng thu được từ hoạt
động tín dụng có bao nhiêu phần lợi nhuận thu được từ tín dụng DNNN. Đây
cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng đối
với các DNNN. Qua đó ta biết được phần lợi nhuận ngân hàng thu về từ việc
cho vay các DNNN.
Mỗi một chỉ tiêu đều phản ánh một khía cạnh, một góc độ riêng đối với
hoạt động tín dụng và chúng có quan hệ qua lại với nhau. Vì vậy để đánh giá
toàn diện chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng đối với các DNNN thì
cần phải đánh giá trên tất cả các chỉ tiêu đó.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng DNNN
1.2.3.1. Các nhân tố xuất phát từ phía ngân hàng
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Đứng trên góc độ của ngân hàng thì đây là những nhân tố mang tính
chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng DNNN. Những nhân tố này rất
được ngân hàng quan tâm vì nó có thể điều chỉnh và khắc phục được mà
không gặp trở ngại nào từ bên ngoài. Bao gồm:
Thứ nhất: Chính sách tín dụng
Hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng đều căn cứ, tuân thủ và xuất
phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng có thể coi như
một cương lĩnh tài trợ của NHTM và có vai trò quan trọng quyết định đến
chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nó bao gồm các quan điểm, chủ trương,
định hướng, quy định chỉ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM.
Chính sách tín dụng tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng, tạo
đường lối hướng dẫn cho cán bộ tín dụng thực hiện nghiệp vụ của mình. Nếu
như chính sách tín dụng là đúng đắn, hợp lý và linh hoạt, đáp ứng được nhu
cầu của khách hàng về vốn thì ngân hàng đó sẽ thành công trong việc thực
hiện mục tiêu mở rộng tín dụng và đảm bảo chất lượng tín dụng. Còn ngược
lại một chính sách tín dụng cứng nhắc và không hợp lý sẽ khiến ngân hàng
không thực hiện được mục tiêu của mình. Như vậy để đảm bảo mục tiêu nâng
cao hiệu quả, kiểm soát rủi ro và phát triển bền vững hoạt động tín dụng nhất
thiết phải xây dựng một chính sách tín dụng nhất quán, hợp lý, thích ứng với
môi trường kinh doanh, phù hợp với đặc điểm của NHTM, phát huy các thế
mạnh, khắc phục và hạn chế các điểm yếu nhằm mục tiêu an toàn và sinh lợi.
Trong giai đoạn bắt đầu thực hiện các cam kết mở cửa thị trường nói
chung và ngân hàng nói riêng, trước sự cạnh tranh của các đối thủ ngân hàng
nước ngoài, nguy cơ thị phần tín dụng của các NHTM Việt Nam bị co hẹp
ngày càng một gần hơn thì việc nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo an
toàn, phát triển cần bắt đầu ngay từ việc cải cách chính sách tín dụng. Hiện tại
các ngân hàng đã bước đầu xây dựng chính sách tín dụng nhưng vẫn chưa phù
hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; chưa thực sự phát huy hiệu quả quản
lý ở trụ sở chính và thực thi thông suốt ở các đơn vị chi nhánh và ở mỗi cán
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
22
Chuyên đề tốt nghiệp
bộ tín dụng. Ví dụ như: việc xác định khách hàng chiến lược, ngành hàng
chiến lược vẫn còn lúng túng; tăng trưởng tín dụng chưa đi kèm với quản lý
rủi ro tín dụng; chính sách lãi suất cho vay còn cứng nhắc…
Thứ hai: Quy trình cấp tín dụng
Quy trình tín dụng quy định từng bước cần thiết phải thực hiện trong
quá trình cho vay, thu nợ, đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Quy trình tín dụng là
một yếu tố hết sức quan trọng để thực thi chính sách tín dụng tại một NHTM.
Các bước cơ bản của quy trình cấp tín dụng như sau:
Bước 1: Hướng dẫn, tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ vay vốn
Bước 2: Thẩm định khách hàng vay vốn, dự án đầu tư,
biện pháp bảo đảm tiền vay.
Bước 3: Xét duyệt khoản tín dụng và quyết định cấp tín dụng
Bước 4: Ký hợp đồng tín dụng và giải ngân
Bước 5: Quản lý tín dụng được cấp
Quy trình cấp tín dụng của ngân hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc tuân thủ đúng quy trình cấp tín dụng
giúp cho cán bộ tín dụng làm việc một cách hiệu quả hơn, từ đó đảm bảo chất
lượng tín dụng tốt hơn. Nếu quy trình tín dụng được quy định một cách chung
chung, không rõ ràng, không phân định trách nhiệm cụ thể cho từng cán bộ ở
từng bước của quy trình thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện công việc
cũng như khi xác định trách nhiệm đối với mỗi cán bộ, từ đó làm giảm chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Hoặc nếu quy trình tín dụng quá dài, phức tạp
và mang tính cứng nhắc sẽ làm cho khách hàng cảm thấy việc vay vốn của
ngân hàng là hết sức khó khăn, mất nhiều thời gian. Do đó việc lập ra một quy
trình tín dụng sao cho phù hợp, vừa đảm bảo lợi ích cho cả khách hàng lẫn
ngân hàng là vấn đề rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng
cho ngân hàng.
Thứ ba: Các dịch vụ đi kèm với hoạt động tín dụng
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Hoạt động tín dụng của ngân hàng hiện nay nếu đơn thuần chỉ là việc
cung cấp tín dụng cho khách hàng thì sẽ không đủ sức cạnh tranh với các
ngân hàng khác, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài. Vai trò của các dịch vụ
đi kèm hoạt động tín dụng ngày càng được khẳng định. Với các dịch vụ như:
dịch vụ ngân hàng điện tử, dịch vụ tư vấn, hỗ trợ sẽ giúp các doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả hơn, góp phần vào việc
nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng.
Thứ tư: Hệ thống thông tin phục vụ hoạt động tín dụng
Hệ thống thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong hầu hết các hoạt
động của ngân hàng, trong đó có hoạt động tín dụng. Đối với hoạt động tín
dụng, việc nắm bắt thông tin một cách kịp thời, chính xác hỗ trợ cán bộ tín
dụng rất nhiều trong công tác phân tích khách hàng, tình hình tài chính của
khách hàng, cũng như tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh họ để từ đó có
các giải pháp kịp thời nhằm hạn chế những rủi ro. Ví dụ như một khách hàng
đang sử dụng nguồn vốn vay của ngân hàng, nhưng hoạt động sản xuất kinh
doanh của họ có dấu hiệu bị ngưng trệ, sản phẩm không bán được trên thị
trường khiến lợi nhuận giảm sút nghiêm trọng. Như vậy nếu ngân hàng không
có được những thông tin trên mà vẫn tiếp tục cho khách hàng đó vay thì rủi ro
ngân hàng phải gánh chịu sẽ rất lớn vì khả năng trả nợ của khách hàng đã
giảm sút. Khoản cho vay không thu hồi được nợ sẽ khiến cho chất lượng tín
dụng của ngân hàng xấu đi. Chính vì vậy để hoạt động tín dụng ngày càng
được mở rộng với chất lượng ngày càng cao, hiệu quả lớn buộc ngân hàng
phải nắm bắt được những thông tin chính xác về khách hàng vay vốn, đó là
những thông tin về tư cách, uy tín, năng lực sản xuất kinh doanh của khách
hàng, xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành nghề, kết quả
kinh doanh trong quá khứ, các công nợ của khách hàng, nhu cầu vốn hợp lý,
tài sản thế chấp…
Trên thực tế ở Việt Nam việc tìm kiếm thông tin một cách kịp thời,
chính xác là hết sức khó khăn vì thông tin của các doanh nghiệp hầu như chưa
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
24
Chuyên đề tốt nghiệp
được công khai, một mặt họ lo ngại các đối thủ cạnh tranh, mặt khác họ chưa
đủ khả năng về năng lực của mình. Các NHTM có thể tự tìm kiếm thông tin
về khách hàng hoặc mua thông tin qua các trung tâm thông tin có uy tín. Hiện
nay NHNN đã có một trung tâm thông tin quản lý toàn bộ dữ liệu khách hàng
của tất cả các NHTM thành viên. Vì vậy trong trường hợp cần thiết các ngân
hàng có thể yêu cầu được xem thông tin về khách hàng của mình ở các ngân
hàng khác như tình hình vay, trả nợ.
Thứ năm: Chất lượng cán bộ tín dụng
Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự
thành bại của bất cứ một hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động
tín dụng thì yếu tố con người lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết
định đến chất lượng tín dụng, chất lượng dịch vụ, hình ảnh của NHTM và từ
đó quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Về mặt định tính, chất
lượng cán bộ tín dụng thể hiện ở bản lĩnh kinh doanh, bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, thái độ phục vụ tận tình, chu đáo. Xét về mặt
định lượng, chất lượng cán bộ tín dụng thể hiện ở trình độ học vấn, năng lực
chuyên môn nghiệp vụ, khả năng giao tiếp với khách hàng, tiếp thị thu hút
khách hàng và khả năng điều tra, thu thập, liên kết và xử lý thông tin.
Thứ sáu: Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng
Cơ sở vật chất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Việc trang bị đầy đủ các thiết bị tiên tiến, phù
hợp với phạm vi và quy mô hoạt động, phục vụ kịp thời yêu cầu của khách
hàng sẽ giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và thu hút ngày càng nhiều
khách hàng hơn.
Thứ bảy: Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ
Đây là biện pháp hữu hiệu giúp Ban lãnh đạo ngân hàng kịp thời phát
hiện, chỉnh sửa những sai sót ở tất cả các mặt nghiệp vụ, đồng thời có được
những thông tin về tình hình kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt
Phan Thị Thanh Nga Lớp: Ngân hàng 46A
25