1
I. Mở đầu
Ngày nay, khi đất nước đang trên đà phát triển thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế để đạt được những bước tiến dài hơn, mạnh hơn thì những quan hệ sản xuất
đã dần được hoàn thiện. Để có những quan hệ sản xuất và nền kinh tế như ngày nay
là do Đảng và Nhà nước ta đã kế thừa, phát huy những gì đã có mà chính tư tưởng
của Mác đã làm kim chỉ nam dẫn đường cho những bước phát triển. Trong thời đại
mới, khi mà quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
mạnh mẽ chúng ta thường quan tâm đến những vấn đề của kinh tế phát triển như cổ
phần hoá doanh nghiệp, thị trường chứng khoán, kinh tế thị trường mà mấy ai
quan tâm đến vấn đề “ Địa tô” hay hiện nay thường gọi là “Phí sử dụng đất đất”.
Tưởng chừng như đây là vấn đề riêng có của nông nghiệp nhưng thực tế hoàn toàn
khác đây là một trong những vấn đề quan trọng trong dự án phát triển kinh tế, Để
tìm câu trả lời cho những câu hỏi: Đất đai thuộc sở hữu của ai? Quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất ? Thuê đất ở đâu để kinh doanh ? Tiền thuê đất như thế
nào ? Hay khi kinh doanh nông nghiệp thì tiền thuê đất là bao nhiêu ? chúng ta
phải phân tích những lý luận về địa tô , từ đó tìm hiểu xem Nhà nước ta đã vận
dụng ra sao và đề ra những qui định, hạn mức gì?Từ đó thấy “ĐỊA TÔ” là một cơ
sở khoa học quan trong để xác định giá đất.
Đất
đai
là
một
loại
tài
nguyên
tự
nhiên,
một
loại
tài
nguyên
sản
xuất
Khi
nghiên
cứu
khái
niệm
về
đất
đai
liên
quan
đến
định
giá
đất
phải
hiểu:
đất
đai
là
một nguồn
tài
nguyên
thiên
nhiên,
là
tư
liệu
sản
xuất
đặc
biệt,
là
thành
phần
quan
trọng
của
môi
trường sống,
là
địa
bàn
phân
bố
khu
dân
cư,
xây
dựng
cơ
sở
kinh
tế,
văn
hoá,
an
ninh
và
quốc
phòng.
Đất
đai
là
tài
sản
quốc
gia
vô
cùng
quý
giá,
và
chuyển
tiếp
qua
các
thế
hệ,
đồng
thời
cũng
được
coi
là
một
dạng
tài
sản
trong
phương
thức
tích
luỹ
của
cải
vật
chất
của
xã
hội.
Đất
đai
là
tài
sản
vì
đất
đai
có
đầy
đủ
thuộc
tính
của
một
tài
sản
như:
đáp
ứng
được
nhu
cầu
nào
đó
của
con
người
tức
là
có
giá
trị
sử
dụng;
con
người
có
khả
năng
chiếm
hữu
và
sử
dụng;
là
đối
tượng
trao
đổi
mua bán
(tức
là
2
có
tham
gia
vào
giao
lưu
dân
sự)
nhưng
chúng
ta
cần
phải
thấy
rằng
đất
đai
loại
hàng hoá
không
đồng
nhất,
đa
dạng,
là
loại
tài
sản
mà
giá
thị
trường
không
những
chỉ
phản
ánh
bản
than
giá
trị
của
đất
mà
còn
phản
ánh
vị
trí
và
các
tài
sản
tạo
lập
gắn
với
đất
đai.
Đồng
thời
đất
đai
còn
được
coi
là
một
tài
sản
đặc
biệt
vì
bản
thân
nó
không
do
lao
động
làm
ra,
mà
lao
động
tác
động
vào
đất
đai
để
biến
nó
từ
trạng
thái
hoang
hoá
trở
thành
sử
dụng
vào
đa mục
đích.
Đất
đai
cố
định
về
vị
trí,
có
giới
hạn
về
không
gian
và
vô
hạn
về
thời
gian
sử
dụng.
Bên cạnh
đó
đất
đai
có
khả
năng
sinh
lợi
vì
trong
quá
trình
sử
dụng,
nếu
biết
sử
dụng
và
sử
dụng
một cách
hợp
lí
thì
giá
trị
của
đất
(đã
được
khai
thác
sử
dụng)
không
những
không
mất
đi
mà
có
xu hướng
tăng
lên.
Khác
với
các
tài
sản
thông
thường
khác
trong
quá
trình
sử
dụng
thì
đất
đai
không phải
khấu
hao,
giá
trị
của
đất
không
những
không
bị
mất
đi,
mà
ngày
càng
có
xu
hướng
tăng
lên.
Đất đai có đặc
trưng:
Có
vị
trí
cố
định
không
thể
di
chuyển
đất
đai
theo
ý
muốn,
vị
trí
cố
định
đã
quy
định
tính
chất
vật
lý,
hoá
học,
sinh
thái
của
đất
đai
đồng
thời
nó
chi
phối
rất
lớn
đến
giá
đất.
Vì
vậy
mỗi
mảnh
đất
có
đặc
điểm
riêng
về vị
trí,
tính
chất
đất,
khả
năng
sử
dụng
vào
mục
đích
khác
nhau,
do
đó
chúng
có
giá
trị
riêng.
Có
hạn
về
diện
tích.
Đất
đai
do
lịch
sử
tự
nhiên
hình
thành,
diện
tích
có
tính
bất
Diện
tích
đất
có
hạn,
quỹ
đất
đai
dùng
vào
các
mục đích
khác
nhau
ngày
càng
trở
nên
khan
hiếm
do
nhu
cầu
ngày
càng
cao
về
đất.
Tính
năng
lâu
bền.
Đất
đai
có
tính
năng
có
thể
sử
dụng
vĩnh
cửu.
Trong
điều
kiện
sử
dụng
và
bảo
vệ
hợp
lý,
độ
phì
nhiêu
của
đất
nông
nghiệp
có
thể
nâng
cao
không
ngừng,
Tính
lâu
bền
của
đất
đai,
đề
ra
yêu
cầu
và
khả
năng
khách
quan
sử
dụng
và
bảo
vệ
hợp
lý
đất
đai.
3
Chất
lượng
khác
nhau.
Điều
kiện
bản
thân
đất
đai
(địa
chất,
địa
mạo,
thổ
nhưỡng,
thực
bì, nước )
và
điều
kiện
khí
hậu
tương
ứng
(chiếu
sáng,
nhiệt
độ,
lượng
mưa )
tồn
tại
tính
khác
nhau lớn
về
tự
nhiên
II. Nội dung
2.1 Giá đất:
Đất đai là sản phẩm phi lao động, bản thân của nó không có giá tri. Do đó đối
với đất đai mà nói, giá cả đất đai phản ánh tác dụng của đất đai trong hoat động
kinh tế, nó là sự thu lợi trong quá trình mua bán, nói cách khác giá cả đất đai cao
hay thấp nó được quyết định bởi nó có thể thu lợi cao hay thấp ở một khoảng thời
gian nào đó. Quyền lợi đất đai đến đâu thì có khả năng thu lợi đến đó từ đất và
cũng có giá cả tương ứng, như giá cả quyền sở hữu, giá cả quyền sử dụng, giá cả
quyền cho thuê, giá cả quyền thế chấp…Hầu hết những nước có nền kinh tế thị
trường, giá đất được hiểu là biểu hiện mặt giá trị của quyền sở hữu đất đai. Xét về
phương diện tổng quát, giá đất là giá bán quyền sở hữu đất chính là mệnh giá của
quyền sở hữu mảnh đất đó trong không gian và thời gian xác định.
2.2 Địa tô:
2.2.1 Khái niệm
Địa
tô
là
phần
sản
phẩm
thặng
dư
do
những
người
sản
xuất
trong
nông
nghiệp
tạo
ra
và
nộp cho
người
chủ
sở
hữu
ruộng
đất.
2.2.2 Nguồn gốc
Ðịa
tô
gắn
liền
với
sự
ra
đời
và
tồn
tại
của
chế
độ
tư
hữu
về
ruộng đất.
.2.2.3 Địa tô trong các hình thái kinh tế xã hội
Địa tô
đã
từng
tồn
tại
trong
các
chế
độ
chiếm
hữu
nô
lệ,
phong
kiến,
tư
bản
chủ
nghĩa
và
cả
trong
thời kì
đầu
của
chủ
nghĩa
xã
hội.Trong
chế
độ
chiếm
hữu
nô
lệ,
địa
tô
là
do
lao
động
của
nô
lệ
và
những người
chiếm
hữu
ruộng
đất
nhỏ
tự
do
tạo
ra.
Trong
chế
độ
phong
kiến,
địa
tô
là
phần
sản
phẩm thặng
dư
do
nông
nô
tạo
ra
và
bị
chúa
phong
kiến
chiếm
đoạt.
Trong
chủ
nghĩa
tư
bản,
do
4
còn
chếđộ
tư
hữu
về
ruộng
đất
trong
nông
nghiệp
nên
vẫn
tồn
tại
địa
tô.
Về
thực
chất,
địa
tô
tư
bản
chủ nghĩa
chính
là
phần
giá
trị
thặng
dư
thừa
ra
ngoài
lợi
nhuận
bình
quân
và
do
nhà
tư
bản
kinh
doanh nông
nghiệp
trả
cho
địa
chủ.
Nguồn
gốc
của
địa
tô
tư
bản
chủ
nghĩa
vẫn
là
do
lao
động
thặng
dư
của công
nhân
nông
nghiệp
làm
thuê
tạo
ra.
Địa
tô
tư
bản
chủ
nghĩa
phản
ánh
quan
hệ
giữa
ba
giai
cấp: địa
chủ,
tư
bản
kinh
doanh
nông
nghiệp
và
công
nhân
nông
nghiệp
làm
thuê.
Trong
chủ
nghĩa
tưbản,
có
các
loại
địa
tô:
địa
tô
chênh
lệch,
địa
tô
tuyệt
đối
và
địa
tô
độc
quyền.
Trong
chủ
nghĩa
xã hội,
khi
ruộng
đất
thuộc
sở
hữu
toàn
dân,
không
còn
là
tư
hữu
của
địa
chủ
hay
nhà
tư
bản,
thì
những cơ
sở
kinh
tế
để
hình
thành
địa
tô
tuyệt
đối
cũng
bị
xóa
bỏ,
nhưng
vẫn
tồn
tại
địa
tô
chênh
lệch, song
nó
thuộc
sở
hữu
của
Nhà
nước
và
khác
về
bản
chất
với
địa
tô
chênh
lệch
dưới
Chủ
nghĩa
Tư bản.
2.3 Các lọa địa tô
2.3.1 Địa tô chênh lệch:
Phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên ruộng đất
có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung
được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất
cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình
- Địa tô chênh lệch 1:
Là
địa
tô
chênh
lệch
thu
được
trên
những
ruộng
đất
có
độ
màu
mỡ
tự
nhiên
trung
bình
và
tốt,
có
vị
trí
gần
thị
trường
tiêu
thụ
- Địa tô chênh lệch 2:
L
à
địa
tô
chênh
lệch
thu
được
do
thâm
canh.
Ðịa
tô
chênh
lệch
còn
tồn
tại
cả trong
điều
kiện
của
chủ
nghĩa
xã
hội,
song
được
phân
phối
một
phần
dưới
hình
thức
thu
nhập thuần
túy
phụ
thêm
của
các
hợp
tác
xã
nông
nghiệp
của
nông
dân,
một
phần
dưới
hình
thức
thu
nhập
của nhà
nước.
2.3.2 Địa tô tuyệt đối:
5
Là số lợi nhuận siêu ngạch dội ra ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành nên
bởi chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản chung của nông phẩm. VD: có 2
tư bản trong nông nghiệp và trong công nghiệp có cấu tạo hữu cơ như sau: Trong
công nghiệp: 80c + 20v + 20m = 120 Trong nông nghiệp: 60c + 40v + 40m = 140
Giá trị thặng dư dội ra trong nông nghiệp so với công nghiệp là 20. Số chênh lệch
này là lợi nhuận siêu ngạch không bị bình quân hóa và chuyển thành địa tô tuyệt
đối.
2.3.3 Địa tô độc quyền:
Là lợi nhụân siêu ngạch do giá cả độc quyền của sản phẩm thu được trên đất
đai mà tư bản phải nộp cho địa chủ.
2.4 các yếu tố ảnh hưởng đến địa tô
Hai yếu
tố
chất
đất
và
điều
kiện
địa
hình
đều
có
ảnh
hưởng
lớn
đến
địa
tô,
dù
đất
đó
ở
đô
thị
hay
vùng nông
thôn
hẻo
lánh.
2.4.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến địa tô đất nông nghiệp
- Độ phì nhiêu
Độ phì nhiêu của đất là khả năng cung cấp đủ nước, oxi và chất dinh dưỡng
cần thiết cho cây trồng bảo đảm năng suất cao, đồng thời không chứa các chất có
hại cho cây. Độ phì nhiêu của đất là một trong những yếu tố quyết định năng suất
cây trồng. Muốn cây trồng có năng suất cao, ngoài độ phì nhiêu của đất cần phải có
thêm các điều kiện : giống tốt, chăm sóc tốt và thời tiết thuận lợi.
Nhờ các hạt cát, limon, sét và chất mùn mà đất có khả năng giữ được nước và
các chất dinh dưỡng. Đất chứa nhiều hạt có kích thước bé, đất càng chứa nhiều
mùn, khả năng giữ nước và chất dinh dưỡng càng tốt.
- Điều kiện tưới tiêu: Đất đai ở những vùng thuận lợi ,có điều kiện tưới tiêu tốt
góp phần làm ổn định và đạt năng xuất cây trồng cao, mang lại lợi ích kinh tế.Làm
cho nhu cầu sử dụng của con người lớn hơn, ảnh hương đến địa tô rỏ rệt.
- Điều kiện khí hậu:
6
Khí hậu bao gồm các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, áp suất khí quyển,
gió, các hiện tượng xảy ra trong khí quyển và nhiều yếu tố khí tượng khác trong
khoảng thời gian dài ở một vùng, miền xác định. Tạo ưu thế và tính đặc trưng trong
sản xuất nông nghiêp, cho những sản phẩm đặc sản riêng của tưng vùng miền, địa
phương.
- Điều kiện địa hình
Tạo điều kiện cho việc sản xuất nông nghiệp, địa hình bằng phẳng, hạn chế xói
mòn và lở đất, kết quả sản xuất cao và ít ảnh hương xấu khi mưa bão.
- Vị trí của thửa đất
Giúp việc vận chuyển cây con giống, vị trí sản xuất xa nguồn going thì chi phí
cho vân chuyển cao,hạn chế chất lượng giống trong quá trình di chuyển. Do vậy vị
trí thuân lợi bất buộc phải chịu mức địa tô cao hơn.
2.4.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến địa tô đất đô thị
- Vị trí
Đây là yếu tố vô cùng quan trọng trong xác định địa tô. Một thửa đất gần trung
tâm hơn sẽ mang lợi ích kinh tế cao, cụ thể là thuận lợi cho việc cung cấp dịch vụ,
được cung câp đầy đủ các điều kiện sống, tiếp cận nhanh với khoa học kỹ thuật…
7
- Các đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất
Ở những khu vực mà cơ sở hạ tầng đầy đủ, đáp ứng nhu cầu của con người thì
địa tô cao hơn những nơi trang thiết bị về cơ sở hạ tầng. Con người luôn có nhu cầu
về một môi trường sống đầy đủ sẵn sàng bỏ chi phí cao đẻ được sống trông môi
trương lý tưởng hơn.
2.5 Ứng dụng
- Phân loại đô thị:
Đô thị là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như: vùng liên
tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành
phố trực thuộc Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện.
8
Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỉ lệ lao động phi nông
nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt
động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy
hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người
và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km².
Việc phân loại đô thị nhằm mục đích: Tổ chức, sắp xếp và phát triển hệ thống
đô thị, Phân cấp quản lý đô thị, quy hoạch xây dựng đô thị và phát triển đô thị.
Đô thị được phân thành 6 loại, gồm: đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I, đô thị
loại II, đô thị loại III, đô thị loại IV và đô thị loại V.
-Phân loại đường phố
Loại đường phố trong từng loại đô thị được xác định căn cứ chủ yếu vào khả
năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi cho sinh hoạt, sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, du lịch, khoảng cách tới khu trung tâm đô thị, trung tâm thương
mại, dịch vụ, du lịch
Đường phố trong từng loại đô thị được phân thành các loại đường phố có số
thứ tự từ l trở đi. Đường phố loại 1 áp dụng đối với đất tại trung tâm đô thị, trung
tâm thương mại, dịch vụ, du lịch; có mức sinh lợi cao nhất, có điều kiện kết cấu hạ
tầng thuận lợi nhất; các loại đường phố tiếp sau đó theo thứ tự từ loại 2 trở đi áp
dụng đối với đất không ở trung tâm đô thị, trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch
có mức sinh lợi và kết cấu hạ tầng kém thuận lợi hơn.
Trường hợp một đường phố gồm nhiều đoạn đường phố có khả năng sinh lợi
khác nhau có kết cấu hạ tầng khác nhau thì từng đoạn đường phố đó được xếp vào
loại đường phố tương ứng.
Vị trí đất trong từng loại đường phố của từng loại đô thị được xác định căn cứ
vào khả năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi cho sinh hoạt, sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, khoảng cách so với trục đường giao thông. Vị trí đất trong
từng loại đường phố của từng loại đô thị được phân thành các loại vị trí có số thứ tự
từ l trở đi. Vị trí số l áp dụng đối với đất liền cạnh đường phố (mặt tiền) có mức
sinh lợi cao nhất, có điều kiện kết cấu hạ tầng thuận lợi nhất, các vị trí tiếp sau đó
9
theo thứ tự từ thứ 2 trở đi áp dụng đối với đất không ở liền cạnh đường phố có mức
sinh lợi và điều kiện kết cấu hạ tầng kém thuận lợi hơn”.
- Phân loại vùng
Việc phân loại vùng trong xây dựng bảng giá đất tại địa phương được thực
hiện theo 3 loại: vùng đồng bằng, vùng trung du và vùng miền núi.
Đông bằng
10
Trung du
11
Miền núi
12
IV.KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu vấn đề địa tô có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cho
việc sử dụng nguồn lực đất đai của đất nước có hiệu quả hơn.
Nông nghiệp khác với công nghiệp ở chỗ: số lượng ruộng đất có giới
hạn, độ màu mỡ, vị trí địa lý của ruộng đất là không giống nhau, điều kiện
thời tiết, khí hậu ít biến động, nhu cầu hàng hoá nông phẩm ngày càng
tăng Điều này buộc xã hội phải canh tác cả trên những ruộng đất có điều
kiện xấu nhất.Từ việc nghiên cứu địa tô để khai thác có hiệu quả nguồn lực
đất đai là cơ sở khoa học quan trọng giúp các nhà định giá đất đưa ra các
mức giá phù hợp nhất với từng thửa đất,loại đất khác nhau.
Bài làm trình bày còn dàn trải, chưa có trọng tâm, và quan trọng
nhất là chưa trả lời được câu hỏi “tại sao địa tô lại là cơ sở khoa
học để xác định giá đất” Em nên chú ý phân tích sâu hơn ở các
loại địa tô, từ đó sẽ thấy bản chất của nó và biết nó ảnh hưởng
đến mức giá của từng loại đất như thế nào.