Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

quản lý các loại lúa giống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.86 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA TOÁN – CƠ –TIN HỌC

Báo Cáo Bài Tập Lớn
Môn : Hệ Quản Trị Cơ Sở Dữ Liệu
Đề Tài: Quản Lý Các Loại Lúa Giống
Giảng viên :PGS.TS Đỗ Trung Tuấn
Sinh viên : Trần Phương Anh
Lớp : K56A2
Mã sinh viên : 11 00 00 34
Lời cảm ơn
Trước hết cho phép em được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo Đỗ
Trung Tuấn, người đã dạy dỗ, chỉ bảo và tạo điều kiện tốt nhất để em có thể hoàn
thành đề tài này một cách tốt nhất.
Cũng cho phép em được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô trong
bộ môn tin học nói riêng và Khoa Toán – Cơ – Tin trường Đại học Khoa học Tự
nhiên nói chung đã dạy dỗ, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình
học tập tại trường.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị, bạn bè, gia đình…những
người đã luôn sát cánh bên tôi trong suốt năm học qua.
Mục lục
1 .MỞ ĐẦU
1.1 Lời nói đầu:
"Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn."
Lúa là thực vật quý giá, là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm ngũ cốc, là
cây lương thực chính của người Việt Nam nói riêng và người dân Châu Á nói
chung. Vì vậy, chọn giống lúa cho năng suất cao và phẩm chất tốt là điều kiện cần
thiết. Trong khuôn khổ bài viết này, xin giới thiệu đến các bạn các loại lúa giống cơ
bản tại Việt Nam.
Lịch sử lúa giống gắn liền với cây lúa, tại Việt Nam, có thể chia thành 3 giai


đoạn chính:
Giai đoạn 1 (trước năm 1954):
Văn minh lúa nước là nền văn minh cổ đại xuất hiện ở Việt Nam từ
ngàn đời nay, tuy nhiên trước những năm 1960 ở nước ta vẫn chỉ sử dụng giống lúa
thuần địa phương. Bằng con đường di truyền và biến dị, các giống lúa thuần địa
phương ở các nước trồng lúa thật phong phú. Những giống lúa không được ưa
chuộng bị đào thải và những giống lúa được ưa chuộng được giữ lại và nhân rộng
trên nhiều vùng khác nhau, trong đó có cả việc du nhập giống lúa từ nước này sang
nước khác, vùng này sang vùng khác.
Do cây lúa có cơ chế tự thụ phấn là chính nên các giống lúa địa phương trải
qua hàng trăm năm vẩn giữ được tính thuần nhất về mặt di truyền. Đương nhiên sự
giao phấn chéo và sự đột biến cũng có thể làm cho một giống lúa có lẩn tạp di
truyền nên cũng cần phải có chu kỳ phục tráng và lọc thuần để bảo đảm đặc tính
ban đầu.
Ở ở các nước Nam Á và Đông Nam Châu Á, các giống lúa thuần địa
phương chủ yếu là loài O. Sativa var indica. Trong những năm 1960s trong
loài O.sativa có hàng trăm ngàn giống lúa thuộcO. Sativa var indica. Số lượng và
diện tích các giống lúa thuần địa phương đã bị suy giảm nghiêm trọng kể từ khi
giống lúa cải tiến ra đời từ cuối những năm 1960. Hiện nay ở mỗi nước chỉ còn giữ
lại một số rất ít giống lúa thuần địa phương như là những giống lúa đặc sản của mỗi
nước.
Sau đây là ví dụ những giống lúa thuần địa phương nổi tiếng ở Việt Nam
: Dự Hương (Miền Bắc Việt Nam), Nàng Thơm Chợ Đào (xã Mỹ Lệ huyện Cần
Đước , tỉnh Long An). Nếp cái hoa vàng (Nam Định). Nếp Cẩm (Miền Bắc Việt
Nam). Nếp Tú Lệ (Miền Bắc Việt Nam).Tài Nguyên (tỉnh Long An). Tám Xoan
(huyện Hải Hậu , tỉnh Nam Định).
Giống lúa thuần địa phương hay lúa mùa thuộc loài lúa Châu Á nhiệt
đới O. Sativa var. Indica có nhiều nhược điểm như:
-Có thời gian sinh trưởng dài (5-8 tháng), có tính cảm quang mạnh chỉ
trồng được trong những tháng phù hợp trong năm và mỗi năm chỉ sản xuất

được một vụ.
-Có thân cao (1,2-2 m), kiểu lá rũ, hiệu quả quang hợp kém, khi chín dể
đổ ngã và cho năng suất thấp.
-Phản ứng với phân bón hóa học kém, không thích nghi với điều kiện
thâm canh tăng năng suất và trồng nhiều vụ trong năm.
Trước tình trạng dân số thế giới tăng nhanh nhưng năng suất lúa mùa chỉ đạt
ở đỉnh trần ở khoảng 2-2,5 tấn /ha, các nhà khoa học trồng lúa thế giới tìm cách lai
tạo ra các giống lúa cải tiến (Improvement rice) nhằm để tăng vụ và tăng năng cây
lúa để bảo đảm an ninh lương thực khi dân số Châu Á ngày càng tăng.
Giai đoạn 2 (1954 - 1975): Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Từ rất sớm ở Miền Nam Việt Nam (dưới chế độ Sài Gòn) khoảng tháng 5-
1966, Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa (nay trở thành cơ sở của Viện Cây Ăn Quả
Miền Nam) ở Long Định, Tiền Giang thuộc Bộ Canh Nông (chế độ Sài Gòn) đã
nhận được 10 kg lúa giống IR8 để trồng thử nghiệm đầu tiên trên 2.000 m
2
vào
mùa mưa. Trong mùa ấy, năng suất của lúa IR8 thu hoạch được 4 tấn/ha so với
năng suất bình quân của lúa cổ truyền 2 tấn/ha.
Đồng thời, trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn nhận được 1kg giống
IR8 từ IRRI để trồng trong một thí nghiệm về ảnh hưởng của quang cảm
(photoperiodism) cùng chung với một số giống lúa địa phương tuyển chọn của
Miền Nam. Kết quả thí nghiệm được báo cáo vào mùa hè 1967 qua một Luận trình
cuối khóa (Trần Văn Đạt, 1967). Trong thí nghiệm này, năng suất tiềm năng của
giống lúa IR8 được theo dõi và đánh giá cao trong khi so sánh với các giống lúa
được tuyển chọn khác.
Nhờ kết quả khích lệ trên và nhu cầu lúa gạo cấp bách thời bấy giờ, Bộ Canh
Nông (Sài Gòn) đặc biệt chú ý đến giống lúa IR8 và quyết định phát triển canh tác
đại trà trong khi vẫn còn trồng thí nghiệm theo dõi tại Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa
ở Long định, tại các Trại thực nghiệm lúa ở Miền Trung và Miền Nam, Viện Khảo
Cứu Nông Nghiệp và trường Đại học Cần Thơ, qua sự hợp tác với IRRI ở

Philippines. Có thể nói Việt Nam là một trong những nước tiên phong trong công
cuộc Cách Mạng Xanh ở Châu Á.
Vào giữa năm 1967, trong chương trình hợp tác với Cơ quan Phát triển quốc
tế của Mỹ (USAID), độ 6 tấn lúa giống IR8 có năng suất cao và ngắn ngày, được
du nhập khá khó khăn vào Việt Nam (vì thỏa hiệp giữa IRRI và Chính phủ
Philippines không cho phép IRRI xuất khẩu một số lượng lúa lớn dù là hạt giống)
để tái canh trên 300 ha ruộng vào mùa nắng (vụ Đông xuân) tại Võ Đắt, tỉnh Bình
Tuy (cũ), sau khi vùng này bị lũ lụt và vụ lúa bị thiệt hại nặng nề. Vì giống lúa IR8
được trồng hơi muộn lại thiếu nước, chỉ có khoảng 40 ha lúa được thu hoạch với
năng suất bình quân 2 t/ha.
Tất cả số lượng lúa sản xuất được tại Vỏ Đắt, độ 80 tấn, được Bộ Canh Nông
(Sài Gòn) thu mua làm giống và gởi trồng nhân giống tại 33 tỉnh của Miền Nam
vào mùa mưa 1968. Sau đó, lúa IR8 được nông dân tự nhân giống hoặc được Sở
Lúa Gạo thu mua qua quỹ luân chuyển để phân phối cho các vùng khác trồng vào
mùa nắng (vụ Đông xuân) của năm 1969.
Cho nên, trong vụ mùa 1968-1969, 23.373 ha lúa IR8 đã được thu hoạch với
năng suất bình quân 4tấn/ha và giống lúa IR8 được Bộ Nông nghiệp (chế độ Sài
Gòn) đặt tên là Thần Nông 8 (TN8) .
Mùa lúa 1968-1969 là thời gian bắt đầu phổ biến mạnh mẽ của chương trình
“Tăng gia sản xuất lúa Thần Nông” được Sở Lúa Gạo thuộc Bộ Canh Nông thực
hiện đại qui mô qua mô hình “mini kit” của Philippines: Mỗi nông dân trồng lúa
TN8 (lần đầu tiên) được cung cấp một gói nhỏ (mini kit) gồm lúa giống TN8, phân
hóa học và thuốc sát trùng diazinon.
Việt Nam nhập giống IR8 từ IRRI vào cả hai miền vào cuối những năm 1960
và từ đó năng suất gia tăng đáng kể.
Ở Miền Bắc giống lúa IR8 được Bộ Nông nghiệp đặt tên là giống Nông
nghiệp 8 (NN8). Cho đến nay có trên 90% diện tích trồng lúa của Việt Nam trực
tiếp hoặc gián tiếp dùng các nguồn gen giống lúa cải tiến của IRRI. Nhờ trồng
giống lúa cải tiến mà sản lượng lúa của Việt Nam hiện nay tăng gấp đôi so với thời
kỳ chưa trồng lúa cải tiến. Công lao phát triển giống lúa cải tiến ở Miền Bắc nhờ

Giáo sư Lương Định Của làm thay đổi đáng kể năng suất và sản lượng lúa ở Miền
Bắc trong thời kỳ 1966-1968.
Thái Bình là tỉnh đạt danh hiệu 5 tấn lúa/năm, là tỉnh có năng suất lúa cao
nhất thời bấy giờ. Trong thời kỳ này Giáo sư Bác sỹ Nông học Lương Định Của
đã chọn tạo ra các giống lúa mới quan trọng cho Miền Bắc:
1-Chọn giống từ IR8 ra dòng NN8-388 (là giống lúa cải tiến đầu tiên được
tạo ra ở Miền Bắc).
2-Tạo ra giống Nông nghiệp 1 (lai giữa Ba Thắc, Nam Bộ x Kunko, Nhật).
3-Tạo ra giống NN75-1 (lai giữa giống 813 với NN1).
4-Tạo ra giống lúa mùa muộn Saibuibao, giống lúa chiêm 314 (lai giữa
dòng Đoàn Kết và Thắng Lợi).
Ở Miền Nam, sau giống IR8, kế đến là các giống lúa IR5, rồi IR20, IR22
được du nhập thử nghiệm và phổ biến qua chương trình hợp tác với IRRI.
Diện tích trồng lúa Thần Nông tiếp tục bành trướng mau lẹ.
Giống IR8 và các giống lúa cao năng suất được tạo ra sau IR8 có những
đặc tính sau:
Năng suất cao (có thể lên đến 10 tấn/ha); thân thấp/lùn (90-100 cm);
không ngã khi được bón phân; lá ngắn, đứng thẳng và có chiều rộng trung
bình; tỷ số hạt/rơm = 1; và không có quang cảm.
Theo báo cáo của Viện Thống Kê Quốc Gia (chế độ Sài Gòn), vào vụ mùa
1969/70, lúa cải tiến được trồng trên 204.000 ha hoặc độ 30% diện tích tưới tiêu,
452.100 ha vào 1970/71, 674.740 ha vào 1971/72, và 835.000 ha vào 1972/73. Đến
vụ mùa 1973-74, diện tích các giống lúa cải tiến hay cải thiện (IR8, IR5, IR20,
IR22, TN 73-1 và TN 73-2) chiếm độ 32% hay 890.000 ha với năng suất bình
quân 4 t/ha và sản lượng của
Giai đoạn 3 : Giống lúa Việt Nam trong thời kỳ thống nhất đất nước
(1975-đến nay)
Giống IR8 cũng được trồng đại trà ở ĐB Sông Hồng và có tên là Nông
Nghiệp 8.Trong năm 1978, Việt Nam nhập 250 tấn hạt giống lúa IR36 và trong
năm 1981 giống IR42 được nhập vào để trồng trên các vùng đất nhiểm mặn. Từ

1978 đến 1983, Việt Nam nhập 11 giống lúa từ IRRI để trồng (Darymple, 1986 và
Khush et al., 1995).
Các giống lúa cải tiến nhập từ IRRI đã phát huy tác dụng, bên cạnh đó các
Viện nghiên cứu và các Trường Đại học Nông nghiệp trong nước đã tự lai tạo
thành công nhiều giống lúa cải tiến trong nước để phục vụ sản xuất. Các tỉnh Miền
Bắc cũng bắt đầu nhập giống lúa ưu thế lai F1 từ Trung Quốc để cải thiện năng
suất ở vùng núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng.
Các giống lúa ngắn ngày (90 - 100 ngày), năng suất cao và không có
quang cảm được lai tạo trong nước trong thập niên 1990s được dân trồng phổ
biến (Bùi Bá Bổng, 2000). Nhờ các yếu tố này nông dân đã tăng gia thâm canh và
hệ số thâm canh lúa tăng nhanh lên đến 1,80 trong năm 2000. Diện tích lúa cả nước
trong năm 2000 đạt được 7,66 triệu ha.
Sau năm 1975, một số Viện nghiên cứu và trường Đại học cũng tham gia
nghiên cứu và phát triển các giống lúa mới cho ĐBSCL như Trường Đại Học Cần
Thơ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Miền Nam hợp tác với Viện nghiên cứu lúa
Quốc Tế (IRRI), một số tập đoàn giống lúa mới từ Philippines được khảo sát và
đánh giá dựa trên tính chống chịu sâu bệnh, năng suất của các giống lúa cải tiến với
các điều kiện thổ nhưỡng của ĐBSCL.
Năm 1977, Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL đã được thành lập tại huyện Ô Môn.
Tỉnh Hậu Giang (Cần Thơ) (tên gọi ban đầu là Trung Tâm Kỹ Thuật Nông Nghiệp
ĐBSCL). Hiện nay, các giống lúa mới do Viện nghiên cứu lúa, trường Đại học
đóng góp cho sự gia tăng sản lượng đáng kễ, chiếm 53% sản lượng cả nước, trong
số đó hơn 80% giống lúa trồng hiện nay ở ĐBSCL từ Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL
(Ô Môn).
Đồng bằng sông Cửu Long, từng bước đã phát triển phương thức canh tác
thâm canh, tăng vụ sản xuất lúa trong năm (3 vụ/năm; 2 năm 7 vụ). Do vậy công
việc tạo giống phải tập trung về năng suất cao, ngắn ngày, và ngon cơm. Ngoài ra
phải chống chịu được với một số sâu bệnh hại chính cho cây lúa như bệnh cháy bìa
lá, bệnh đạo ôn, rầy nâu và virus, chống chịu với một số điều kiện của môi trường
khó khăn như: hạn, măn, phèn và gần đây là giống có chứa hàm lượng vitamine A

và Fe.
Danh sách các giống lúa cải tiến được Viện lúa ĐBSCL và các Viện, Trường
Đại học khác và của IRRI được phóng thích ở ĐBSCL từ năm 1980 đến nay được
hàng trăm giống năng suất cao và ổn định phục vụ cho sản xuất lúa ở các tỉnh phía
Nam.
Từ năm 2006 đến nay, rất nhiều giống đã được phóng thích, phẩm chất đạt
tiêu chuẩn xuất khẩu.Nhìn chung, bộ giống lúa chủ lực (những giống có diện tích
sản xuất trên 50.000 ha/ năm) ở Nam Bộ năm 2010 vẫn ổn định và tiếp tục giữ vai
trò chủ đạo trong những năm tới.
10 giống lúa đứng đầu về diện tích sản xuất ở Nam Bộ gồm: OM 2517,
VNĐ95-20, Jasmine85, OM 576, OM 2514, OM 2717, OM 4218, IR50404, OM
CS2000 và ML 48.
Ngoài ra trong năm 2010, chương trình chọn tạo phát triển giống lúa mới của
các cơ quan nghiên cứu được đẩy mạnh; công tác khảo nghiệm và sản xuất thử các
giống lúa được thực hiện mạnh mẽ và đồng bộ ở các địa phương; trên cơ sở đó Bộ
Nông nghiệp và PTNT đã công nhận được nhiều giống lúa mới cho sản xuất rộng
Nam Bộ như OM 4218, OM 4088, OM 5472, OM 6162, OM 6161, PHB71 (6
giống công nhận chính thức), và các giống OM 6377, OM 5981, OM CS2009, OM
6071, OM 5629, OM 6600, OM 6877, OM 5954, OM 4101, OM 6072, OM 5451,
OM 5464, OM 8923, ML214, Nàng Hoa 9 (15 giống công nhận cho sản xuất thử);
đây là cơ sở quan trọng để xây dựng cơ cấu giống lúa cân bằng và chủ động trong
vùng.
1.2 Cấu trúc bài báo cáo
Bài báo cáo được chia thành 3 chương:
1. Mở đầu
Chương này trình bày tổng quan về lịch sử phát triển các giống lúa,
đồng thời giới thiệu tổng quan bài báo cáo.
2. Bài toán thức tế
Chương này phân tích quá trình tìm hiểu bài toán, tìm hiểu các giống
lúa. Từ đó phân tích thiết kê bài toán ra sao, có các thực thể gì, mỗi thực thể

có các thuộc tính nào, mối quan hệ giữa các thực thể. Từ đó ta có thể thiết kế
được ệ thống cơ sở dữ liệu các loại giống lúa.
Phần tiếp theo là thiết kế giao diện và các chức năng của hệ thống.
3. Kết luận
Nêu lên nội dung đã đạt được, cái hay của hệ thống và hướng phát
triển hệ thống.
2 .BÀI TOÁN
2.1 Phân tích hệ thống
2.1.1 Phân tích bài toán
Trong bài toán này, chúng ta quan tâm đến một đối tượng đó là Giống lúa.
Giống lúa bao gồm các thuộc tính: Mã giống lúa để phân biệt các giống lúa.
Tên giống sẽ cho biết đầy đủ lúa là lúa nếp, lúa tẻ thường hay tẻ thơm Loại giống
là lúa thuần hay lúa lai. Xuất xứ. Năm tạo ra. Thời gian sinh trưởng; Chiều cao cây;
Trọng lượng; Dài hạt; Năng suất; Đặc điểm thân: cứng, mềm ; Ghi chú: về sâu
bệnh hại, lưu ý khi chăm sóc; Ảnh của giống lúa đó.
2.1.2 Các thực thể
Giống lúa.
2.1.3 Các thuộc tính của các thực thể
Giống lúa
Mã giống
Giống lúa

Tên giống
Ghi chú
Dài hạt
Trọng lượng
Năm
Xuất xứ
Loại
Thời gian sinh trưởng

Chiều cao cây
Năng suất
Đặc điểm thân
Ảnh
Tên giống
Loại
Xuất xứ
Năm ra đời
Thời gian sinh trưởng
Chiều cao cây
Trọng lượng
Dài hạt
Năng suất
Đặc điểm thân
Ghi chú
Ảnh
2.1.4 Mối quan hệ giữa các thực thể
Bài toán chỉ có một thực thể nên không có quan hệ.
2.1.5 Xử lý mối quan hệ
Bài toán chỉ có một thực thể nên không có quan hệ.
2.1.6 Mô hình ER
2.1.7 Mô tả chi tiết bảng
Giống lúa Thuộc tính Kiểu Kích
thước
Khóa
Mã giống
VARCHAR
20 PK
Tên giống
VARCHAR

50
Loại
VARCHAR
50
Xuất xứ
VARCHAR
50
Năm ra đời INT 20
Thời gian sinh trưởng (ngày)
VARCHAR
20
Chiều cao cây (cm)
VARCHAR
20
Trọng lượng 1000 hạt (g)
VARCHAR
20
Dài hạt (mm)
VARCHAR
20
Năng suất (tạ / ha)
VARCHAR
20
Đặc điểm thân
VARCHAR
50
Ghi chú
VARCHAR
100
Ảnh

VARCHAR
100
2.1.8 Sơ đồ lớp
Không có.
2.1.9 Cơ sở dữ liệu (một số bản ghi đại diện)
Giống lúa
Mã giống
Tên giống
Loại
Xuất xứ
Năm ra đời
Thời gian sinh trưởng
Chiều cao cây
Trọng lượng
Dài hạt
Năng suất
Đặc điểm thân
Ghi chú
Ảnh
2.2 Phân tích các chức năng hệ thống
2.2.1 Biểu đồ user case
3 .KẾT LUẬN
3.1 Kết quả đã đạt được
3.2 Hướng phát triển hệ thống

×