Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của tôi, chưa
được công bố tại nơi nào. Mọi số liệu sử dụng trong khóa luận này là những
thông tin xác thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày 16 tháng 04 năm 2011
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Thu
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
MỤC LỤC
THỨ HAI: PHÂN TÁCH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ BIỂU QUYẾT 80
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. NHNN: Ngân hàng nhà nước.
2. NHTM: Ngân hàng thương mại.
3. NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần.
4. MB: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội.
5. CIC: Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng.
6. NQH: Nợ quá hạn.
7. TCTD: Tổ chức tín dụng.
8. RRTD: Rủi ro tín dụng.
9. GTCG: Giấy tờ có giá.
10. TCKT: Tổ chức kinh tế
11. DPRR: Dự phòng rủi ro.
12. DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước.
13. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
THỨ HAI: PHÂN TÁCH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ BIỂU QUYẾT 80
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tín dụng là hoạt động kinh doanh phức tạp nhất so với các hoạt động kinh
doanh khác của NHTM, hoạt động này tuy thu được nhiều lợi nhuận nhưng cũng
gặp không ít rủi ro. Vì vậy, rủi ro tín dụng nếu xảy ra sẽ có tác động rất lớn và
ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng, cao
hơn nó tác động, ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh
tế. Quản trị rủi ro tín dụng là vấn đề khó khăn nhưng rất bức thiết. Đặc biệt đối
với ngân hàng thương mại Việt Nam, do thu nhập của tín dụng chủ yếu chiếm
trên 70% thu nhập của ngân hàng.
Trong NHTM, rủi ro tín dụng luôn tồn tại và nợ xấu là một hiển nhiên ở
bất kỳ ngân hàng nào, kể cả các ngân hàng hàng đầu trên thế giới bởi có những
rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Tuy nhiên, sự khác biệt cơ bản
của các ngân hàng có năng lực quản trị rủi ro tín dụng tốt với các ngân hàng
khác là khả năng khống chế nợ xấu ở một tỷ lệ có thể chấp nhận được nhờ xây
dựng một mô hình quản trị rủi ro hiệu quả, phù hợp với môi trường hoạt động để
hạn chế được những rủi ro tín dụng mang tính chủ quan, xuất phát từ yếu tố con
người và những rủi ro tín dụng khác có thể kiểm soát được.
Trên cơ sở mong muốn đóng góp vào sự phát triển của NH TMCP Quân
đội, sau quá trình tìm hiểu thực tế tại ngân hàng, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài
cho khóa luận tốt nghiệp là: “ Quản trị rủi ro tín dụng tại NH TMCP Quân đội”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trong quản trị rủi ro tín
dụng của NHTM
- Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh và hoạt động quản trị rủi ro tín
dụng tại MB, từ đó đưa ra những mặt tích cực cũng như hạn chế cho công tác
quản trị này.
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
1
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
- Đưa ra các giải pháp và kiến nghị.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: NH TMCP Quân đội
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động kinh doanh của NH TMCP Quân đội
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp
nghiên cứu thống kê, so sánh, phân tích… đi từ cơ sở lý thuyết đến thực tiễn
nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục đích đặt ra trong khóa luận.
5. KẾT CẤU KHÓA LUẬN.
Khóa luận kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại
NHTM.
Chương 2: Thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại NHTMCP
Quân đội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi
ro tín dụng tại NH TMCP Quân đội.
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
2
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Có thế nói, kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi
nhuận với rủi ro chấp nhận được là bản chất ngân hàng. P. Volker, cựu chủ tịch
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng: “Nếu ngân hàng không có những
khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động kinh doanh”. Rủi ro tín dụng là
một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng
đến chất lượng kinh doanh ngân hàng. Có nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro
tín dụng:
Theo ủy ban Basel thì: “Rủi ro tín dụng là khả năng mà khách hàng vay
hoặc bên đối tác không thực hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều
khoản đã cam kết. Rủi ro thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ của
người giao ước hợp đồng, trong đó sự vỡ nợ được xác định là bất cứ sự vi phạm
nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả nợ gốc và lãi”.
Theo Timothy W.Koch: “Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi
ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán
vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu
nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán
hay thanh toán trễ hạn”.
Còn theo Henie Van Greuning… Sonja Brajovic Bratanovic: “Rủi ro tín
dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
3
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là
thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị
trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố
đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của
ngân hàng (The World Bank).
Theo khoản 01 điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng thì “ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”.
Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng nhưng chúng ta cần
hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả năng, do đó có thể xảy ra hoặc
không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là một khoản vay dù chưa quá hạn
nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá
hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư tín dụng
tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cách hiểu
này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng được chủ động trong phòng
ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích, yêu
cầu nghiên cứu. Tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng
thành các loại khác nhau.
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau đây:
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
4
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
Rủi ro giao dịch là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh
giá khách hàng.
Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn (rủi ro có liên quan đến quá trình
đánh giá và phân tích tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của ngân
hàng); rủi ro bảo đảm (rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như mức cho
vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo…); rủi ro nghiệp vụ (rủi ro liên quan
đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng
hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề).
Rủi ro danh mục là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những
hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành rủi ro
nội tại (xuất phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của khách hàng vay vốn,
lĩnh vực kinh tế) và rủi ro tập trung (là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho
vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt
động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý
nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao).
Ngoài ra còn nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo cơ
cấu các loại hình rủi ro, phân loại theo nguồn gốc hình thành, theo đối tượng sử
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
5
Rủi ro
danh mục
Rủi ro
Giao dịch
Rủi ro
Lựa chọn
Rủi ro
Đảm bảo
Rủi ro
nghiệp vụ
Rủi ro
Nội tại
Rủi ro
Tập trung
Rủi ro tín
dụng
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
dụng vốn vay…
1.1.3. Đặc điểm rủi ro tín dụng trong NHTM
Rủi ro tín dụng ngân hàng mang tính gián tiếp: Đặc điểm này xuất phát từ
nguyên nhân trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn
cho khách hàng trong một thời gian nhất định nên những thiệt hại, thất thoát về
vốn xảy ra trước hết là trong quá trình sử dụng vốn của khách hàng. Biểu hiện rõ
ràng của đặc điểm này là trong thực tế, ngân hàng thường là biết sau cũng như
không đầy đủ và chính xác những khó khăn, thất bại trong hoạt động kinh doanh
của khách hàng có thể gây ra rủi ro tín dụng.
Xuất phát từ đặc điểm này, biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín
dụng muốn hiệu quả cần tập trung nghiên cứu các thông tin về khách hàng, thiết
lập hệ thống thông tin theo dõi dấu hiệu rủi ro tín dụng và đảm bảo mối quan hệ
minh bạch giữa cán bộ tín dụng và khách hàng vay vốn.
Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện
ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng
do đặc trưng ngân hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ. Do đó khi
phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát
từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp
phòng ngừa phù hợp.
Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động
tín dụng của ngân hàng thương mại: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm
cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và
đầy đủ, điều này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân
hàng. Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và
đạt được lợi nhuận tương ứng.
1.1.4. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
6
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
thương mại nhưng đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và ẩn chứa
nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín
dụng là thực sự cần thiết để các ngân hàng thương mại có được các giải pháp cần
thiết để hạn chế rủi ro này và đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất.
Như chúng ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình
cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả
được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Rủi ro này có nguyên nhân
từ nhiều phía: từ phía người cho vay, từ phía người đi vay và cả từ môi trường
bên ngoài.
1.1.4.1 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
Trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiếu một chính sách tín dụng
nhất quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc
cho vay, chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm
tiền vay, danh mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn,… Nguyên nhân
gây ra rủi ro tín dụng từ phía ngân hàng có thể được khái quát cơ bản dưới đây:
- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để
phân tích và đánh giá khách hàng,… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của
phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với
phương án kinh doanh của khách hàng.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không
phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm
bảo chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất
lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án
kinh doanh của khách hàng.
- Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro,
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
7
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề,
sản phẩm địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong
từng thời kỳ.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa
đủ tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
- Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy
động và nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm
thanh toán, từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu
rút vốn nhiều; hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử
dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy
theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến
chất lượng khoản vay.
1.1.4.2. Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án
kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố
ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ
việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đế các doanh nghiệp khác.
- Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả
năng quản lý.
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh
doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp
nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh
doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá
to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
8
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều
thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền
dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài
sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác,
rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ
nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung
cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Do
đó, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa
trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
- Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà
nước nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng
thua lỗ thì nhà nước chịu.
- Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
1.1.4.3. Nguyên nhân khách quan.
Những nguyên nhân mang tính bất khả kháng( thiên tai, dịch bệnh, hỏa
hoạn, thay đổi cầu của người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật công nghệ của một
ngành nào đó) có thể làm phá sản cả một hãng kinh doanh và đặt người đi vay
từng làm ăn có hiệu quả vào thua lỗ, mất khả năng trả nợ.
Do tác động của chu kỳ phát triển kinh tế: Bất kỳ nền kinh tế nào cũng có
chu kỳ phát triển theo một ngưỡng nhất định. Chu kỳ kinh tế có thể lập lại vài
năm một lần, dài hay ngắn tùy thuộc vào năng lực phát triển của từng nền kinh
tế. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả và có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Ngược lại, khi kinh tế suy thoái dẫn
đến sản xuất đình trệ, ứ đọng vốn dẫn đến khả năng tài chính của khách hàng gặp
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
9
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
khó khăn, tất yếu ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Cũng cần chú
ý trong trường hợp khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt gần đỉnh thì sẽ không ai
nghĩ nó sẽ suy thoái. Lúc này nhu cầu vay phục vụ sản xuất tiêu dùng càng tăng,
đồng thời ngân hàng cũng cho vay với điều kiện lỏng hơn, do đó mức độ rủi ro
của ngân hàng sẽ tăng.
Môi trường pháp lý không thuận lợi, lỏng lẻo trong quản lý: Cơ chế chính
sách của Nhà nước không thuận lợi sẽ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường hoạt
động của các doanh nghiệp và môi trường đầu tư vốn của các ngân hàng. Đồng
thời làm phá vỡ kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dẫn tới thua
lỗ. Ngoài ra, sự thay đổi bất thường của chính sách kinh tế của Nhà nước cũng
dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Biến động về kinh tế chính trị của các nước trên thế giới: Trong thời gian
vừa qua, cuộc khủng hoảng tín dụng, nhà đất bắt nguồn từ Mỹ là nguyên nhân
sâu xa dẫn đến những đổ vỡ mang tính dây chuyền trong hệ thống tài chính tiền
tệ không chỉ tại các nền kinh tế đầu tàu mà còn lan rộng sang các nền kinh tế mới
nổi ở khắp các châu lục. Thị trường tài chính thế giới lâm vào khủng hoảng trầm
trọng, rất nhiều ngân hàng lớn đã bị sụp đổ, sáp nhập, giải thể hay bị quốc hữu
hóa như: Northern Rocks, Bradford & Bingley, Bear Stearns, Lehman
Brothers… Như vậy, môi trường kinh tế, chính trị ổn định là tiền đề để doanh
nghiệp phát triển lành mạnh, ổn đinh, trong đó có ngân hàng.
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước.
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, trung tâm thông tin tín
dụng ngân hàng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đã hoạt động hơn một thập niên
và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp
thông tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật,
chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin.
Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng,
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
10
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
nguyên vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách
hàng, khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
1.1.5. Các chỉ số đánh giá rủi ro tín dụng
Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là:
• Tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ NQH=
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của
các ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng
vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc
toàn bộ nợ gốc và/ hoặc lãi đã quá hạn.
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn
trả đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Đây
là một chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh của thể chế, nó tác động
tới tất cả các hoạt động chính của ngân hàng. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, các
NHTM thường chia nợ quá hạn thành các nhóm sau:
+ Nợ quá hạn đến 180 ngày, có khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn từ 180-360 ngày, có khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn từ 360 ngày trở lên (nợ khó đòi)
• Tỷ lệ nợ xấu:
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
11
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của TCTD. Nếu
tỷ lệ này cao thì rủi ro tín dụng cao vì nó phản ánh những khoản tín dụng có dấu
hiệu khó hoàn trả đang gia tăng.
Nợ xấu (hay các tên gọi khác như nợ có vấn đề, nợ khó đòi…) bao gồm
các khoản nợ quá hạn có hoặc không thể thu hồi, nợ có liên quan đến các vụ án
chờ xử lý và những khoản nợ quá hạn không được Chính phủ xử lý rủi ro. Theo
quyết định 18/2007/QĐ- NHNN ngày 25/04/2007, nợ xấu của tổ chức tín dụng
là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5
Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ gia hạn tời hạn trả nợ lần đầu;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả
năng thanh toán lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
- Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3 theo quy định.
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản nợ khác được phân vào nhóm 4 theo quy định.
Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở
lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lần thứ hai;
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
12
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
- Các khoản nợ khác được phân vào nhóm năm theo quy định
Nợ xấu có các đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết này đã đến hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến
có khả năng ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và lãi.
+ Tài sản đảm bảo được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trải nợ
gốc và lãi.
+ Thông thường là những khoản nợ đã được gia hạn nợ, hoặc những
khoản nợ quá hạn trên 90 ngày.
Một tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% được coi là nằm trong giới hạn cho
phép, khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá tỷ lệ 3% thì tổ chức đó cần phải xem xét, rà soát
lại danh mục đầu tư của mình một cách đầy đủ, chi tiết và thận trọng hơn.
• Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất
có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thể thực hiện nghĩa vụ
theo cam kết. Do đó, quỹ dự phòng rủi ro được thành lập nhằm mục đích bù đắp
chi phí của ngân hàng khi xảy ra rủi ro để không làm ảnh hưởng đột biến đến chi
phí của ngân hàng. Để đánh giá việc trích lập dự phòng rủi ro của ngân hàng, ta
sử dụng chỉ tiêu:
Tỷ lệ dự phòng RRTD=
Dự phòng RRTD được trích lập bao gồm cả dự phòng cụ thể và dự phòng
chung. Tỷ lệ dự phòng RRTD cho ta biết cơ cấu NQH thì nhóm nợ xấu, đặc biệt
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
13
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
là nợ nhóm 5 có chiếm tỷ trọng cao không. Tỷ lệ này càng cao hay số tiền trích
lập DPRR càng lớn chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng càng thấp.
• Tỷ lệ mất vốn:
Tỷ lệ mất vốn=
Dư nợ mất vốn đã xóa cho kỳ báo cáo là các khoản nợ đã được xóa ở nội
bảng nhưng vẫn tiếp tục theo dõi ngoại bảng để thu hồi, tuy nhiên, khả năng thu
hồi được rất thấp nên coi như là nợ mất vốn. Tỷ lệ này phản ánh tỷ trọng nợ đã
được xóa ở nội bảng trong kỳ báo cáo so với dư nợ trung bình kỳ báo cáo.
Dư nợ trung bình kỳ báo cáo=
• Hệ số khả năng bù đắp các khoản cho vay bị mất
Hệ số này dùng đánh giá khả năng ngân hàng trích dự phòng để bù đắp nợ
thất thoát như thế nào. Hệ số này bằng 1 chứng tỏ RRTD đủ bù đắp nợ tổn thất.
Hệ số lớn hơn 1 chứng tỏ ngân hàng đã trích thừa dự phòng. Tuy nhiên, hệ số
này không phải lúc nào cũng >=1 mà thường nhỏ hơn 1 vì dư nợ bị thất thoát có
thể ở nhóm 1 đến nhóm 5, trong khi nợ nhóm 1 không được trích lập DPRR
1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHTM
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng
1.2.1.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Theo quan điểm hiện đại, quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và
thực thi các chiến lược, chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm tối đa
hóa lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro có thể chấp nhận. Kiểm soát rủi ro tín
dụng ở mức có thể chấp nhận được là việc NHTM tăng cường các biện pháp
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
14
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh, tín
dụng, nhằm tăng doanh thu tín dụng, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt
được hiệu quả trong kinh doanh tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn.
“Hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp
cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò cốt tử cho sự thành công của
ngân hàng trong dài hạn” ( Basel Committee on Banking Supervision, 2000).
Đứng trên giác độ quản trị học, thì chúng ta có thể diễn giải khái niệm
quản trị rủi ro tín dụng là quá trình các Ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức
triển khai thực hiện và giám sát, kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm
tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Theo nguyên lý chung trong quy trình quản trị rủi ro tín dụng, phải đảm
bảo thực hiện đồng bộ các khâu: Xác định rủi ro ; tìm hiểu; đo lường rủi ro; phân
tích rủi ro; theo dõi; quản lý và báo cáo. Mặc dù có sự phân đoạn trong quy trình
quản lý rủi ro tín dụng song một nguyên tắc có tính xuyên suốt là các khâu được
phân ra trong qui trình phải luôn có sự liên hệ gắn bó với nhau, tạo thành một
chu trình liên tục, có vậy mới đảm bảo kiểm soát được rủi ro theo mục tiêu đã
định. Rủi ro một khi đã xác định thì cần phải được phân tích, đo lường và đưa ra
biện pháp quản lý theo dõi. Cũng trong quá trình quản lý theo dõi, hệ thống quản
trị rủi ro tín dụng phải có khả năng xác định tìm ra các nguy cơ rủi ro mới, và
công việc của quản trị rủi ro lại được lặp lại.
Trên thực tế, có nhiều tài liệu khác phân quá trình quản trị rủi ro thành ít
khâu hơn, bao gồm 4 khâu: xác định; đo lường; quản lý và kiểm soát. Nội dung
cụ thể, các phân đoạn cũng tương tự như nội dung với các phân đoạn trên. Trong
cách phân đoạn thứ 2 đã gộp một số khâu trong cách phân đoạn của cách thứ
nhất vào làm một phân đoạn, ví dụ như khâu tìm hiểu, đo lường và phân tích
được gộp chung vào khâu đo lường. Cho dù là cách phân đoạn nào, thì điều quan
trọng là quá trình quản trị rủi ro tín dụng muốn đạt hiệu quả thì phải đảm bảo
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
15
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
rằng các công đoạn như phát hiện kịp thời, xác định được rủi ro đang tồn tại,
phân tích và định lượng nó để từ đó có công cụ cũng như biện pháp ứng phó.
Quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả không có nghĩa là rủi ro không xảy rả mà là rủi
ro có thể xảy ra nhưng xảy ra trong mức độ dự đoán trước và ngân hàng đã
chuẩn bị đủ nguồn lực để bù đắp các rủi ro có thể xảy ra đó.
1.2.1.2. Sự cần thiết của công tác quản trị rủi ro tín dụng
1.2.1.2.1. Quản trị rủi ro tín dụng đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của
NHTM.
Trong lịch sử hoạt động ngân hàng, thì rủi ro tín dụng là loại rủi ro được
đề cập sớm nhất và cũng là nhiều nhất. Điều này xuất phát từ bản chất của hoạt
động ngân hàng với vai trò của một trung gian tài chính, huy động vốn để cho
vay. Hoạt động tín dụng là chức năng chính của NHTM với việc trao quyền sử
dụng vốn cho người khác sử dụng và nhận được lời cam kết sẽ hoàn trả đủ gốc
và lãi sau một thời gian nhất định. Như vậy, bản thân khi khoản tiền vay xuất ra
khỏi ngân hàng đã tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thu hồi, một khi kinh doanh
của khách hàng vay vốn gặp rủi ro thì ngay lập tức khoản vốn cho vay của
NHTM cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, giống như bảo hiểm, hoạt động kinh doanh
ngân hàng là hoạt động kinh doanh rủi ro. Hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động
chính của ngân hàng, nó chiếm tới trên 1/2 đến 2/3 bảng cân đối và mang lại thu
nhập chính cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, nhưng đi liền bên cạnh là
RRTD cũng mang lại hậu quả thiệt hại thu nhập, thậm chí có thể phá sản một
NHTM, và ở mức cao có thể gây khủng hoảng cả hệ thống tài chính ngân hàng.
Vấn đề là để chấp nhận một mức rủi ro và đạt được lợi nhuận tối đa NHTM cần
phải tổ chức quản trị tốt RRTD. Hay nói cách khác quản trị RRTD chính là chốt
hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng.
Theo nghiên cứu của Corsetti( 1998), cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á
năm 1997 xuất phát từ những nguyên nhân rất cơ bản, trong đó nguyên nhân
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
16
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
quan trọng là tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng tăng cao. Thời điểm trước
cuộc khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng Thái Lan là 13%,
Indonesia 13%, Phillippines 14%, Malaysia 10%.
1.2.1.2.2. Mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng.
Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng ngày càng gia tăng:
Thứ nhất, do quá trình tự do hóa, nới lỏng quy định trong hoạt động ngân
hàng trên phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng toàn
cầu hóa, tự do kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ biến Khi gia tăng
cạnh tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng. Trong lĩnh vực ngân
hàng, cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên càng giảm xuống. Tác động
này làm cho các ngân hàng ngày càng có xu hướng mở rộng quy mô tín dụng
đồng nghĩa với việc RRTD cũng có nguy cơ gia tăng. Bên cạnh đó, quy luật đào
thải của cạnh tranh sẽ làm tăng mức độ phá sản của các khách hàng của ngân
hàng, kéo theo sự thiệt hại về ngân hàng.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng theo xu hướng
đa năng phức tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội
nhập cạnh tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới.
Trong lĩnh vực tín dụng các sản phẩm tín dụng có bước phát triển mạnh mẽ, vượt
xa so với sản phẩm tín dụng truyền thống. Các sản phẩm tín dụng dựa trên cơ sở
của sự phát triển công nghệ như thẻ tín dụng… luôn chứa đựng rủi ro mới.
Nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì việc mở rộng và đa dạng hóa sản phẩm
cũng như phạm vi của hoạt động tín dụng trở nên cấp thiết hơn, mang ý nghĩa
sống còn với các ngân hàng. Với sự đa dạng phức tạp của sản phẩm tín dụng
cũng như RRTD càng đòi hỏi quản trị RRTD phải được chú trọng nâng cấp
tương xứng.
Tính cấp thiết của quản trị RRTD còn do xu hướng kinh doanh của các
ngân hàng ngày nay càng trở nên rủi ro hơn.
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
17
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
Có thể nói, quản trị rủi ro tín dụng tốt là một lợi thế cạnh tranh và là công
cụ tạo ra giá trị ngân hàng.
1.2.2. Nội dung của quản trị rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Tổ chức quản trị rủi ro tín dụng
1.2.2.1.1. Tổ chức quản trị rủi ro tín dụng
Các nguyên tắc trong việc thiết kế mô hình tổ chức quản trị rủi ro tín dụng:
- Các quan điểm và chính sách về rủi ro do ban lãnh đạo cấp cao nhất xác
định rõ ràng, minh bạch, nhất quán.
- Có sự giám sát từ trung tâm đối với công tác quản lý rủi ro trong toàn
ngân hàng
- Có sự phân định rõ ràng về nghĩa vụ và trách nhiệm
- Các đơn vị kinh doanh chính thức tham gia và coi công tác quản lý rủi ro
như một công việc của mình.
Về cơ cấu, tham gia vào quản trị rủi ro tín dụng có:
- Nhóm lãnh đạo: Hội đồng quản trị, ủy ban quản lý rủi ro, ban tổng giám đốc
- Cấp quản lý bộ phận kinh doanh chính: Các giám đốc chi nhánh, Bộ
phận quản lý rủi ro tại chi nhánh, phòng tín dụng
- Bộ phận quan hệ khách hàng: Các cán bộ kinh doanh
1.2.2.1.2. Xây dựng chíến lược quản trị RRTD
Chiến lược quản trị RRTD của ngân hàng là hệ thống các quan điểm, các
mục đích và mục tiêu cơ bản cùng các giải pháp, chính sách nhằm sử dụng một
cách tốt nhất các nguồn lực, lợi thế của NHTM nhằm đạt được các mục đích,
mục tiêu đặt ra trong việc kiểm soát RRTD của ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều biến động phức tạp, một
chiến lược quản trị rõ ràng, chính xác trong dự báo đảm bảo cho bản thân các
ngân hàng có thể linh hoạt trong phòng ngừa và xử lý rủi ro có thể xảy ra. Nó
góp phần định hướng cho các hoạt động tín dụng trong tương lai nhằm đảm bảo
mục tiêu an toàn và lợi nhuận cao. Chiến lược này có thời hạn trong thời gian
dài, nó quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng, là điều kiện tiên quyết trong
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
18
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
hoạt động quản trị RRTD.
Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng hợp lý phải xây dựng trên các căn cứ:
Thứ nhất, nguồn vốn của ngân hàng, bao gồm vốn huy động và vốn chủ
sở hữu. Dựa vào quy mô nguồn vốn, ngân hàng có thể lựa chọn kỳ hạn đầu tư,
loại hình cho vay hợp lý
Thứ hai, các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, điều này ảnh hưởng
đến nhu cầu tín dụng của thị trường. Do đó, ngân hàng cần có sự phù hợp thống
nhất với các điều chỉnh vĩ mô của Chính phủ
Thứ ba, các quy định của cơ quan quản lý, với các chính sách, văn bản
pháp quy đã được ban hành, các ngân hàng phát triển theo hướng chủ động kinh
doanh và hoàn toàn tự chịu trách nhiệm trước những hoạt động của mình
Thứ tư, thị trường mục tiêu của ngân hàng, nguồn lực vật chất và trình độ
của đội ngũ cán bộ công nhân viên chức là nhân tố tác động đến khả năng hoạt
động của ngân hàng trên những khu vực thị trường nhất định
Thứ năm, căn cứ vào những phân tích, dự báo rủi ro trong hoạt động kinh
doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, đây chính là những phân tích
mang tính chất kỹ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội, điển hình là những phân tích
dự báo về tình hình tài chính tiền tệ như lãi suất, lạm phát, ngoại tệ…
Thứ sáu, căn cứ vào hệ thống các nguyên tắc quản trị RRTD cụ thể: Chiến
lược quản trị rủi ro phải phù hợp với chiến lược phát triển và chính sách tín dụng
của ngân hàng, trên cơ sở tuân thủ các quy tắc tín dụng đề ra.
Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro tín dụng trên cơ sở ngân hàng phải
thực hiện nguyên tắc “ hai tay, bốn mắt” trong hoạt động quản trị RRTD, thực
hiện phân cấp phân quyền hợp lý, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích và
trách nhiệm trên cơ sở thực hiện toàn bộ danh mục cho vay cũng như đối với
từng khoản vay riêng lẻ. Xây dựng chiến lược quản trị RRTD phải đặt trong mối
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
19
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
quan hệ với các rủi ro khác, phải thực hiện đồng thời các công việc như xác định,
định lượng , giám sát và quản trị RRTD cũng như thực hiện dự phòng rủi ro để
bù đắp tổn thất khi RRTD xảy ra
Khi xây dựng chiến lược quản trị RRTD cần phải thực hiện cân bằng giữa
chi phí và lợi nhuận thu về. Chi phí quản trị rủi ro phải thấp hơn thu nhập mang
lại từ việc thực hiện nó.
1.2.2.2. Nhận biết rủi ro tín dụng
Dấu hiệu từ phía khách hàng:
- Khách hàng gặp khó khăn trong kinh doanh dẫn đến khó khăn về tài
chính, suy giảm khả năng thanh toán, công nợ tăng, bắt đầu xuất hiện tình trạng
chậm trả lãi, gốc và có nhu cầu gia hạn nợ… Đó chính là những biểu hiện đầu
tiên của khoản nợ có vấn đề, cần được kiểm soát chặt chẽ.
- Có ý định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ỳ… thể hiện qua việc cung
cấp thông tin sai sự thật, mua chuộc cán bộ ngân hàng… là dấu hiệu cho thấy
khoản vay có khả năng mất vốn. Những người vay này thường sẵn sàng mạo
hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn
sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng hoặc khách hàng vay vốn kinh
doanh có lãi nhưng vẫn không trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có thể
được xóa nợ, sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Dấu hiệu từ môi trường kinh tế, xã hội
Sự thay đổi môi trường kinh tế, xã hội hoặc những nhân tố bất khả kháng tác
động đến khách hàng được cấp tín dụng làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả
năng thanh toán cho ngân hàng, như: thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi
về chính sách vĩ mô( chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan…) nằm ngoài tầm
kiểm soát của khách hàng và ngân hàng.
Khi những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục đến khách
hàng cũng như ngân hàng, cũng có khi tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho khách
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
20
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
hàng. Nhiều khách hàng có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những
khó khăn. Có những trường hợp khách hàng bị tổn thất song vẫn có khả năng trả
nợ cho Ngân hàng đúng hạn gốc và lãi. Tuy nhiên, hầu hết các khách hàng bị tổn
thất bởi những nguyên nhân bất khả kháng thì đều làm khả năng trả nợ suy giảm
thậm chí không có khả năng trả nợ.
Sự hạn chế trong năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
Ngoài những dấu hiệu rủi ro có thể phát hiện từ phía khách hàng, môi
trường kinh tế, xã hội, ủy ban Basel đã thống kê dấu hiệu rủi ro tín dụng xuất
phát từ phía ngân hàng chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng là mức độ tập trung rủi ro
và quy trình cấp tín dụng không lành mạnh.
Mức độ tập trung có thể coi là nguyên nhân quan trọng nhất trong vấn đề
rủi ro tín dụng. Rủi ro tập trung tín dụng tồn tại khi mức độ rủi ro tín dụng của
một nội dung trong danh mục trở nên tương đối lớn so với mức vốn hoặc tài sản
của Ngân hàng. Rủi ro tập trung tín dụng không chỉ phụ thuộc vào giá trị tín
dụng đã cam kết, mà còn phụ thuộc vào tỷ lệ mất vốn cao khi xảy ra rủi ro.
Rủi ro tập trung tín dụng gồm hai nhóm chính: Rủi ro tập trung tín dụng
thông thường và rủi ro tập trung tín dụng dựa trên các yếu tố rủi ro chung hay
tương quan. Rủi ro tập trung tín dụng thông thường xảy ra khi tín dụng được tập
trung quá nhiều vào một khách hàng, nhóm khách hàng.
1.2.2.3. Đo lường rủi ro tín dụng
Ở Việt Nam, hầu hết các Ngân hàng đang tuân thủ quy định của NHNN
về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Theo đó, dựa vào các yếu tố đánh
giá định tính( đánh giá khả năng suy giảm tình hình sản xuất kinh doanh, tài
chính của khách hàng…) và các yếu tố định lượng( số ngày quá hạn, số lần gia
hạn nợ…) để tiến hành phân loại nợ theo chất lượng giảm dần và làm cơ sở để
trích lập dự phòng cụ thể cho các nhóm nợ.
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
21
Khoá luận tốt nghiệp
Học viện ngân hàng
1.2.2.3.1. Đo lường rủi ro từng khoản vay.
• Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model):
Đây là mô hình do E.I. Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các
doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi
ro tín dụng đối với người đi vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ
của người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1=
X2=
X3=
X4=
X5=
Trị số Z càng cao, thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược
lại, khi trị số Z thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ xếp khách hàng vào
nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1,8: Khách hàng có khả năng rủi ro cao.
Nguyễn Thị Thu
Lớp: NHB - K10
22