BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TRỊNH VĂN THỤC
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC CÁ BẰNG LƯỚI
VÂY TẠI HUYỆN TĨNH GIA TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Khánh Hòa – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TRỊNH VĂN THỤC
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC CÁ BẰNG LƯỚI
VÂY TẠI HUYỆN TĨNH GIA TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành đào tạo: Khai thác thủy sản
Mã số: 60620304
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HOÀNG HOA HỒNG
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG KHOA SAU ĐẠI HỌC
TS. PHAN TRỌNG HUYẾN
Khánh Hòa - 2014
![]()
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn được hoàn thành là kết quả của quá trình nghiên cứu
tài liệu, thực hiện các chuyến điều tra khảo sát thực tế ở huyện Tĩnh Gia tỉnh thanh hóa
và kết hợp với nguồn số liệu của đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu cơ sở khoa học
phục vụ cho việc điều chỉnh cơ cấu đội tàu và nghề nghiệp khai thác hải sản”. Số liệu
trong luận văn là hoàn toàn trung thực, được xử lý theo phương pháp khoa học và đảm
bảo độ tin cậy.
Số liệu trong luận văn được Lãnh đạo chi cục BVNLTS sở NN&PTNT cho
phép sử dụng. Kết quả nghiên cứu của luận văn là mới, không trùng lặp với bất cứ
luận án bảo vệ học vị nào đã có trước đây.
Thanh hóa, ngày 10 tháng 10 năm 2014
Tác giả
Trịnh Văn Thục
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cảm ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Hoa Hồng là người trực tiếp hướng dẫn
và tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo trường CĐ nghề NN&PTNT Thanh hóa đã
tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới: Ban Giám hiệu Trường Đại học Nha Trang, Viện
Khoa học và Công nghệ Khai thác thủy sản, Quý thầy trong viện đã truyền đạt kiến
thức và kinh nghiệm giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 10 năm 2014
Tác giả
Trịnh Văn Thục
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC HÌNH vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 4
1.1.1. Đặc điểm công nghệ khai thác cá ngừ bằng lưới vây trên thế giới 4
1.1.2. Kỹ thuật khai thác cá bằng lưới vây 5
1.1.3. Sử dụng chà trong khai thác cá ở nghề lưới vây 7
1.1.4. Một số kết quả nghiên cứu trên thế giới 8
1.2.1. Tàu thuyền nghề lưới vây ở Việt Nam 11
1.2.2. Thiết bị khai thác của nghề lưới vây 11
1.2.3. Lưới vây ở Việt Nam 12
1.2.4. Phương pháp khai thác bằng lưới vây 12
1.2.5. Một số kết nghiên cứu về nghề lưới vây ở trong nước 13
1.2.6. Một số kết quả nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả khai
thác của nghề khai thác hải sản 17
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Nội dung nghiên cứu 26
2.2. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 26
2.3. Phương pháp nghiên cứu 27
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 27
2.3.2. Phương pháp xử lý số liệu 27
2.3.2.1. Năng suất khai thác trung bình 27
2.3.2.2. Tính hiệu quả kinh tế 27
2.3.2.3. Phương pháp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và thu nhập . 28
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30
3.1. Hiện trạng khai thác của nghề lưới vây ở huyện Tĩnh Gia 30
3.1.1. Hiện trạng cơ cấu nghề nghiệp 30
iv
3.1.2. Hiện trạng tàu thuyền và ngư cụ 31
3.1.2.1. Tàu thuyền 31
3.1.2.2. Máy tàu và trang thiết bị khai thác 32
3.1.2.3. Ngư cụ 34
3.1.3. Cách bố trí boong thao tác tàu lưới vây ở huyện Tĩnh Gia 36
3.1.4. Kỹ thuật khai thác 36
3.1.5. Ngư trường, mùa vụ và đối tượng khai thác 38
3.1.6. Hiện trạng tổ chức khai thác, thu gom, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. 39
3.1.6.1. Mô hình tổ chức khai thác. 39
3.1.6.2. Hình thức bảo quản và tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch. 39
3.2. Đánh giá hiệu quả kinh tế của đội tàu nghề lưới vây huyện Tĩnh Gia 40
3.2.1. Năng suất khai thác và năng suất lao động của đội tàu 40
3.2.1.1. Năng suất khai thác 40
3.2.1.2. Năng suất lao động của đội tàu nghề lưới vây huyện Tĩnh Gia 42
3.2.2. Lợi nhuận trung bình của đội tàu 43
3.2.3. Doanh lợi của đội tàu 45
3.3. Phân tích đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả khai
thác cá bằng lưới vây ở huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh hóa 47
3.3.1. Phân tích đánh giá hiện trạng. 47
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác cá bằng lưới vây ở huyện Tĩnh Gia
tỉnh Thanh hóa 48
3.3.2.1. Giải pháp về tàu thuyền. 48
3.3.2.2. Giải pháp trang thiết bị máy điện hàng hải. 49
3.3.2.3. Giải pháp ngư cụ. 50
3.3.2.4. Giải pháp bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. 51
3.3.2.5. Giải pháp ban hành thể chế, chính sách 51
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 55
Phụ lục 1: Bản vẽ lưới vây 57
Phụ lục 2: Mẫu phiếu điều tra 59
v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết tắt Nội dung viết tắt
1 CV Công suất
2 I Thu nhập của tàu trong năm
3 R Doanh thu
4 L Chiều dài vỏ tàu
5 N Chiều dài giềng phao lưới vây
6 E Công suất máy chính
7 D Tổng số ngày hoạt động của tàu trong năm
8 C Số lao động trên tàu
9 Mean Giá trị trung bình
10 Min Giá trị nhỏ nhất
11 Max Giá trị lớn nhất
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Phân nhóm đội tàu khảo sát 26
Bảng 3.1: Cơ cấu tàu thuyền nghề lưới vây phân theo nhóm công 30
Bảng 3.2: Cơ cấu tàu thuyền nghề lưới vây phân theo nhóm công suất 31
Bảng 3.3: Trang thiết bị hàng hải của các tàu lưới vây ở huyện Tĩnh Gia 34
Bảng 3.4: Thông số kỹ thuật trung bình của vàng lưới vây ở huyện Tĩnh Gia 35
Bảng 3.5: Năng suất khai thác phân theo nhóm công suất 41
Bảng 3.6: Năng suất lao động của đội tàu 42
Bảng 3.7: Doanh thu, chi phí, thu nhập và lợi nhuận của đội tàu 43
Bảng 3.8: Doanh lợi của đội tàu 45
vii
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Tàu lưới vây khai thác cá ngừ qui mô công nghiệp 5
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 26
Hình 3.1: Tàu thuyền lưới vây ở huyện Tĩnh Gia 31
Hình 3.2. Kích thước vỏ tàu và trọng tải phân theo nhóm công suất 32
Hình 3.3: Máy thu lưới trên tàu lưới vây ở Tĩnh Gia 33
Hình 3.5: Cấu tạo tời lưới và tời thu dây 36
Hình 3.6: Sơ đồ qui trình khai thác lưới vây ở huyện Tĩnh Gia 37
Hình 3.7: Một số đối tượng chính của nghề lưới vây ở Tĩnh Gia 38
Hình 3.8: Năng suất khai thác trung bình 41
Hình 3.9: Năng suất lao động của đội tàu 42
Hình 3.10: Doanh thu, chi phí, thu nhập và lợi nhuận của đội tàu 44
Hình 3.11: Doanh lợi của đội tàu 46
1
MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, ngành thuỷ sản đã trở thành một trong những ngành
kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam. Tổng sản lượng thuỷ sản liên tục tăng
trong những năm vừa qua, năm 2013 đạt trên 6,05 triệu tấn (tăng 2,1% so với năm
2012), trong đó tổng sản lượng khai thác đạt trên 2,71 triệu tấn (tăng 2,2% so với năm
2012). Tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản cũng tăng lên nhanh chóng, năm
2011 đạt trên 6,1 tỷ đô la, năm 2012 đạt gần 6,13 tỷ đô la và năm 2013 tổng giá trị kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước đạt 7 tỷ đô la.[8]
Bên cạnh những kết quả nổi bật nói trên, ngành thuỷ sản Việt Nam cũng đang
phải đối mặt với những thách thức lớn trong quá trình phát triển, đó là sự suy giảm
nhanh chóng nguồn lợi hải sản ven bờ cùng với sự gia tăng liên tục số lượng tàu
thuyền, áp lực khai thác và cơ chế quản lý nghề cá còn nhiều bất cập, năng lực quản lý
hạn chế. Do vậy, để đảm bảo sự phát triển, việc quản lý nghề cá theo hướng bền vững
đang là vấn đề bức thiết hiện nay. Các chính sách quản lý nghề cá phải dựa trên cơ sở
khoa học về nguồn lợi tự nhiên, các điều kiện kinh tế - xã hội của cộng đồng ngư dân
ven biển, mối tương tác giữa các hoạt động nghề cá và các hệ sinh thái có liên quan.
Việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo từng nghề khai thác phải dựa trên những hiểu
biết về hoạt động kinh tế của từng đội tàu cũng như sự tương quan giữa cường lực khai
thác và hiệu quả của chúng.
Lưới vây là một ngư cụ đánh bắt chủ động dùng để khai thác các đàn cá tập
trung. Đối tượng đánh bắt chủ yếu là các loài cá nổi như cá ngừ, cá thu, cá trích, cá
cơm, cá nục, bạc má, Đây là các đối tượng có giá trị kinh tế khá cao, vì vậy mà nghề
lưới vây là một trong những nghề khai thác xa bờ có hiệu quả kinh tế cao ở Việt Nam
[7] Tuy nhiên, đây là nghề đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu và rủi ro cao bởi một số yếu tố
như ngư trường khai thác rộng, xa bờ, điều kiện thời tiết khắc nghiệt, năng suất khai
thác không ổn định, đã làm tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm khai thác
giảm nên nhiều tàu khai thác không đạt hiệu kinh tế.
Thanh hóa là một trong những tỉnh có đội tàu nghề lưới vây khá hạn chế, tính
đến cuối năm 2013 toàn tỉnh có 130 chiếc.
Lưới vây sâu rút chì kích thước mắt lưới nhỏ (91 tàu cá): công suất bình quân
165
CV
/tàu; khai thác chủ yếu ở ngư trường phía Đông Nam đảo Bạch Long Vĩ và vùng
đánh cá chung Việt Nam - Trung Quốc, đối tượng khai thác chính là cá Nục, ngừ ù, ,
2
năng suất bình quân 340 kg/cv/năm; thu nhập bình quân 4,5 - 5,0 triệu đồng/tháng/lao
động, Nghề chủ yếu ở thị xã Sầm Sơn và huyện Tĩnh Gia. Hiện nay nghề này đang có
chiều hướng giảm dần do ngư trường khai thác bị tàn phá, chưa tìm được ngư trường mới
Lưới vây sâu rút chì kích thước mắt lưới lớn (39 tàu cá): công suất bình quân
180
CV
/tàu; khai thác chủ yếu ở ngư trường phía Đông Nam đảo Bạch Long Vĩ, Nam
Vịnh Bắc Bộ và vùng đánh cá chung Việt Nam - Trung Quốc, đối tượng khai thác chính
là cá Nục, Bạc má, Ngừ, Thu, , năng suất bình quân 330 kg/cv/năm; thu nhập bình
quân 3,5 - 4,0 triệu đồng/tháng/lao động, chủ yếu ở thị xã Sầm Sơn và huyện Tĩnh Gia.
Hiện nay đội tàu lưới vây ở Thanh hóa đã và đang bắt đầu hình thành các tổ (đội)
sản xuất trên biển nhằm tăng hiệu quả khai thác và an toàn hơn khi hoạt động trên
biển. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây hiệu quả khai thác của các tàu khai thác xa bờ
ngày càng giảm sút do nhiều nguyên nhân như: nguồn lợi suy giảm; giá nguyên nhiên
liệu (dầu, nhớt) tăng cao; cạnh tranh ngư trường giữa các tàu, các nghề, Vì vậy, cần
có nghiên cứu đánh giá về hiệu quả khai thác của đội tàu lưới vây ở Thanh hóa và đưa
ra các giải pháp nhằm giúp cho ngư dân, các nhà quản lý địa phương có được định
hướng phát triển nghề trong tương lai.
Xuất phát từ các vấn đề trên cần thiết phải thực hiện đề tài “Giải pháp nâng
cao hiệu quả khai thác cá bằng nghề lưới vây ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh hóa”.
Kết quả của đề tài sẽ đưa ra được các giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác cá bằng
nghề lưới vây và xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và thu nhập của
đội tàu lưới vây ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh hóa phân theo nhóm công suất.
Mục tiêu của đề tài
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và bảo vệ nguồn lợi
khai thác lâu dài cho nghề lưới vây tại huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh hóa.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu cho phép xác định các chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả khai thác của nghề lưới vây ở huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh hóa; đánh giá có cơ
sở khoa học sự ảnh hưởng của một số yếu tố kỹ thuật, tổ chức sản xuất đến doanh thu,
thu nhập của đội tàu lưới vây.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài là thông tin hữu ích phục vụ
công tác quản lý, qui hoạch, điều chỉnh cơ cấu, phát triển nghề cá theo hướng ổn định
trong giai đoạn hiện nay.
3
Nội dung của luận văn bao gồm:
Nội dung 1: Điều tra, đánh giá hiện trạng khai thác của nghề lưới vây ở huyện Tĩnh
Gia tỉnh Thanh hóa
Nội dung 2: Đánh giá hiệu quả khai thác của nghề lưới vây ở huyện Tĩnh Gia tỉnh
Thanh hóa
Nội dung 3: Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác và bảo vệ nguồn lợi
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Hiện nay, nghề lưới vây trên thế giới đã phát triển đến trình độ cao. Tàu thuyền,
ngư cụ, máy khai thác, máy dò tìm cá, đều được trang bị rất hiện đại. Các tàu lưới
vây cá ngừ hoạt động ở những vùng biển xa bờ thuộc Thái Bình Dương, Ấn Độ
Dương và Đại Tây Dương.
1.1.1. Đặc điểm công nghệ khai thác cá ngừ bằng lưới vây trên thế giới
- Tàu thuyền: Các tàu lưới vây của nghề cá công nghiệp thường có chiều dài vỏ
tàu từ 25 - 60m. Những đội tàu qui mô lớn, chiều dài vỏ tàu thường từ 50 - 120m, công
suất máy tàu từ 1.000 - 2.500cv. Boong thao tác và lưới thường bố trí ở phía đuôi tàu.
Nhờ vậy tốc độ vây lưới cao và tàu quay trở rất dễ dàng. Các thao tác thả và thu lưới
đều được cơ giới hoá nên có thể thao tác được với những vàng lưới kích thước lớn
(Hình 1.1).
- Vàng lưới vây: Cá ngừ có tốc độ bơi rất cao, nên đòi hỏi kích thước lưới vây
khai thác cá ngừ phải đủ lớn. Thường các vàng lưới vây khai thác cá ngừ có chiều dài
1000 - 1500 m và chiều cao 100 - 140 m. Đối với những vàng lưới vây khai thác cá
Ngừ vây vàng, chiều cao lưới có thể đạt đến 200 - 280m và đòi hỏi kỹ thuật đánh bắt
phức tạp hơn, phải tăng công suất máy tời để có thể cuộn rút giềng chì dưới 15 phút.
Một số nước có nghề lưới vây công nghiệp phát triển như: Tây Ban Nha, Nga,
Pháp, Nhật Bản Đội tàu lưới vây chuyên khai thác cá ngừ có thể hoạt động dài ngày
(50 - 60 ngày) trên biển. Kích thước lưới lớn, trang bị phụ tùng hiện đại. Phương pháp
khai thác chủ yếu là dò tìm đàn cá di chuyển tự do để đánh bắt.
Bên cạnh các nước có nghề lưới vây công nghiệp phát triển nêu trên, còn có một
số nước trong khu vực Đông Nam Á có nghề lưới vây cá ngừ phát triển khá mạnh
nhưng ở quy mô nhỏ hơn như: Philipin, Indonesia, Thái Lan Kích thước tàu không
lớn, chiều dài tàu thường nhỏ hơn 35 m, thời gian chuyến biển từ 20 - 30 ngày, đối
tượng khai thác chủ yếu là các loài cá ngừ cỡ nhỏ như: ngừ vằn, ngừ chấm, ngừ chù,
ngừ bò Những nước này, phương pháp dùng chà tập trung đàn cá được áp dụng rất
phổ biến.
5
Hình 1.1. Tàu lưới vây khai thác cá ngừ qui mô công nghiệp
- Các trang bị phục vụ khai thác:
Thiết bị tập trung cá (chà): Nghề lưới vây khai thác cá ngừ ở các nước khu vực
Đông Nam Á thường sử dụng chà cố định hoặc chà di động để tập trung cá. Vị trí thả
chà cố định có độ sâu từ 1.000 - 1.800 m.
+ Thiết bị dò tìm cá: Hiện nay hầu hết các tàu lưới vây công nghiệp đều được
trang bị máy dò cá ngang sonar: Để tăng hiệu quả trong việc dò tìm đàn cá, tàu lưới
vây còn được trang bị các ra đa tìm chim. Các ra đa này có thể phát hiện được các đàn
chim biển ở khoảng cách rất xa, tới 50 - 60 hải lý. Vì có mối quan hệ móc xích về mồi
ăn giữa chim biển - đàn cá nổi nhỏ - đàn cá ngừ, nên căn cứ vào chim biển có thể phát
hiện được các đàn cá ngừ.
+ Các máy đo dòng chảy, máy đo tốc độ rơi chìm của giềng chì và các máy móc
thiết bị hiện đại khác cũng được ứng dụng vào nghề lưới vây.
Ngoài ra, trong đội hình từ 10 - 20 tàu lưới vây cá ngừ, người ta thường trang bị
1 - 2 máy bay trực thăng để giúp phát hiện các đàn cá ngừ và chỉ điểm cho các tàu đến
khai thác.
1.1.2. Kỹ thuật khai thác cá bằng lưới vây
+ Đối với các tàu lưới vây qui mô lớn:
Các tàu này được trang bị các máy hiện đại để dò tìm đàn cá như: Rada, máy dò
cá ngang, máy bay dò tìm cá và cả hệ thống thông tin viễn thám. Ngoài ra, tàu được
trang bị công suất máy tàu mạnh, đảm bảo tốc độ chạy tự do tới 15 hải lý/giờ; tốc độ
thu dây giềng rút cao, hoàn thành thu dây giềng rút dưới 15 phút; kích thước lưới vây
6
đủ lớn để có thể vây bắt đàn cá ngừ có tốc độ bơi rất cao và có thể khai thác được cá
ngừ vào ban ngày là lúc cá có thể nhìn rõ lưới và trốn chạy rất nhanh.
Nhờ có sự hỗ trợ của hệ thống tìm cá hiện đại, tàu đã giảm được rất nhiều chi
phí xăng, dầu nếu phải tự hành trình đi tìm cá. Khi phát hiện đàn cá, tàu phụ sẽ tiếp
cận đàn cá và vứt mồi để dụ đàn cá tập trung và không di chuyển, tạo điều kiện tốt cho
tàu lưới bao vây đàn cá.
Thông qua việc thả lưới ở đuôi tàu, tốc độ bao vây đàn cá rất cao. Ngoài ra, do
lưới có chiều dài lớn nên tăng được bán kính bao vây đàn cá, không làm ảnh hưởng
đến đàn cá đang say mê ăn mồi. Sau khi bao vây xong, tàu cần nhanh chóng thu dây
giềng rút trong khoảng thời gian không quá 15 phút. Việc thu lưới được tiến hành nhờ
hệ thống tời treo hiện đại, trong thời gian này tàu thả mồi kết thúc công việc và tìm
cách ra khỏi vòng vây của lưới.
+ Đối với các tàu lưới vây qui mô nhỏ:
Các tàu lưới vây này thường có công suất máy từ 300 - 500 cv, chiều dài vỏ tàu
từ 20 - 27m. Trang bị kỹ thuật dò tìm cá của tàu còn thô sơ (phần lớn chỉ có máy dò cá
đứng); tốc độ vây lưới chậm; tốc độ cuộn rút chậm; kích thước lưới ngắn, chiều cao
lưới thấp. Với các hạn chế trên, các tàu lưới vây qui mô nhỏ thường tiến hành khai
thác cá ngừ vào ban đêm (để hạn chế sự trốn chạy của cá) bằng một trong hai hình
thức sau:
- Bao vây các vật trôi nổi trên biển:
Dựa vào tập tính của cá ngừ thích tập trung dưới các vật trôi nổi trên biển, sau
khi phát hiện có cá tập trung dưới các vật trôi nổi này, tàu sẽ tiếp cận và bám theo đàn
cá cho đến khi tắt ánh sáng mặt trời mới tiến hành bao vây khai thác cá.
Có thể xảy ra 2 trường hợp: Trường hợp thứ nhất là đàn cá tập trung ngay sát
mặt nước. Lúc này tàu sẽ nhanh chóng bao vây lưới, tiến hành cuộn rút lưới và bắt cá.
Trường hợp thứ hai là đàn cá tập trung khá sâu (trên 50m), lúc này tàu phải kiên trì
bám theo và chờ đợi. Dựa vào tập tính của cá ngừ thường nổi lên sát mặt nước trong
khoảng 3 - 4 giờ sáng, tàu phải liên tục theo dõi cá trong khoảng thời gian này bằng
máy dò và mắt thường. Nếu thấy đàn cá nổi lên tới độ sâu phù hợp thì nhanh chóng thả
lưới bao vây đàn cá và tiến hành các thao tác bắt cá cần thiết.
- Sử dụng chà và đèn để tập trung cá:
7
Người ta sử dụng chà và đèn để tập trung các loài cá nổi nhỏ do tập tính thích
dựa chà và thích ánh sáng của các loài cá này. Các đàn cá ngừ thường bám theo các
đàn cá nổi nhỏ để ăn mồi và tạo cơ hội tốt cho việc bao vây khai thác đàn cá.
Đối với hình thức sử dụng đèn để tập trung cá: Sau thời gian thắp đèn dụ cá,
người ta quan sát tín hiệu đàn cá thông qua máy dò cá, nếu thấy đàn cá tập trung gần
mặt nước quanh đèn thì nhanh chóng tiến hành bao vây lưới để khai thác cá.
1.1.3. Sử dụng chà trong khai thác cá ở nghề lưới vây
a) Các loại chà được sử dụng trong khai thác cá ngừ
Người ta thấy rằng cá ngừ có tập tính tập trung quanh chà hoặc núp dưới các
vật trôi nổi trên mặt biển. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả khai thác, người ta đã chế tạo
ra nhiều kiểu chà để tập trung cá. Dưới đây là một số kiểu cơ bản.
+ Chà thân cây (log association)
Cá ngừ thường tập trung dưới các thân cây hoặc các vật thể trôi nổi trên mặt
biển (mảnh tàu vỡ; phao; container ). Qua quan sát, người ta thấy rằng các vật thể trôi
nổi ít nhất phải có kích thước dài trên 1,0 - 1,5m và đường kính trên 0,1m mới có khả
năng lôi cuốn được cá ngừ. Thường thì chà có kích thước càng lớn, càng nhiều khả
năng tập trung cá ngừ hơn là các chà nhỏ.
Khoảng cách giữa các chà cũng ảnh hưởng đến khả năng tập trung cá. Nếu mật
độ các chà cao (nhiều chà gần nhau) sẽ phân tán khả năng tập trung cá của mỗi chà.
Qua thực tế đánh bắt, người ta thấy rằng để có thể tập trung trên 100 tấn cá ngừ, thì
các chà cỡ lớn phải cách nhau khoảng 50 hải lý. Thông thường người ta bố trí các chà
cách nhau khoảng 3 hải lý là vừa.
+ Chà bè (FAD): Lợi dụng đặc tính tập trung của cá dưới các vật thể trôi nổi ngoài
biển, ngư dân nhiều nước đã sáng tạo ra nhiều kiểu chà khác nhau. Nói chung có 2 kiểu
chà bè như sau:
+ Chà bè cố định: Chà gồm 3 bộ phận chính: Phần neo; phần dây chà và phần
bè nổi.
- Phần bè nổi: Được làm từ tre, gỗ, ống nhựa, lưới, sắt. Người ta liên kết các vật
liệu này lại và bố trí sao cho tạo thành bè nổi. Bè nổi này có thể nổi ngay trên mặt
nước. Hình dạng của bè có thể rất khác nhau tùy theo tập quán của ngư dân mỗi vùng.
Ngoài ra, còn có nhiều dây nhỏ có chiều dài 30 - 50 m, trên dây buộc nhiều lá dừa,
lưới cũ để tạo vị trí tốt cho cá ẩn nấp.
8
- Phần dây chà: Dây chà phải có đường kính đủ lớn, liên kết giữa phần bè nổi
và phần neo của chà. Chiều dài của dây thường bằng 1,1 - 1,2 lần độ sâu của nơi đặt
chà. Đường kính dây phải được tính toán cẩn thận, sao cho có thể chịu đựng được sức
cản của phần bè nổi trong điều kiện sóng gió biển khơi.
- Phần neo: Có nhiệm vụ cố định chà ở một vị trí nhất định. Neo được làm từ đá,
bêtông, neo sắt. Tùy theo tình hình dòng chảy và độ sâu nơi đặt chà, neo có thể nặng từ 0,5 -
1,5 tấn.
Những chà cố định này nếu thả cách nhau 5 - 10 hải lý sẽ cho hiệu quả thu hút
cá tốt hơn thả chà quá gần nhau và dày đặc.
+ Chà bè di động
Chà được sử dụng ở vùng biển có độ sâu lớn tới hàng nghìn mét, những nơi này
không thể thả chà cố định.
Cấu tạo chà chỉ có phần bè nổi (giống như của chà cố định). Ngoài ra, chà còn
được gắn thêm phao vô tuyến để tàu có thể xác định được vị trí của chà và tìm thấy
chà sau thời gian trôi trên biển .
Chà di động được sử dụng rộng rãi trong nghề lưới vây công nghiệp khi khai
thác ở các ngư trường xa có độ sâu rất lớn. Ở nước ta loại chà này chưa được áp dụng.
+ Chà động vật
Cá ngừ thường tập trung quanh những con cá voi cỡ lớn (còn sống hoặc đã
chết) để ăn những con mồi nhỏ bám quanh cá voi. Tuy nhiên, dạng chà này ở nước ta
rất hiếm gặp.
1.1.4. Một số kết quả nghiên cứu trên thế giới
Nhật Bản là nước sớm sử dụng rộng rãi phương pháp đánh cá kết hợp ánh sáng
điện từ những năm 1900. Nhật Bản có khoảng 20.000 chiếc tàu đánh cá kết hợp ánh
sáng, đặc biệt là ở vùng Nagasaki, người ta đã dùng ánh sáng điện chiếu trên và dưới
mặt nước để đánh bắt cá thu, cá trích, cá sòng, mực, Các nghề đánh cá kết hợp ánh
sáng ở Nhật Bản chiếm khoảng 25% tổng sản lượng khai thác hàng năm (1976). Riêng
nghề lưới vây kết hợp ánh sáng ở Nhật Bản chiếm ưu thế từ thập niên 1930. Trên một
đơn vị thuyền đánh cá bằng lưới vây hai tàu của Nhật Bản có 3 xuồng đèn, mỗi xuồng
có công suất từ 40 - 50cv. Còn một trong hai tàu chính có công suất 500 - 850cv, trọng
tải từ 90 - 110 tấn, có trang bị máy dò cá. Ngày nay, ở Nhật Bản công suất nguồn sáng
cực đại trên một xuồng đèn là 10 kW và xuồng thăm dò cá là 7,5 kW. Mỗi xuồng đèn
9
dùng 4 - 5 bóng 1 kW chiếu sáng trên mặt nước và 2 bóng 2 kW chiếu sáng trong nước
và độ rọi sáng có thể đạt đến 100m.
Theo Chikara Shimane, Kensou Tanka và ctv (2005), từ năm 1995 - 2001, ngư
dân ở vùng biển phía Tây Nhật Bản đã sử dụng tàu lưới vây có trọng tải 135 tấn kết
hợp với hai tàu dò tìm cá và tàu thắp sáng có trọng tải 60 tấn để đánh bắt cá thu
(Scomber aponicus) và cá ngừ vây xanh (Thunnus thynnus). Hình thức đánh bắt cá
bằng lưới vây kết hợp ánh sáng chiếm 72,3% và vây tự do (dò tìm đàn cá để đánh bắt)
chiếm 27,7%. Sản lượng khai thác trung bình của tàu lưới vây kết hợp ánh sáng là 28
tấn/mẻ và lưới vây tự do là 15 tấn/mẻ.
Nghề lưới vây kết hợp ánh sáng của Nam Tư (cũ) đã sử dụng 3 xuồng đèn, mỗi
xuồng bố trí 6 - 9 bóng đèn 500 W/bóng với tổng công suất từ 9,0 - 13,5 kW để đánh
bắt cá trích.
Các nước Italia, Pháp, Nauy,… đã có nhiều thành công trong đánh cá kết hợp
ánh sáng điện. Trong thập niên 1980, các nước này đã sử dụng ánh sáng đèn ngầm
(bóng đèn tròn sợi đốt) có công suất 500 W/bóng để đánh bắt cá bằng nghề lưới vây
(Ben Yami, 1987). Tuy nhiên, kỹ thuật sử dụng ánh sáng của các nước này là không
giống nhau. Luật Nghề cá Nauy quy định phạm vi công suất nguồn sáng cho mỗi tàu
đánh cá trích không quá 15 kW.
Từ năm 1993 đến 2004, tàu M.V. SEAFDEC đã sử dụng chà nổi di động và ánh
sáng đèn ngầm trong nước để tập trung cá ngừ đại dương ở vùng biển Ấn Độ Dương,
sau đó đánh bắt bằng lưới vây cá ngừ. Bóng đèn ngầm có ánh sáng trắng với công suất
2000W, được đặt gần chà ở độ sâu 10m nước và được thắp sáng nhờ máy phát điện
trên xuồng, thời gian thắp sáng khoảng 20 - 30 phút (trước khi thả lưới vây). Sản
lượng khai thác trung bình của 87 mẻ lưới vây của tàu M.V.SEAFDEC đạt 22,4
tấn/mẻ.
Ngoài ra, tàu nghiên cứu Nippon Maru, 1998 (Nhật Bản) đã nghiên cứu về hiệu
quả của việc sử dụng chà rạo di động trong nghề lưới vây cá ngừ; tàu nghiên cứu
MV/SEAFDEC, 1992-2002 đã nghiên cứu quan hệ giữa năng suất khai thác nghề lưới
vây cá ngừ với điều kiện môi trường tương đồng; Tàu RV/Mahidon, 1999-2002 (Thái
lan) đã áp dụng chà rạo di động vào nghề lưới vây khai thác cá ngừ và các điều kiện
môi trường thích ứng với cá ngừ biển khơi.
10
Theo Rose (2000), sử dụng mô hình kinh tế lượng để tìm ra nhân tố kỹ thuật tác
động đến việc thay đổi doanh thu đội tàu khai thác hải sản. Thông qua kỹ thuật phân
tích kinh tế lượng, sự phù hợp của các mô hình và các nhân tố ảnh hưởng đến doanh
thu sẽ được đánh giá, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm tăng doanh thu cho đội tàu, góp
phần nâng cao thu nhập cho ngư dân. Mô hình nghiên cứu là mô hình mũ xác định các
nhân tố kỹ thuật tác động đến doanh thu. Xây dựng các biến cụ thể đưa vào mô hình
kinh tế lượng dựa trên lý thuyết cơ bản về các nhân tố tác động đến kết quả hoạt động
khai thác của đội tàu như sau:
Theo Sean Pascoe (2003), nhóm nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động đánh
bắt của tàu khai thác gồm có:
- Nhóm nhân tố về đặc điểm kỹ thuật của tàu: đặc điểm về vỏ tàu, đặc điểm
máy tàu; đặc điểm trang thiết bị trên tàu, tuổi tàu.
- Nhóm nhân tố về đặc điểm ngư cụ (các nghề tham gia, nghề chính, nghề phụ)
- Nhóm nhân tố về quản lý Nhà nước (các loại thuế, các chương trình, dự án)
- Nhóm nhân tố về điều kiện tự nhiên (đặc điểm về trữ lượng và sinh học; đặc
điểm về ngư trường; đặc điểm về thời tiết; đặc điểm về mùa vụ)
- Nhóm nhân tố về lao động và quản lý (đặc điểm về chủ tàu; đặc điểm về
thuyền trưởng; đặc điểm về nhân công)
- Nhóm nhân tố về thị trường (thị trường đầu vào, thị trường đầu ra)
Theo Tim Coelli (2005), nhân tố kỹ thuật ảnh hưởng đến doanh thu, thu nhập
biểu diễn là hàm số tuyến tính và được Cobb-Douglas viết lại dưới dạng logarit. Các
yếu tố kỹ thuật gồm về tàu thuyền, ngư cụ, lao động,
Như vậy, các công trình nghiên cứu về nghề lưới vây của các nước trên thế giới
đã có những bước phát triển vượt bậc. Các tàu khai thác cỡ lớn đã được sử dụng với
công suất máy tàu từ 1000 - 2500cv và hơn nữa. Kích thước vàng lưới vây được tăng
cường, chiều dài vàng lưới lên đến 1.500m; kỹ thuật khai thác được cơ giới hóa và cải
tiến ở trình độ cao, công nghệ dò tìm cá hiện đại đã góp phần chủ động trong khai thác
và tăng năng suất rất đáng kể. Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của các đội tàu khai thác hải sản.
11
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1. Tàu thuyền nghề lưới vây ở Việt Nam
Tính đến năm 2010, số lượng tàu thuyền nghề lưới vây là 6.188 chiếc, chiếm
5,4% tổng số tàu thuyền cả nước[1]. Trong đó, tất cả các tàu được thiết kế và trang bị
phục vụ việc đánh bắt các đàn cá nổi nhỏ sống gần bờ (độ sâu <80 m). Chưa có tàu
nào được thiết kế và trang bị chuyên khai thác cá ngừ.
Số lượng tàu lưới vây trang bị máy có công suất lớn hơn 90cv chiếm 32,9%
tổng số tàu thuyền lưới vây của cả nước. Kích thước vỏ tàu nghề lưới vây khá lớn so
với các nghề khác, chiều dài phổ biến từ 16 - 24m, thời gian hoạt động đánh bắt trên
biển khoảng từ 20 - 60 ngày/chuyến.
1.2.2. Thiết bị khai thác của nghề lưới vây
- Thiết bị khai thác: hầu hết các tàu lưới vây trong nước đều trang bị hệ thống
tang ma sát trích lực từ máy chính để thu giềng rút, hệ thống cần cẩu và ròng rọc
hướng cáp. Máy thu lưới (tời thủy lực) chỉ được lắp trên một số tàu lưới vây công suất
lớn ở các tỉnh phía Nam như: Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Cà Mau, các tàu công
suất nhỏ sử dụng còn rất hạn chế.
- Thiết bị hàng hải: phần lớn các tàu lưới vây trong nước thường trang bị la bàn,
định vị vệ tinh, máy dò cá đứng khá đầy đủ. Riêng máy dò cá ngang sonar có số lượng
rất ít và hiệu quả sử dụng còn thấp, do đa số ngư dân chưa được huấn luyện sử dụng
loại máy hiện đại này.
- Các máy móc khác phục vụ cho việc phát hiện, tổ chức đánh bắt các đàn cá
như: Radar tìm chim, máy đo dòng chảy, máy đo độ rơi chìm của giềng chì vẫn chưa
được sử dụng ở nước ta.
- Thiết bị tập trung đàn cá: Chà và ánh sáng nhân tạo được ngư dân Việt Nam
ứng dụng từ rất lâu nhằm tập trung cá và đánh bắt bằng nghề lưới vây. Hiện nay một
số tỉnh có nghề lưới vây phát triển ở khu vực Đông Nam Bộ đã sử dụng chà dây cố
định (chà nhân tạo) để tập trung đàn cá nổi. Tuy nhiên, do qua nhiều lần thả chà bổ
sung nên vị trí thả chà là điểm rất nguy hiểm cho các tàu khai thác khác khi hoạt động
đánh bắt ở gần khu vực này. Đối với ánh sáng nhân tạo cũng đã được ngư dân ứng
dụng rộng rãi trong nghề lưới vây nhưng mới chỉ sử dụng ánh sáng chiếu trên mặt
nước để khai thác cá nổi nhỏ.
12
1.2.3. Lưới vây ở Việt Nam
Các vàng lưới vây trong nước hiện nay có chiều dài giềng phao phổ biến từ 350
- 1.250 m, chiều cao từ 45 - 160 m.
Các vàng lưới vây có khả năng đánh bắt đàn cá di chuyển tự do và cá ngừ
thường có chiều dài từ 700 - 1.250 m.
Phương pháp khai thác của tàu lưới vây ở nước ta chủ yếu sử dụng chà và ánh
sáng để tập trung cá để đánh bắt; ngư trường hoạt động khai thác có độ sâu <80m. Vì
vậy, chiều dài phổ biến của các lưới vây từ 350 - 900 m; chiều cao từ 45 - 160 m; mức
trang bị phao ít, không đảm bảo lực nổi cho lưới hoạt động ở vùng có độ sâu gần bằng
và lớn hơn chiều cao lưới.
Kích thước mắt lưới của các vàng lưới vây hiện nay chủ yếu từ 20 - 35mm, một
số ít vàng lưới vây có kích thước mắt lưới từ 40 - 80 mm. Kích thước mắt lưới nhỏ nên
chủ yếu đánh bắt các đối tượng có kích thước nhỏ (cá nục, tráo, ngân,…) hạn chế hoạt
động, chịu ảnh hưởng của dòng chảy, thu lưới khó khăn,
1.2.4. Phương pháp khai thác bằng lưới vây
Phương pháp khai thác lưới vây có 02 hình thức: Dò tìm đàn cá di chuyển tự do
để vây bắt (vây tự do hoặc vây chủ động) hay sử dụng chà và ánh sáng tập trung cá để
vây bắt (vây ánh sáng).
- Phương pháp vây tự do: Hiện nay, phương pháp vây tự do chưa được áp dụng
phổ biến, chỉ thấy ở một số tỉnh có nghề lưới vây phát triển như: Bình Định, Quảng
Ngãi, Bình Thuận, Tiền Giang và Cà Mau. Có thể tiến hành các cách như sau:
- Tàu hành trình tự do trên biển, dựa vào kinh nghiệm thủy thủ quan sát mặt
biển và chim trời để dò tìm đàn cá bằng mắt thường rồi tiến hành vây bắt. Cách này
được áp dụng theo mùa vụ và phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết. Việc dò tìm đàn
cá bằng mắt thường chỉ có thể tiến hành vào thời gian biển êm, ít sóng gió. Thời gian
thích hợp cho việc dò tìm đàn cá thường vào buổi sáng sớm và buổi hoàng hôn.
- Sử dụng các thiết bị thuỷ âm (SONAR) để dò tìm đàn cá di chuyển tự do chưa
được áp dụng phổ biến, hiệu quả sử dụng còn rất thấp. Sau khi phát hiện đàn cá, tàu được
điều động bám sát đàn cá, đánh giá đặc điểm đàn cá và tổ chức vây bắt.
- Phương pháp vây ánh sáng:
13
Phương pháp khai thác đàn cá tập trung quanh chà, quanh nguồn sáng được áp
dụng hầu hết rộng khắp trong cả nước. Đối tượng khai thác chủ yếu là cá nổi nhỏ, sống
gần bờ.
Nhìn chung, nghề lưới vây nước ta hoạt động đánh bắt ở quy mô nhỏ, ven bờ,
đối tượng đánh bắt chủ yếu là các loài cá nổi nhỏ. Phương pháp khai thác chủ yếu là
sử dụng chà và ánh sáng nhân tạo.
1.2.5. Một số kết nghiên cứu về nghề lưới vây ở trong nước
- Năm 1963 - 1964, Việt Nam hợp tác với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên, nghiên cứu thí nghiệm nguồn sáng điện bằng đèn huỳnh quang theo phương
pháp chiếu sáng trên và dưới mặt nước để đánh cá bằng lưới vó mạn tàu và lưới vây.
Kết quả thí nghiệm đã cho phép rút ra kết luận là có thể sử dụng nguồn sáng điện để
tiến hành tập trung và đánh bắt các loài cá nục, cá trích, cá cơm, mực,…
- Năm 1967 - 1972, các đề tài cơ giới hoá nghề vó đèn, vây cơ giới trên tàu
công suất 90 cv và trên tàu công suất 250 cv, nghiên cứu cải tiến nhiên liệu đốt đèn
măng xông 4 mạng, nghiên cứu sử dụng nguồn sáng trong nước tập trung cá. Các công
trình nghiên cứu thực nghiệm trong giai đoạn này chủ yếu quan tâm đến ngư cụ đánh
bắt, còn nghiên cứu kỹ thuật nguồn sáng ít được chú ý. Nguồn sáng được sử dụng là
ánh sáng điện với công suất từ 5,0-10,0 kW với mạng điện chiếu sáng hỗn hợp cả
trong nước và trên mặt nước. Đối tượng đánh bắt chủ yếu là cá nục (Decapterus spp.),
cá trích (Sardinella spp.), cá cơm (Anchoviella spp.), mực ống (Loligo spp.), cá thu
(Scomberomorus spp.), cá bạc má (Rastreliger kanagurta),…
- Nguyễn Đình Nhân (1982), báo cáo tổng kết đề tài “Nghề đánh cá bằng lưới
vây ban ngày và ban đêm kết hợp ánh sáng ở Hà Nam Ninh” đã nhận định: sử dụng
ánh sáng để đánh cá bằng lưới vây áp dụng cho ngư trường khơi xa phù hợp hơn so
với ngư trường gần bờ.
- Sở Thuỷ sản Khánh Hoà và Trường Đại học Thuỷ sản (cũ) (1997), đã ứng
dụng ánh sáng đèn ngầm trong nước để đánh bắt cá bằng nghề lưới vây tại Khánh Hoà
và Ninh Thuận. Tuy nhiên, việc ứng dụng này không mấy thành công, bởi vì các bóng
đèn ngầm không được kín nước nên khi ngâm trong nước đã bị nổ.
- Trường đại học Thủy sản Nha Trang (2000), đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu
ứng dụng chà di động cho nghề lưới vây xa bờ khai thác cá ngừ tại Việt Nam”. Đề tài đã
14
đưa ra được một số loại chà di động có thể áp dụng cho nghề lưới vây khai thác cá ngừ ở
Việt Nam đạt hiệu quả cao.
- Đặng Văn Thi, Mai Văn Điện, Vũ Duyên Hải và ctv (2001), báo cáo kỹ thuật
"Ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đến thành phần loài và năng suất khai thác nghề
lưới vây ánh sáng" đã tiến hành thí nghiệm cường độ ánh sáng ở các mức công suất:
1,6 kW; 3,2 kW; 4,6 kW và 6,4 kW và đã cho những nhận định như sau:
- Năng suất khai thác biến động rất lớn và không phụ thuộc vào cường độ ánh
sáng. Ở mức ánh sáng 1,6 kW; 3,2 kW; 4,6 kW và 6,4 kW thì năng suất khai thác
trung bình là 499,9 kg/mẻ; 437,9 kg/mẻ; 424,3 kg/mẻ và 219,0 kg/mẻ. Thành phần các
loài hải sản giữa các mức công suất cũng khác nhau, lần lượt là 32, 34, 48 và 39 loài.
- Cường độ ánh sáng chưa ảnh hưởng đến thành phần sản lượng khai thác của
nghề vây ánh sáng. Năng suất khai thác của nghề vây ánh sáng phụ thuộc khá nhiều
vào các yếu tố như nguồn lợi tại chỗ, tình trạng dòng nước, điều kiện sóng gió,…
- Nguyễn Long (2002 - 2003), Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu ứng dụng
khai thác cá ngừ bằng nghề lưới vây khơi”. Đề tài đã trang bị tổng công suất nguồn
sáng trên tàu từ 6,72 - 13,6 kW và máy dò cá ngang trên các tàu lưới vây ở Tiền Giang
và Cà Mau. Đưa ra cách nhận biết tín hiệu đàn cá trên màn hình máy dò cá ngang khi
đàn cá tập trung gần nguồn sáng và khi cá di chuyển tự do. Ngoài ra, đề tài đề xuất mô
hình kết hợp giữa hình thức đánh bắt tự do, chà và ánh sáng nhằm nâng cao hiệu quả
sản xuất cho nghề lưới vây. Tuy nhiên, đề tài không nghiên cứu về tập tính cá gần
nguồn sáng, không nghiên cứu ánh sáng màu cũng như ánh sáng đèn ngầm trong nước.
- Lương Thanh Sơn (2003), tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu một số
yếu tố ảnh hưởng đến sự tập trung của cá tại chà cố định sử dụng trong nghề lưới vây
xa bờ tỉnh Bình Thuận”. Đề tài đã xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến sự tập
trung của cá tại chà cố định gồm: động thực vật phù du, nhiệt độ nước biển, tốc độ
dòng chảy, độ sâu, thời gian sử dụng vị trí thả chà, mức độ bổ sung chà, địa hình đáy,
vật liệu chà, số lượng tàu dừa.
- Năm 2003, ngư dân huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An đã sử dụng từ 1-2 bóng
đèn ngầm dưới nước có công suất 2.000 w và từ 20 - 30 bóng cao áp 500-1000 w/bóng
để thắp sáng tập trung cá và đánh bắt bằng lưới vây. Tuy nhiên, vì không có kinh
nghiệm, nên hiệu quả mang lại không cao, bóng đèn rất mau hỏng, do đó các loại đèn
15
ngầm trong nước không còn được khuyến khích áp dụng ở vùng biển này (Sở Thuỷ
sản Nghệ An, 2007).
- Theo kết quả điều tra của Dự án Đánh giá Nguồn lợi Sinh vật biển Việt Nam
(ARMLV), tính đến năm 2003 tổng số tàu lưới vây cả nước có khoảng 5.809 chiếc,
chiếm 8,63% tổng số lượng tàu thuyền khai thác hải sản trong nước. Sản lượng khai
thác hải sản của nghề lưới vây tập trung cao ở vùng biển Miền Trung và Đông Nam
Bộ, chiếm khoảng 18,0 - 30,0% tổng sản lượng khai thác hải sản của các vùng biển
này. Các kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Hải sản cho thấy: Nghề lưới vây kết
hợp ánh sáng và chà rạo hiện đang phổ biến nhất, chiếm khoảng 70-90% tổng số tàu
lưới vây cả nước. Chiều dài vàng lưới vây kết hợp ánh sáng khoảng 350-600 m, chiều
cao khoảng 60-120 m, kích thước mắt lưới ở phần lấy cá từ 20-25 mm. Đối tượng
đánh bắt chính của nghề lưới vây kết hợp ánh sáng là cá nục, cá bạc má, cá ngân, cá
sòng, Nghề lưới vây tự do (vây thường) phát triển mạnh ở miền Trung và Đông-Tây
Nam Bộ, số lượng tàu lưới vây tự do không nhiều. Hiện nay, tàu lưới vây tự do thường
đánh bắt kết hợp ánh sáng (ban ngày đánh bắt tự do, ban đêm đánh bắt kết hợp ánh
sáng). Chiều dài vàng lưới vây tự do từ 600-1.200 m, chiều cao từ 100-160 m và kích
thước mắt lưới ở phần tùng từ 20-40 mm. Đối tượng đánh bắt chính của lưới vây tự do
là cá ngừ, cá nục, cá sòng, cá trích, đi thành đàn.
- Nguyễn Đức Sĩ (2006), luận án Tiến sỹ Nông nghiệp “Nghiên cứu các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả nguồn sáng trong nghề lưới vây xa bờ kết hợp ánh sáng”
đã đưa ra những kết luận:
+ Tàu lưới vây xa bờ ở các vùng biển Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông -
Tây Nam Bộ sử dụng nguồn sáng dùng trong khai thác cá còn tuỳ tiện, kém hiệu quả,
chưa sử dụng hết công suất máy điện, hiệu suất sử dụng máy phát điện thấp;
+ Các yếu tố ảnh hưởng mạnh đến sản lượng khai thác cá nục sồ trên tàu lưới
vây xa bờ kết hợp ánh sáng theo phương pháp phân tích lôgic thông tin là tổng công
suất nguồn sáng, độ cao và góc treo đèn. Các yếu tố ảnh hưởng không đáng kể đến sản
lượng khai thác cá nục sồ là công suất tàu, tỷ lệ công suất bóng cao áp, tỷ lệ công suất
bóng huỳnh quang, chiều dài lưới vây, chiều cao lưới vây và thời gian chiếu sáng.
+ Tổng công suất nguồn sáng, độ cao treo đèn và góc treo đèn đạt sản lượng
khai thác cá nục sồ cao ở vùng biển Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông - Tây
Nam Bộ.