Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Nghiên cứu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng tại huyện Tiên Yên và Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 111 trang )




iii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
LỜI CAM ĐOAN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH MỤC CÁC BẢNG vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ vii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
1.1. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng 5
1.1.1. Khái niệm về cộng đồng 5
1.1.2. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng 9
1.1.3. Những nguyên tắc của Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng 11
1.1.4. Các thành tố của quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng 13
1.2. Tình hình nghiên cứu và áp dụng CBCRM trên thế giới, trong nƣớc và tại khu
vực nghiên cứu 15
Chƣơng 2: ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
2.1. Địa điểm nghiên cứu 29
2.2. Thời gian nghiên cứu 29
2.3. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 29
2.3.1. Phương pháp luận 29
2.3.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể 34
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 39
3.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 39
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên 39
3.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội 44
3.2. Hiện trạng tài nguyên ven biển của Đông Hải và Đại Bình 57


3.2.1. Tài nguyên đất 57
3.2.2. Tài nguyên nước 59
3.2.3. Tài nguyên rừng 60
3.2.4. Tài nguyên biển 62
3.2.5. Tài nguyên nhân văn 65



iv
3.2.6. Cảnh quan và môi trường ven biển 65
3.3. Tình hình khai thác, sử dụng tài nguyên ven biển ở Đại Bình và Đông Hải 67
3.3.1. Hiện trạng sử dụng đất 67
3.3.2. Tình hình khai thác thủy hải sản 72
3.4. Thực trạng quản lý tài nguyên ven biển ở Đại Bình và Đông Hải 77
3.5. Đề xuất mô hình quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng 81
3.5.1. Kết quả phân tích SWOT cho CBCRM ở Đại Bình và Đông Hải 82
3.5.2. Đề xuất mô hình CBCRM cho 2 xã Đông Hải và Đại Bình 86
3.5.3. Các sinh kế thay thế bền vững 88
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC 100



v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CBCRM
Bảo tồn tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng
CBNRM

Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng
CBO
Tổ chức dựa vào cộng đồng
CRES
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trƣờng
ĐDSH
Đa dạng sinh học
ĐNN
Đất ngập nƣớc
HST
Hệ sinh thái
MERD
Ban nghiên cứu Rừng ngập mặn
NN & PTNT
Nông nghiệp & Phát triển nông thôn
NTTS
Nuôi trồng thủy sản
RAMSAR
Công ƣớc về các vùng đất ngập nƣớc có tầm quan
trọng quốc tế, đặc biệt nhƣ là nơi cƣ trú của loài chim
nƣớc
RNM
Rừng ngập mặn
SWOT
Điểm mạnh - Điểm yếu - Cơ hội - Đe dọa
UBND
Ủy ban nhân dân





vi
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Tóm tắt các sáng kiến quản lý tài nguyên ven bờ dựa vào cộng đồng về xây dựng
các tổ chức dựa vào cộng đồng ở phá Tam Giang 25
Bảng 2.1. Ma trận phân tích SWOT 38
Bảng 3.1. Tình hình dân số của xã Đại Bình, Đầm Hà (4/2007) 45
Bảng 3.4. Tình hình nuôi trồng và khai thác thủy hải sản tại Đại Bình năm 2007-2008 51
Bảng 3.5. Số hộ nuôi trồng thủy sản của Đại Bình trong các năm 2006-2008 52
Bảng 3.6. Một số loài hải sản tự nhiên có giá trị kinh tế tại Tiên Yên và Đầm Hà 63
Bảng 3.7. Tình hình sử dụng đất xã Đại Bình và xã Đông Hải 68
Bảng 3.8. Khu vực đánh bắt, thời vụ và giá bán trên thị trƣờng của một số loại hải sản bãi
triều có giá trị kinh tế cao 74
Bảng 3.9. So sánh mô hình quản lý tài nguyên ven biển hiện tại và mô hình đề xuất 90




vii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ẢNH, BIỂU ĐỒ

Hình 1.1. Các thành tố của CBCRM 15
Hình 1.2. Rừng ngập mặn đƣợc trồng bổ sung ở khu vực Đồng Bí 28
Hình 2.1. Hệ thống sinh thái nhân văn trong quản lý tài nguyên 31
Hình 2.2. Áp dụng các kỹ thuật của RRA khi tham gia một chuyến đánh bắt gần bờ của
ngƣời dân địa phƣơng 36
Hình 2.3. Áp dụng các kỹ thuật của PRA trong quá trình thực địa 37
Hình 3.1. Vị trí khu vực nghiên cứu 40
Hình 3.2. Các loại hình NTTS (từ trái qua phải): Đầm nuôi tôm, Nuôi cá lồng bè, và Ao

nuôi cá nƣớc ngọt 50
Hình 3.3. Kiên cố hóa đê biển của xã Đại Bình 54
Hình 3.4. Rừng ngập mặn khu vực xã Đông Hải và xã Đại Bình 62
Hình 3.5. Ngán, bông thùa và sá sùng 64
Hình 3.6. Rừng ngập mặn - cảnh quan đặc trƣng vùng cửa sông - ven biển 66
Hình 3.7. Tình hình sử dụng đất xã Đại Bình 68
Hình 3.8. Tình hình sử dụng đất xã Đông Hải 69
Hình 3.9. Một số đầm tôm bị bỏ hoang ở khu vực Đồng Bí, xã Đại Bình 70
Hình 3.10. Đánh bắt hải sản vùng ven bờ 72
Hình 3.11. Các dụng cụ đánh bắt hải sản bãi triều: mai và cuốc 5 răng khai thác sá sùng,
cuốc khai thác bông thùa, dụng cụ bắt ruốc và thuôn khai thác ngán. 75
Hình 3.12. Mối quan hệ giữa các bên liên quan trong quản lý và khai thác, sử dụng vùng
đất ngập triều thuộc 2 xã Đại Bình và Đông Hải 77
Hình 3.13. Mô hình quản lý rừng ngập mặn tại Đại Bình và Đông Hải 78
Hình 3.14. Mô hình quản lý khu vực bãi triều tại Đại Bình và Đông Hải 79
Hình 3.15. Mô hình CBCRM đề xuất cho Đại Bình và Đông Hải 86





1
MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Đất ngập nƣớc (ĐNN) Việt Nam đƣợc đánh giá là rất phong phú, có vai trò rất quan
trọng trong các hệ thống tự nhiên cũng nhƣ đối với các hệ xã hội, đặc biệt là các hệ
sinh thái ĐNN cửa sông - ven biển. Chƣa tính đến vùng đất ngập nƣớc ở châu thổ
sông Hồng, sông Mê Kông và vùng nội địa, tài nguyên đất ngập nƣớc của Việt Nam
chỉ tính riêng vùng ven biển cũng rất phong phú: 29 tỉnh ven biển với dân số 45
triệu ngƣời có tổng diện tích 139.640km2. Riêng 125 huyện ven biển với dân số 20

triệu ngƣời có diện tích 56.000km2. Các địa phƣơng này có 1 triệu ha đất ngập mặn
ven bờ trong đó 110.000ha là rừng ngập mặn (Thống kê của Bộ TNMT, 2007). Đây
cũng là nguồn tài nguyên quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc. Tuy nhiên, hiện nay vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các hệ sinh thái
ĐNN Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng. Trong những năm qua, các nhà
quản lý cùng các nhà khoa học đã có nhiều nỗ lực trong việc ngăn chặn tình trạng
suy thoái, đồng thời phục hồi các hệ sinh thái đất ĐNN đã bị phá hủy. Quản lý bảo
tồn và phục hồi các hệ sinh thái ĐNN đã đƣợc đƣa vào nội dung của nhiều văn bản
quy phạm pháp luật, chƣơng trình, kế hoạch cũng nhƣ các cam kết thực hiện các
công ƣớc quốc tế của Chính phủ Việt Nam nhƣ: Chiến lƣợc Bảo tồn Quốc gia, Luật
Bảo vệ môi trƣờng, Luật ĐDSH, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Kế hoạch Hành
động ĐDSH Quốc gia, Chƣơng trình Hành động Nâng cao nhận thức ĐDSH (2001-
2010), Công ƣớc ĐDSH, Công ƣớc RAMSAR, Tuy nhiên, so với yêu cầu của
thực tiễn thì công tác quản lý bảo tồn các hệ sinh thái ĐNN vẫn còn nhiều bất cập
và hạn chế. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là sự tham gia
của cộng đồng vào công tác quản lý bảo tồn tài nguyên thiên nhiên nói chung và các
hệ sinh thái ĐNN nói riêng còn rất hạn chế, bên cạnh đó cũng cần thừa nhận rằng ý
thức tự giác bảo vệ gìn giữ môi trƣờng của cộng đồng chƣa đƣợc huy động và
khuyến khích đúng mức nên tiềm lực của bản thân cộng đồng chƣa đƣợc phát huy
hiệu quả.



2
Kế hoạch hóa công tác quản lý bảo tồn không chỉ quan tâm đến kết quả cuối cùng là
bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên mà còn phải đáp ứng đƣợc
nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là những cộng đồng bị tác động để
đạt kết quả mang tính bền vững. Bởi vậy việc tham gia vào quá trình quy hoạch bảo
tồn của các cộng đồng có liên quan (stakeholders) là khâu then chốt. Đó cũng chính
là phƣơng thức quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng (Community-

based natural resource management- CBNRM). Đây là phƣơng pháp tiếp cận góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý bảo tồn ĐDSH. Các mô hình quản lý bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên có sự tham gia của cộng đồng đã bƣớc đầu đƣợc thực hiện có
kết quả ở nhiều nƣớc và cũng là một trong những khía cạnh đƣợc Đảng và Nhà
nƣớc Việt Nam quan tâm.
Trong danh mục 30 hệ sinh thái đặc thù bị suy thoái (Cục Bảo vệ môi trƣờng,
2007), hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) khu vực miền Đông Quảng Ninh nằm
trong 12 hệ sinh thái đặc thù bị suy thoái nghiêm trọng nhất hiện nay.
RNM xã Đông Hải, huyện Tiên Yên và xã Đại Bình, huyện Đầm Hà thuộc hệ sinh
thái RNM khu vực miền Đông Quảng Ninh, trƣớc đây có diện tích khá lớn, khoảng
5000ha, đây là một trong những hệ sinh thái RNM điển hình khu vực phía Bắc Việt
Nam với chất lƣợng rừng tốt, phong phú về chủng loại. Tuy nhiên, do quá trình khai
thác và sử dụng không hợp lý nên diện tích RNM đã bị suy giảm nhiều, hiện chỉ còn
khoảng hơn 1000ha. Mặc dù vậy, diện tích RNM và tài nguyên ĐNN vùng cửa sông
- ven biển này vẫn đang tiếp tục bị đe dọa và có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng
nếu không có những biện pháp kịp thời để bảo tồn và sử dụng một cách bền vững.
Với những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Nghiên cứu quản lý tài nguyên ven
biển dựa vào cộng đồng tại huyện Tiên Yên và Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh” để
thực hiện luận văn tốt nghiệp khóa học thạc sỹ chuyên ngành Môi trường trong
Phát triển bền vững. Luận văn này đƣợc thực hiện trong khuôn khổ nhiệm vụ quản
lý Nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng “Triển khai áp dụng và hoàn thiện mô hình
quản lý tài nguyên thiên dựa vào cộng đồng phục vụ phát triển bền vững vùng



3
cửa sông ven biển xã Đông Hải, huyện Tiên Yên và xã Đại Bình, huyện Đầm Hà,
tỉnh Quảng Ninh” của Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trƣờng, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài bao gồm cộng đồng dân cƣ ở 2 thôn: Cái Khánh -
xã Đông Hải, huyện Tiên Yên và Làng Ruộng - xã Đại Bình, huyện Đầm Hà, tỉnh
Quảng Ninh; và các hệ sinh thái ĐNN vùng cửa sông ven biển (RNM, bãi triều,
vùng nƣớc biển ven bờ) thuộc địa bàn các xã này.
Mục tiêu nghiên cứu
 Đánh giá hiện trạng tài nguyên thiên nhiên ven biển tại hai điểm nghiên cứu
xã Đông Hải, huyện Tiên Yên và xã Đại Bình, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng
Ninh.
 Đánh giá mức độ phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên ven biển của cộng
đồng tại hai điểm nghiên cứu.
 Đánh giá thực trạng quản lý tài nguyên thiên nhiên tại hai điểm nghiên cứu
trên.
 Đề xuất mô hình quản lý bảo tồn tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng
cho hai điểm nghiên cứu trên.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
 Khu vực nghiên cứu có HST ĐNN ven biển nhạy cảm với tiềm năng kinh tế
lớn. Các kết quả nghiên cứu của đề tài hƣớng đến việc khai thác, sử dụng
một cách hợp lý và quản lý có hiệu quả HST này sẽ là cơ sở để phát triển các
ngành kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho nhân
dân địa phƣơng, đồng thời giảm bớt nguy cơ bị tổn thƣơng do thiên tai và
nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc thích nghi và ứng phó với biến
đổi khí hậu;



4
 Cung cấp cơ sở khoa học cho các nhà quản lý địa phƣơng, quản lý ngành về
quản lý bền vững và tái tạo những tài nguyên của các hệ sinh thái nhạy cảm;
 Cung cấp cơ sở dữ liệu khoa học phục vụ quản lý Nhà nƣớc về một số hệ
sinh thái nhạy cảm, nơi có nhiều giá trị khoa học quý giá và cũng là cơ sở

cho việc xây dựng phƣơng án quy hoạch phục hồi và sử dụng bền vững các
hệ sinh thái tƣơng tự;
 Huy động sự tham gia tích cực của cộng đồng vào việc quản lý bền vững
nguồn tài nguyên ven biển và các hệ sinh thái nhạy cảm vùng cửa sông ven
biển.
 Đây là đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ cho luận văn thạc sỹ đầu tiên
đƣợc thực hiện tại khu vực liên quan đến quản lý bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên dựa vào cộng đồng.
Kết cấu của luận văn
Nội dung của luận văn bao gồm:
Phần mở đầu: nêu lý do lựa chọn đề tài, đối tƣợng nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu
và ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận văn.
Chƣơng 1: Tổng quan các tài liệu về CBNRM nói chung và CBCRM nói riêng, các
mô hình CBCRM đã đƣợc xây dựng trong và ngoài nƣớc cũng nhƣ tại khu vực
nghiên cứu.
Chƣơng 2: Địa điểm, thời gian và phƣơng pháp nghiên cứu.
Chƣơng 3: Trình bày các kết quả nghiên cứu về tình hình khai thác, sử dụng và thực
trạng công tác quản lý tài nguyên ven biển, từ đó đề xuất mô hình quản lý tài
nguyên ven biển dựa vào cộng đồng cho khu vực nghiên cứu.
Kết luận và khuyến nghị và các phụ lục.



5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng
1.1.1. Khái niệm về cộng đồng
Cộng đồng xã hội (dân tộc, triết)
Chỉ một tập đoàn ngƣời rộng lớn, có những dấu hiệu, những đặc điểm xã hội chung
về thành phần giai cấp, về nghề nghiệp, về địa điểm sinh tụ và cƣ trú. Cũng có

những cộng đồng xã hội bao gồm cả một dòng họ, một sắc tộc, một dân tộc. Nhƣ
vậy cộng đồng xã hội bao gồm một loạt yếu tố xã hội chung mang tính phổ quát.
Đó là những mặt cộng đồng về kinh tế, về địa lý, về ngôn ngữ, về văn hóa, về tín
ngƣỡng, về tâm lý, về lối sống. Những yếu tố này trong tính tổng thể của nó tạo nên
tính ổn định và bền vững của một cộng đồng xã hội. Khẳng định tính thống nhất của
một cộng đồng xã hội trên một quy mô lớn, cũng đồng thời phải thừa nhận tính đa
dạng và nhiều màu sắc của các cộng đồng xã hội trên những quy mô nhỏ hơn
([5],[6]).
Tính đa dạng của cộng đồng
Phạm vi của cộng đồng trên thực tế rất khác nhau. Trong một số trƣờng hợp nó đa
dạng đến mức độ mà khái niệm về cộng đồng hình nhƣ không thể áp dụng đƣợc.
Trong thực tế ta vẫn phải sử dụng nó và phải chăng nó không có một ý nghĩa khoa
học thực sự nào? ([5],[6]).
Cơ sở cấu trúc của cộng đồng
Ta có thể xây dựng một mô hình cộng đồng trong sự đa dạng nhƣ đã nói không?
Điều kiện cần thiết cho một cộng đồng tồn tại là gì? Vận dụng khái niệm cộng đồng
vào một cộng đồng ở nông thôn thì thật là khó vì nó rất đa dạng và mâu thuẫn. Theo
Gene Barrett (2001) thì 4 chuẩn mực sau đây có thể đƣợc vận dụng cho mô hình của
một cộng đồng: Địa điểm hay lãnh thổ, quyền lợi hay mối quan tâm, luật tục (hƣơng
ƣớc) và bản sắc ([5],[6]).
Những cộng đồng ven biển ([8], [17])



6
Cộng đồng ven biển là những ngƣời sống ở những dải đất hẹp hay trên mặt nƣớc
dọc theo một đƣờng biến động nơi biển gặp đất liền. Tuy nhiên cố gắng định nghĩa
nhóm ngƣời này hay việc quy định phạm vi nguồn tài nguyên mà họ phụ thuộc là
một việc hết sức khó khăn.
Thực tế là sinh kế của những cộng đồng ven biển phụ thuộc vào những tài nguyên

đất liền để có lƣơng thực hoặc thu nhập. Do tài nguyên trên đất liền có vai trò quan
trọng đối với những cộng đồng ven biển và tác động đến tình trạng cùng việc sử
dụng những nguồn tài nguyên biển - đƣợc giả định là tất cả những vật sống và
không sống đƣợc tìm thấy dƣới bề mặt biển - nên chúng cũng đƣợc coi là nguồn tài
nguyên ven biển cùng với những tài nguyên sống và không sống trong biển.
Những cộng đồng ven biển có những nguồn thu nhập đa dạng nhƣng đều có mối đe
dọa nghiêm trọng về an ninh lƣơng thực. Họ sống trên bờ biển phong phú nhƣng
nhìn chung họ lại nghèo, đông đúc và bị gạt ra bên lề sự phát triển. Tuy nhiên họ lại
tỏ ra tháo vát khi nguồn tài nguyên bị suy thoái, họ có thể thiếu tiền nhƣng họ vẫn
tồn tại. Gần đây áp lực gia tăng dân số ở nhiều nơi đã đẩy những ngƣời sống trong
nội địa ra ven biển với hy vọng duy trì sinh kế dựa vào nguồn tài nguyên ven biển
vẫn thƣờng đƣợc coi là tài sản chung. Tất cả những ngƣời di cƣ này góp phần vào
sự thay đổi dân số địa phƣơng, những nhóm ngƣời thiểu số, văn hóa và ngôn ngữ
pha trộn. Cho dù đến từ nội địa hay những vùng ven biển, họ đều là những ngƣời
không có sự ràng buộc từ trƣớc với địa phƣơng. Điều này có nghĩa là tuy có ít vốn
tri thức về sinh thái địa phƣơng nhƣng dân di cƣ lại góp phần vào sự phong phú của
các cộng đồng ven biển với sự đa dạng những nền văn hóa khác nhau.
Hệ thống con ngƣời và sinh thái tạo ra vùng ven biển là hệ thống phức hợp cao độ
về phƣơng diện dân số học cũng nhƣ sinh thái học. Giao diện đất liền và biển là
sinh cảnh biến động, trong đó năng lƣợng, chất dinh dƣỡng và chủng quần động,
thực vật pha trộn với nhau và đƣợc tái sinh. Điều này tạo ra một trong những vùng
có năng suất cao nhất trên Trái Đất đƣợc thể hiện bởi những chuỗi thức ăn phức
hợp, có khả năng duy trì tiềm năng năng suất cao. Có những lý do hợp lý để tin rằng



7
thiên nhiên ảm đạm hiện nay của một số vùng ven biển chủ yếu là do sự phá hoại
khó kiểm soát đối với những mạng lƣới sinh thái phức hợp. Giảm khai thác những
mắt xích quan trọng của chuỗi thức ăn mà thƣờng là các loài ăn thịt có giá trị

thƣơng mại có thể giúp hồi phục cân bằng sinh thái.
Sự luân chuyển là thành tố quan trọng của tính phức hợp trong những sinh cảnh ven
biển và cửa sông. Tính phức hợp, sự luân chuyển của tài nguyên và những cộng
đồng ven biển khiến những ngƣời ngoài cộng đồng gặp khó khăn trong việc đánh
giá hay thu thập thông tin, đặc biệt là việc quan sát những nguồn tài nguyên: di
động, dƣới mặt nƣớc, thay đổi theo mùa và di chuyển giữa những sinh cảnh khác
nhau. Những sự luân chuyển nhƣ vậy thƣờng có thể dự đoán đƣợc dựa vào chu kỳ
mùa, tháng hoặc hàng ngày. Tuy nhiên, nếu hệ sinh thái đã bị thay đổi do việc khai
thác quá mức hoặc sự xuống cấp của sinh cảnh thì các tri thức sinh thái truyền
thống có thể không còn phù hợp.
Mặc dù có những đặc điểm sai khác về mặt tự nhiên, các hệ sinh thái nhƣ HST rừng
ngập mặn, HST vùng triều, HST nƣớc lợ cửa sông - ven biển,…có mối quan hệ chặt
chẽ với những sinh cảnh biển xung quanh. Những mắt xích sinh thái giữa biển và
đất liền là tối quan trọng. Ngoài sự vận chuyển của con ngƣời, mối quan hệ quan
trọng nhất có thể là vận chuyển nƣớc và phù sa từ sông ra cửa sông và vùng ven
biển.
Những hệ sinh thái và cộng đồng ven biển đang trong tình trạng khủng hoảng bởi sự
khai thác quá mức và đông dân. Khủng hoảng này chủ yếu là do sự thiếu kiểm soát
những nguồn tài nguyên, tuy nhiên, ngƣời dân địa phƣơng có thể kiểm soát đƣợc.
Sự hủy hoại tài nguyên ven biển đang tăng trong những năm gần đây. Rừng ngập
mặn và vùng cửa sông - ven biển đang bị hủy hoại bởi: khai thác quá mức do nghèo
đói, đánh bắt bằng phƣơng pháp hủy diệt, ô nhiễm, xói mòn và các hoạt động phát
triển khác trên đất liền.
Ở Việt Nam, đại bộ phận cƣ dân ven biển đều sinh sống trong các cộng đồng với
nhiều ngành nghề khác nhau mà đặc trƣng nhất là cƣ dân nông nghiệp. Quá trình



8
hình thành nên các cộng đồng dân cƣ ven biển ở nƣớc ta cũng có nhiều nét khác

biệt. Theo sử sách, có một điều kỳ lạ là Việt Nam có bờ biển rất dài nhƣng nông dân
không có xu hƣớng tiến ra biển. Biển đóng một vai trò hết sức mờ nhạt trong đời
sống của nông dân.
Tổ tiên của ngƣời Việt vốn là cƣ dân nông nghiệp lúa nƣớc, với cảnh quan vùng
đồng bằng tạo tiền đề cho con ngƣời dễ trồng trọt và đánh cá nƣớc ngọt, do đó mặc
dù chƣa ra biển nhƣng khẩu phần ăn của ngƣời Việt có hai thức ăn chủ đạo là cơm
và cá. Cá, tôm, cua nƣớc ngọt luôn sẵn có trong vùng nhiệt đới mƣa nhiều, sông
ngòi, ao hồ dày đặc. Cá biển chƣa trở thành thức ăn quan trọng khi biển cả vẫn là
loại môi trƣờng dữ dằn đối với con ngƣời, nhất là với những ngƣời nông dân thời kỳ
tiền công nghiệp, khi khoa học kỹ thuật chƣa phát triển các loại công cụ chinh phục
biển nhƣ tàu thuyền, dụng cụ đánh bắt,…Hơn nữa, ngƣời Việt Nam có hàng nghìn
năm lịch sử chống ngoại xâm nên nói chung họ e ngại tiếp xúc với ngƣời ngoại
quốc. Vì vậy mà các triều đại trƣớc đây luôn thực hiện chính sách chọn nông, ức
thƣơng, bế quan tỏa cảng. Trong bối cảnh nhƣ vậy, biển hầu nhƣ không có giá trị gì
trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
Nhiều ý kiến cho rằng khi tiếp xúc với biển, ngƣời Việt có hai cách ứng xử. Một là,
quai đê lấn biển, cố gắng mở rộng đồng bằng ra phía biển để có đất cấy lúa trồng
khoai, ngăn chặn biển để yên ổn kế sinh nhai. Hai là, có một bộ phận nhỏ dân cƣ
thƣờng là những ngƣời rất nghèo, không có đất canh tác hoặc không tranh giành nổi
những thủy vực để khai thác trong đất liền, họ buộc phải mon men ra biển bằng
những thuyền nhỏ, thuyền nan, thuyền thúng, bè mảng làm nghề đánh cá bằng các
dụng cụ chài lƣới thô sơ. Một bộ phận nghèo đến nỗi không tìm đƣợc đất làm nhà
nên họ đành phải sống lênh đênh trên những chiếc thuyền nhỏ bé, bám biển làm kế
sinh nhai. Tuy nhiên, đại bộ phận những ngƣời dân sống ở ven biển dù làm nghề hái
lƣợm những sản vật tự nhiên của biển hay đánh cá trên những con thuyền nhỏ
nhƣng họ vẫn hƣớng về nông nghiệp. Làng của họ thƣờng bám vào những nơi có
nƣớc ngọt để có thể canh tác nông nghiệp vì con tôm, con cá không đủ nuôi sống
con ngƣời.




9
Nói chung, ngƣời Việt cố kéo nếp sống của cƣ dân nông nghiệp ra biển, bởi thế, cho
đến tận ngày nay thì số hộ gia đình ngƣ dân chuyên nghiệp không phải là nhiều. Rất
khó có thể tìm thấy những cộng đồng thuần túy là ngƣ dân sống trên những địa bàn
có ranh giới nhất định vùng ven biển.
Ngày nay, dân cƣ tập trung ở dải ven biển khá đông đúc với mật độ dân số trung
bình là 369 ngƣời/km
2
. Tuy nhiên, sự phân bố dân cƣ rất không đồng đều. Phần lớn
dân cƣ tập trung ở các thị xã, thành phố, nơi đã có hoạt động kinh tế và xã hội lâu
đời, cơ sở hạ tầng tƣơng đối phát triển. Ngƣợc lại, ở các huyện đảo và các huyện
ven biển, dân cƣ rất thƣa thớt. Việc tăng dân số ở các vùng ven biển đã thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình sử dụng các diện tích đất hoang hóa và các tài nguyên khác nhau
của dải đất này. Ở những giai đoạn đầu, việc tăng dân số đã kéo theo sự mở rộng
nhanh chóng khu vực bãi bồi màu mỡ ở các vùng cửa sông lớn để canh tác nông
nghiệp. Việc lấn biển ngày càng đƣợc hiện mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Các hệ
thống đê bao chống mặn, đồng ruộng, làng mạc đƣợc xây dựng khắp nơi tạo cơ sở
vật chất kỹ thuật cho sự ổn định và tăng cƣờng nơi cƣ trú. Chính việc tăng cƣờng số
lƣợng định cƣ và sự hấp dẫn của nền kinh tế nông nghiệp tại các dải ven biển đã lôi
cuốn con ngƣời vƣơn ra biển để đánh bắt hải sản.
Giống nhƣ nhiều nơi trên thế giới, các cộng đồng cƣ dân ven biển Việt Nam cũng
đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng do khai thác quá mức các tài nguyên ven
biển và sự gia dân số nhanh, đặc biệt là những cộng đồng nghèo.
1.1.2. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng [8]
Nhƣ nhiều tài nguyên thiên nhiên, việc quản lý tài nguyên ven biển thông qua các
cơ quan trung ƣơng đã bị thất bại trong việc hạn chế khai thác tài nguyên quá mức
và những tác động huỷ diệt. Cho nên nhiều quốc gia hiện nay đang trở lại kiểm soát
tài nguyên thiên nhiên ở cấp địa phƣơng bởi vì những ngƣời phụ thuộc trực tiếp vào
những nguồn tài nguyên thƣờng là những ngƣời tận tâm, có ý thức và là những

ngƣời có khả năng bảo vệ.



10
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là quá trình quản lý tài nguyên ven
biển do những ngƣời phụ thuộc vào nguồn tài nguyên đề xƣớng. Vì vậy ngày càng
có nhiều ngƣời sử dụng tài nguyên tham gia vào quản lý nguồn tài nguyên ven biển
và trách nhiệm quản lý mang tính chất địa phƣơng. Ý thức trách nhiệm, sự tuân thủ
pháp luật do đó cũng tăng lên.
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là hoạt động nhằm định hƣớng các
vấn đề thông qua kiểm soát quản lý tài nguyên mang tính địa phƣơng hơn. Khi quản
lý tài nguyên dựa vào cộng đồng trở nên tiến bộ hơn nó sẽ giải quyết các vấn đề của
cộng đồng ven biển một cách toàn diện hơn. Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng
là một nỗ lực làm cho cộng đồng “đƣợc kiểm soát hơn”.
Trong tƣơng lai kế sinh nhai bền vững không chỉ đơn thuần là “kế sinh nhai thay
thế” mà nó còn bao gồm cả các khía cạnh văn hoá, xã hội và chính trị đang tác động
một cách mạnh mẽ đến cuộc sống của con ngƣời. Nếu muốn con ngƣời có trách
nhiệm trong việc quản lý, thì lợi ích của họ phải rõ ràng, thực chất, công bằng,
những mục đích thƣơng mại là không thể chấp nhận đƣợc. Việc đánh giá một cách
toàn diện là thực sự cần thiết. Hầu hết các hệ sinh thái bị suy thoái vì nguyên nhân
này hay nguyên nhân khác đều phải đƣợc hồi phục. Kiểm soát việc sử dụng và lạm
dụng tài nguyên sẽ mang lại năng suất tiềm năng cho vùng ven biển và cộng đồng
ven biển, với sự chăm sóc và quan tâm thích đáng, có thể cải thiện đƣợc phúc lợi
của chính cộng đồng ven biển trƣớc mắt cũng nhƣ trong tƣơng lai.
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là chiến lƣợc toàn diện nhằm xác
định những vấn đề mang tính chất nhiều mặt ảnh hƣởng đến môi trƣờng ven biển
thông qua sự tham gia tích cực và có ý nghĩa của cộng đồng ven biển. Điều quan
trọng là chiến dịch này tìm cách xác định vấn đề cốt lõi của sự tiếp cận tài nguyên
một cách tự do cùng với tất cả hậu quả bất công và không hiệu quả, bằng cách tăng

cƣờng sự tiếp cận và kiểm soát của cộng đồng đối với nguồn tài nguyên của họ.
Thuật ngữ “Dựa vào cộng đồng” là một nguyên tắc mà những ngƣời sử dụng tài
nguyên cũng phải là ngƣời quản lý hợp pháp đối với nguồn tài nguyên đó. Điều này



11
giúp phân biệt nó với các chiến lƣợc quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác
hoặc là có tính tập trung hoá cao hoặc là không có sự tham gia của các cộng đồng
phụ thuộc trực tiếp vào nguồn tài nguyên đó.
Kinh nghiệm ở nhiều nƣớc cho thấy những hệ thống quản lý tập trung hoá đã tỏ ra
không hiệu quả trong việc quản lý nguồn tài nguyên theo cách bền vững. Do đó rất
nhiều cộng đồng ven biển đã đánh mất ý thức “làm chủ” và trách nhiệm đối với
vùng ven biển của họ. Thông qua những tiến trình đa dạng của mình, quản lý bảo
tồn tài nguyên dựa vào cộng đồng hy vọng sẽ khôi phục lại ý thức “làm chủ” và
trách nhiệm này.
Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng cũng là một quá trình mà qua đó
những cộng đồng ven biển đƣợc tăng quyền lực về chính trị và kinh tế để họ có thể
đòi và giành đƣợc quyền kiểm soát quản lý và tiếp cận một cách hợp pháp đối với
nguồn tài nguyên ven biển của họ. Sự vận động nhằm khởi xƣớng một vấn đề nhƣ
thế tốt hơn hết phải đƣợc bắt đầu từ bản thân cộng đồng. Tuy nhiên do yếu về quyền
lực nên hầu hết các cộng đồng đều thiếu khả năng tự khởi xƣớng quá trình thay đổi.
Chính điều này là một trong những nhân tố đã dẫn đến các tổ chức và cơ quan bên
ngoài tham gia, làm cho những quá trình liên quan đến Quản lý tài nguyên ven biển
dựa vào cộng đồng trở nên dễ dàng hơn, kể cả việc tổ chức cộng đồng.
1.1.3. Những nguyên tắc của Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng [8]
Tăng quyền lực (trao quyền)
Ở những cộng đồng ven biển, tăng quyền lực là sự phát triển của sức mạnh (quyền
lực) thực hiện việc kiểm soát quản lý nguồn tài nguyên mà các cộng đồng này phải
phụ thuộc. Việc này thƣờng đƣợc thực hiện với những cơ quan của chính phủ.

Bằng việc tăng cƣờng sự kiểm soát và tiếp cận của cộng đồng đối với tài nguyên
ven biển sẽ tạo ra cơ hội tốt hơn cho tích luỹ lợi ích kinh tế địa phƣơng. Các tổ chức
tại cộng đồng quản lý tốt tài nguyên cũng có thể đƣợc công nhận nhƣ những ngƣời
cộng tác hợp pháp trong việc quản lý tài nguyên ven biển. Sự tăng quyền lực cũng



12
có nghĩa là xây dựng nguồn nhân lực và khả năng của cộng đồng để quản lý có hiệu
quả nguồn tài nguyên của họ theo cách bền vững.
Sự công bằng
Nguyên tắc công bằng gắn liền với nguyên tắc tăng quyền lực. Sự công bằng có
nghĩa là có sự bình đẳng giữa mọi ngƣời và mọi tầng lớp đối với những cơ hội. Tính
công bằng chỉ có thể đạt đƣợc khi mọi ngƣời đều có quyền tiếp cận bình đẳng đối
với những cơ hội tồn tại để phát triển, bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên ven biển.
CBCRM cũng đảm bảo tính công bằng giữa thế hệ hiện tại và tƣơng lai bằng cách
tạo ra những cơ chế có thể bảo đảm cho việc bảo vệ và bảo tồn nguồn tài nguyên
ven biển để sử dụng cho tƣơng lai.
Tính hợp lý về sinh thái và sự phát triển bền vững
CBCRM thúc đẩy những kỹ thuật và thực hành không chỉ để phù hợp với những
nhu cầu về kinh tế, xã hội, văn hoá của cộng đồng mà còn là hợp lý về sinh thái. Do
đó những kỹ thuật phải thừa nhận sức chịu đựng và tiếp thụ của nguồn tài nguyên
và hệ sinh thái.
Sự phát triển bền vững có nghĩa là phải cân nhắc, nghiên cứu trạng thái và bản chất
của môi trƣờng tự nhiên trong khi theo đuổi phát triển kinh tế mà không làm tổn hại
đến phúc lợi của thế hệ tƣơng lai. Quan tâm đến môi trƣờng đƣợc lồng vào nguyên
tắc “Ngƣời quản gia”, nguyên tắc này thừa nhận mọi ngƣời đều là ngƣời bảo vệ
bình dị của Trái Đất này.
Tôn trọng những tri thức truyền thống/bản địa
CBCRM thừa nhận giá trị của tri thức và hiểu biết bản địa. Nó khuyến khích việc

chấp nhận và sử dụng những tri thức truyền thống/bản địa trong những quá trình và
hoạt động khác nhau của mình.
Sự bình đẳng giới



13
CBCRM thừa nhận vai trò độc đáo và sự đóng góp của nam và nữ giới trong lĩnh
vực sản xuất và tái sản xuất. Nó thúc đẩy cơ hội bình đẳng của cả hai giới trong sự
tham gia có ý nghĩa vào việc quản lý tài nguyên.
1.1.4. Các thành tố của quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng [8]
Cải thiện quyền hưởng dụng các nguồn tài nguyên
Cải thiện quyền hƣởng dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên có nghĩa là đạt đƣợc/bảo
đảm tiếp cận và kiểm soát, quản lý đối với các nguồn tài nguyên. Nó còn đƣợc gọi
là việc làm sáng tỏ quyền sử dụng hay quyền sở hữu cộng đồng. Về mặt hành động
thì nó có nghĩa là thể chế hoá việc tiếp cận và kiểm soát quốc gia hay địa phƣơng.
Điều này cũng có thể đạt đƣợc thông qua việc tổ chức cộng đồng có hiệu quả và các
chính sách phù hợp của nhà nƣớc.
Rất nhiều hệ thống trên thế giới xác định ai “hưởng dụng” hoặc có “quyền” đối với
tài nguyên ven biển. Tuy nhiên việc khai thác các tài nguyên ven biển vẫn trở thành
vấn đề cạnh tranh trong hệ thống tiếp cận tự do.
Chỉ có rất ít hay không có những hệ thống hƣởng dụng đƣợc chính phủ nhìn nhận
bên cạnh những chính sách quốc gia. Những điều lệ không chính thức cho việc sử
dụng tài nguyên đôi khi khó đƣợc xác định. Do tính không chắc chắn của quyền
hƣởng dụng hoặc tiếp cận các tài nguyên ven biển thƣờng chỉ cho phép những cộng
đồng cƣ dân ven biển nghèo một chút lựa chọn ngoài trừ lấy những gì có thể lấy khi
có thể. Không có gì đảm bảo rằng cá con đƣợc giữ lại để lớn lên sẽ đem lại lợi ích
cho những ngƣời thực hiện bảo tồn, do đó không có sự khích lệ. Tuy nhiên, có thể
thấy rằng khi con ngƣời đƣợc khích lệ và có lý do để tin rằng đầu tƣ cho bảo tồn sẽ
mang lại lợi ích cho họ, họ sẽ bảo vệ môi trƣờng.

Mặc dù vùng ven biển hiện nay đƣợc xem là đang chịu tác động nghiêm trọng và
việc đánh bắt hải sản thƣờng đƣợc coi nhƣ phƣơng cách cuối cùng thì năng suất
tiềm năng có thể đạt lại đƣợc và hỗ trợ cho phúc lợi của nhân dân địa phƣơng,
những vùng năng suất cao có thể tiếp tục hỗ trợ nhiều cộng đồng ven biển nhƣng
việc kiểm soát và quản lý phải đƣợc coi là điều cốt yếu.



14
Xây dựng nguồn nhân lực
Xây dựng nguồn nhân lực nghĩa là tăng quyền lực cho cộng đồng thông qua giáo
dục, đào tạo và xây dựng tổ chức. Giáo dục bảo tồn hay giáo dục môi trƣờng là
phần quyết định của xây dựng nguồn nhân lực. Nó giúp cho việc tạo dựng sự hiểu
biết chung về những khía cạnh phức hợp và có liên quan với nhau của việc quản lý
tài nguyên thiên nhiên. Bằng cách nhấn mạnh những vấn đề địa phƣơng, giáo dục
môi trƣờng có thể tạo dựng đƣợc nhận thức và kỹ năng góp phần vào năng lực của
cả cá nhân và cộng đồng nhằm ảnh hƣởng đến những thay đổi.
Những ngƣời đứng đầu cộng đồng tạo dựng lòng tin của họ thông qua việc tích luỹ
kiến thức và kỹ năng. Nó cũng bao gồm việc xây dựng và đẩy mạnh khả năng tổ
chức của nhân dân (thí dụ đào tạo ngƣời đứng đầu của họ, mở rộng thành viên, lập
quỹ, kỹ năng cao, thiết lập hệ thống tổ chức, mạng lƣới làm việc). Tất cả những nỗ
lực trên đều nhằm đạt đƣợc sự độc lập và dựa vào chính mình của các tổ chức tại
cộng đồng cũng nhƣ toàn bộ cộng đồng.
Bảo vệ môi trường
Những sinh cảnh ven biển hỗ trợ tài nguyên ven biển. Một khi sinh cảnh bị suy
thoái hay huỷ hoại thì ngay lập tức sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến năng suất của tài
nguyên. Bảo vệ môi trƣờng tập trung vào sự phục hồi, cải thiện và bảo vệ các sinh
cảnh. Ví dụ: Thiết lập các khu bảo tồn, phục hồi và trồng lại rừng.
Bảo vệ môi trƣờng phải bao hàm cả các hệ sinh thái điển hình khác nhau vì chúng
đƣợc liên kết với nhau từ đầu nguồn đến cửa sông. Bảo vệ môi trƣờng có liên quan

chặt chẽ với những quy định và sự thực thi nghiêm ngặt luật môi trƣờng nhằm giảm
thiểu những tác động bất lợi của một số hoạt động dựa vào tài nguyên rừng.
Phát triển sinh kế bền vững
An toàn lƣơng thực là mối quan tâm hàng đầu của CBCRM. Phát triển sinh kế bền
vững đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm an toàn về kinh tế và lƣơng thực
cho cộng đồng. Sinh kế là điểm chủ chốt trong mối tƣơng tác giữa con ngƣời và tài



15
nguyên. Kiểu tƣơng tác này xác định việc sử dụng tài nguyên có bền vững hay
không.
Phát triển sinh kế bền vững có thể liên quan đến việc giới thiệu các sinh kế thay
thế, thúc đẩy những sinh kế hiện hữu, thay đổi hay cải thiện chúng và chiến dịch
chống những phƣơng pháp mang tính huỷ diệt. Thúc đẩy an toàn lƣơng thực cho hộ
gia đình và làng xã là một khía cạnh quan trọng của thành tố này.

Hình 1.1. Các thành tố của CBCRM

1.2. Tình hình nghiên cứu và áp dụng CBCRM trên thế giới, trong nƣớc và tại
khu vực nghiên cứu
Trên thế giới
Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng (CBNRM) nói chung và quản lý
tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng (CBCRM) nói riêng ngày càng trở thành
cách tiếp cận phổ biến trong quản lý tài nguyên thiên nhiên trong khoảng 2 thập kỉ
gần đây. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về CBNRM và CBCRM.
Phần lớn các nghiên cứu đều dựa trên việc xây dựng và triển khai thử nghiệm các
mô hình quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng trên thực tế. Mặc dù mỗi




16
mô hình đƣợc xây dựng đều có những đặc điểm riêng phụ thuộc vào vị trí địa lý,
tính cách của cộng đồng và tình trạng kinh tế - xã hội của khu vực, nhƣng về cơ
bản đều dựa trên những nguyên tắc chung của quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa
vào cộng đồng đã đề cập ở trên. Do đó, một số bài học kinh nghiệm chung có thể
đƣợc rút ra từ sự thành công cũng nhƣ thất bại của các mô hình này.
Gruber (2007) [21] đã đƣa ra 12 nguyên tắc tổ chức cho việc quản lý tài nguyên
thiên dựa vào cộng đồng một cách hiệu quả.
A) Huy động sự tham gia của các thành viên cộng đồng
B) Nguồn vốn xã hội và mối quan hệ cộng tác
C) Các nguồn lực và sự công bằng
D) Truyền thông và sự phổ biến thông tin
E) Nghiên cứu và phát triển thông tin
F) Trao quyền và xây dựng năng lực cộng đồng
G) Tính hợp pháp và sự tin tƣởng của các thành viên cộng đồng
H) Quan trắc, thông tin phản hồi và trách nhiệm
I) Đồng quản lý và lãnh đạo thích ứng
J) Quá trình ra quyết định có sự tham gia
K) Đặc điểm của cộng đồng: các tiền đề tối ƣu.
L) Sự hợp tác và giải quyết xung đột.
12 nguyên tắc này đƣợc rút ra trên cơ sở tham khảo kết quả của 23 công trình
nghiên cứu và sau đó đƣợc kiểm tra với 24 nghiên cứu trƣờng hợp (từ tài liệu Hội
thảo quốc tế của Ngân hàng Thế giới về Quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào
cộng đồng (1998)) về quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng đã đƣợc
thực hiện ở 23 nƣớc trên thế giới.



17

Elmer M. Ferrer và Cristi Marie C. Nozawa (1997) đã tổng kết và đƣa ra 7 hợp
phần quan trọng của CBCRM cũng nhƣ đúc rút các bài học kinh nghiệm tƣơng ứng
với từng hợp phần trong quá trình nghiên cứu và áp dụng CBCRM ở Philippines
nhƣ sau [19]:
(i)- Tổ chức cộng đồng (C.O.) và tạo lập sự lãnh đạo
 Sự tham gia của cộng đồng là yếu tố quyết định đối với CBCRM
 Các chƣơng trình/dự án CBCRM phải thể hiện đƣợc kết quả và lợi ích gắn
bó của cộng đồng ở giai đoạn đầu của chƣơng trình/dự án.
 Tăng quyền lực cho cộng đồng địa phƣơng là nhân tố cực kỳ quan trọng đối
với CBCRM.
(ii)- Nghiên cứu có sự tham gia
 Không một hợp phần nào của CBCRM hoạt động một cách độc lập.
 Nâng cao kiến thức về tài nguyên môi trƣờng phải thực sự liên quan với các
thành viên cộng đồng/các bên liên quan.
(iii)- Giáo dục và đào tạo
 Tạo lập sự lãnh đạo và nhận thức về môi trƣờng là những yếu tố yếu quyết
định đối với CBCRM.
 Sự định hƣớng lại các giá trị của các cấp chính quyền địa phƣơng là cực kỳ
quan trọng và là nhu cầu cấp bách cho việc định hƣớng lại mục tiêu chính trị
theo hƣớng ủng hộ bảo tồn tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng.
(iv)- Quản lý tài nguyên
 Cần thiết phải xem lại hoặc đánh giá tính hiệu quả của các công nghệ tăng
cƣờng nơi cƣ trú đƣợc sử dụng nhƣ là những công cụ quản lý đới bờ.
(v)- Phát triển sinh kế
 CBCRM phải góp phần cải thiện sinh kế của cộng đồng địa phƣơng.



18
 Các hoạt động sinh kế không nên đƣợc sử dụng nhƣ là phƣơng tiện để kêu

gọi sự tham gia của cộng đồng.
(vi)- Tăng cường sự đa dạng và bảo tồn bản sắc văn hóa
(vii)- Mạng lưới và tăng cường tiếng nói của cộng đồng.
 Các sáng kiến dựa vào cộng đồng cần có đƣợc các mối liên hệ và sự hỗ trợ từ
bên ngoài.
 Hiệu lực của pháp luật là tối quan trọng trong quản lý tài nguyên ven biển.
Philippines là một trong những nƣớc đã triển khai nghiên cứu và áp dụng nhiều
chƣơng trình/dự án CBCRM nhất trên thế giới và cũng là nƣớc có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực này. Một trong những tài liệu đầy đủ và có hệ thống nhất về
quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng là bộ sách “Các phương pháp
tham gia trong quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng” do Viện Tái thiết
Nông thôn Quốc tế (IIRR), Philippines ấn hành năm 1998 và đã đƣợc Trung tâm
Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trƣờng, Đại học Quốc gia Hà Nội dịch sang tiếng
Việt. Nội dung bộ sách này bao gồm các khái niệm, các nguyên tắc, các thành tố và
trọng tâm là các phƣơng pháp tham gia trong quản lý tài nguyên ven biển dựa vào
cộng đồng. Bộ sách là sự chắt lọc kinh nghiệm từ các mô hình quản lý bảo tồn dựa
vào cộng đồng đã đƣợc triển khai trên thực tế.
Hiện nay, CBCRM đang là hƣớng nghiên cứu, tiếp cận có hiệu quả đối với nhiều
nƣớc trên thế giới, đặc biệt là các nƣớc đang phát triển. Một số mô hình quản lý bảo
tồn dựa vào cộng đồng đã đƣợc triển khai thành công trên thực tế, điển hình nhƣ Dự
án trồng lại rừng ngập mặn Buswang ở Kalibo, Philippines; dự án rừng cộng đồng ở
tỉnh Trang, thuộc Tây nam Thái Lan do một tổ chức phi chính phủ địa phƣơng
mang tên Yad Fon thực hiện [6]. Sự thành công của các mô hình này đã cho thấy
một nguyên tắc chung là cộng đồng phải đƣợc tham gia ngay từ đầu của quá trình
quy hoạch, thực hiện và giám sát của việc quản lý tài nguyên, nếu không thì những



19
chƣơng trình về bảo tồn và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên bao gồm cả tài

nguyên ven biển sẽ không thể thành công.
Ở Việt Nam
Trong khoảng hơn một thập kỉ qua, các cơ quan khoa học và cơ quan quản lý nhà
nƣớc về tài nguyên môi trƣờng đã thực hiện một số chƣơng trình, dự án liên quan
đến bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng, trong đó có các chƣơng trình về
CBCRM. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trƣờng, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Viện Địa lý, Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia và một số
cơ quan khoa học trong nƣớc và quốc tế đã tiến hành điều tra, khảo sát bƣớc đầu về
xây dựng mô hình bảo tồn ĐDSH, bảo vệ môi trƣờng, phát triển kinh tế - xã hội ở
một số địa điểm nhƣ: dự án Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên dựa vào cộng đồng -
điểm trình diễn tại Sóc Sơn, Hà Nội; Tiền Hải, Thái Bình; sử dụng bền vững tài
nguyên sinh học ở phá Tam Giang, Thừa Thiên Huế; Nghĩa Hƣng, Nam Định;
Một số chƣơng trình, dự án đã đƣợc thực hiện khá thành công, góp phần bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên đồng thời cải thiện đƣợc sinh kế cho ngƣời dân địa phƣơng. Một
số chƣơng trình, dự án tiêu biểu:
Chương trình trồng lại rừng ngập mặn ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (1996) [6]
Chƣơng trình đƣợc khởi xƣớng với sự hỗ trợ của cán bộ thuộc Trung tâm Nghiên
cứu Rừng ngập mặn (MERC). Cây ngập mặn đã đƣợc trồng trên 250 ha đất bãi bồi
phía bên ngoài đê biển mới đắp. Những mục tiêu chính của chƣơng trình này bao
gồm:
 Củng cố toàn bộ đê biển đã đƣợc đắp do sự hỗ trợ tài chính của OXFAM;
 Giúp những ngƣời dân nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo đƣợc tiếp cận với sử
dụng đất;
 Tạo nhận thức môi trƣờng qua sự tham gia tích cực vào dự án và bảo tồn,
duy tu dài hạn đối với khoảnh rừng ngập mặn riêng của họ;



20
 Cải thiện môi trƣờng thủy sản bằng cách cung cấp nơi sinh sản cho tôm, cua,

cá, và qua đó tạo thu nhập khá hơn cho dân làng nói chung và phụ nữ nói
riêng.
Để đạt đƣợc những mục tiêu này một nhóm cán bộ có kinh nghiệm của MERC đã
tập huấn tại chỗ cho dân làng về cách thu hái quả và trồng cây ngập mặn. Ban đầu
tiến hành tập huấn cho một nhóm hạt nhân (khoảng 20 ngƣời) đƣợc tuyển chọn từ
các xã với sự ƣu tiên cho phụ nữ (hình thức tập huấn cho những ngƣời tập huấn -
training of trainers). Những thành viên của nhóm này sau đó sẽ tập huấn cho những
ngƣời dân bình thƣờng ngay tại nơi trồng rừng của họ.
Một số loài cây ngập mặn đƣợc lựa chọn để trồng lại nhƣ Trang (Kandelia), Đƣớc
(Rhizophora), Vẹt (Bruguira), Mắm (Avicennia), Bần (Sonneratia) và một vài loài
khác. Trồng lại cây ở những nơi mà cây non đã bị chết phải đƣợc thực hiện theo
cách xen kẽ, chẳng hạn ở nơi này chỉ trồng Đƣớc vào một mùa và mùa sau sẽ trồng
Trang. Sự đa dạng loài này sẽ tăng đa dạng sinh học và năng suất của khu vực.
Hợp tác với MERC và các tổ chức khác, OXFAM đã công bố ba loại hình sách tập
huấn để giúp đẩy mạnh giáo dục quần chúng về những nội dung có liên quan. Hai
loại sách dành cho trẻ em và đƣợc sử dụng nhƣ sách giáo khoa trong các trƣờng của
huyện.
Chƣơng trình này đã đem lại niềm hy vọng mới cho ngƣời dân địa phƣơng. Nhằm
khuyến khích những ngƣời dân tham gia vào chƣơng trình này ngay từ đầu, Chính
phủ đã cấp đất cho họ. Quyền sở hữu đất cho mỗi hộ gia đình tham gia đã đƣợc Chủ
tịch UBND huyện ký và ngƣời dân sẽ có trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ rừng vì
đó là tài sản của họ. Ngoài bảo vệ của các cá nhân, mỗi xã còn cử ra một đội bảo vệ
rừng ngập mặn. Những thành viên của đội sẽ đƣợc trả lƣơng nhờ quỹ thu đƣợc từ
phí bảo vệ đê do ngƣời dân tự đóng góp. Mô hình đắp đê và trồng cây ngập mặn
này hiện đã đƣợc nhân rộng ra những xã lân cận trong huyện Kỳ Anh. Báo cáo tổng
kết của chƣơng trình đã khẳng định một trong những điểm quan trọng nhất làm cho
dự án trở nên bền vững là sự tham gia đầy đủ và tích cực của nhân dân địa phƣơng.

×