Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty Cổ phần quảng cáo thiết kế Phong Cách Mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.17 KB, 48 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 2
LỜI MỞ ĐẦU 1
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
MỤC LỤC 1
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU 2
LỜI MỞ ĐẦU 1
LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách đổi mới mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp chuyển sang cơ chế thị trường đã làm cho nền kinh tế Việt Nam chuyển biến
mạnh mẽ. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà nền kinh tế hàng hoá ngày càng
phát triển mạnh, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, quyết liệt thì sự đứng
vững và khẳng định vị thế của một doanh nghiệp trên thị trường là một điều cực kỳ
khó khăn.
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh
trong cơ chế thị trường đều phải chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan,
trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại
và phát triển được trên thị trường thì phải không ngừng nỗ lực áp dụng khoa học kỹ
thuật để nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm… Có như vậy, doanh
nghiệp mới thu hút được khách hàng đồng thời chiến thắng được các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp đã trở thành một vấn đề quan trọng hàng đầu mà bất cứ doanh nghiệp nào
cũng phải quan tâm.
Với ý nghĩa đó và sau một thời gian thực tập tại công ty Cổ phần Quảng cáo
thiết kế Phong Cách Mới, tôi đã chọn và hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình
với đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty
Cổ phần quảng cáo thiết kế Phong Cách Mới”.
Nội dung bài luận văn được chia thành 3 chương :
- Chương I: Những vấn đề chung về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp


quảng cáo thiết kế.
- Chương II : Thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty Cổ phần quảng
cáo thiết kế Phong Cách Mới
- Chương III : Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty Cổ
phần quảng cáo thiết kế Phong Cách Mới.
Trong quá trình thực tập thời gian ngắn, và hạn chế về mặt kinh nghiệm và
1
kiến thức chuyên môn không tránh khỏi sai sót, rất mong được sự góp ý của thầy
giáo để bản báo cáo được hoàn thiện hơn.
Xin cảm ơn thầy giáo GS.TS Hoàng Đức Thân cùng toàn thể cán bộ công
nhân viên trong công ty đã giúp sinh viên hoàn thành bản báo cáo này.
Xin chân thành cảm ơn !
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP QUẢNG CÁO THIẾT KẾ
1.1. Đặc điểm của doanh nghiệp quảng cáo thiết kế
1.1.1. Đặc điểm sản phẩm dịch vụ quảng cáo thiết kế
Doanh nghiệp quảng cáo thiết kế thường kinh doanh những mặt hàng sau là
chủ yếu:
+ In ấn các loại tờ rơi, tờ gấp, giấy mời, catalogue, profile, brochuae, phong bì
thư, cacvidit, các ấn phẩm phục vụ cho văn phòng.
+ Tư vấn và hỗ trợ tổ chức sự kiện. Trang trí các hội thảo, hội nghị, hội nghị
khách hàng, các lễ đón nhận danh hiệu
+ Sản xuất và in túi xách giấy dùng trong các hoạt động thương mại, xuất nhập
khẩu, quà tặng, hội nghị, hội thảo Cung cấp và in các loại quần áo đồng phục cho
cơ quan, trường học, quần áo khuyến mại
+ Sản xuất và thi công các loại biển quảng cáo: Pano tấm lớn, biển bạt, biển
đồng, inox, biển chuyển hình
Các sản phẩm trên có đặc điểm là chi phí cho máy móc thiết bị, nhân công

không quá cao. Sản phẩm của công ty quảng cáo là các sản phẩm dịch vụ là chính,
quá trình sản xuất rất ít. Nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất cũng rất dễ mua và
giá cả hợp lý, đối tượng khách hàng đông đảo.
1.1.2. Đặc điểm loại hình doanh nghiệp quảng cáo thiết kế
Doanh nghiệp quảng cáo thiết kế ở Việt Nam hầy như tuổi đời còn non trẻ,
các kĩ thuật, máy móc thiết bị chưa nhiều và hiện đại. Các doanh nghiệp làm quảng
cáo Việt Nam rất nhanh chóng nắm bắt được các kỹ thuật, công cụ, máy móc tạo
mẫu chế bản. Chẳng bao lâu, chúng ta đã có thể dễ dàng tạo ra những mẫu quảng
cáo đẹp và bắt mắt. Hiện nay, một số hãng quảng cáo nước ngoài tại Việt Nam hoạt
động rất yếu kém và không hiệu quả. Do bế tắc về ý tưởng, họ thường nhờ công ty
quảng cáo Việt Nam nghĩ giúp và thực hiện mẫu quảng cáo cho khách hàng của họ.
3
Khi mẫu quảng cáo được duyệt, đương nhiên là công ty QC nước ngoài được hưởng
phần lớn lợi nhuận. Các công ty quảng cáo Việt Nam - là nhà cung ứng dịch vụ thực
sự - thì chỉ được hưởng số lẻ của lợi nhuận thu được.
Có một bức tường vô hình mà các công ty quảng cáo Việt Nam khó vượt qua
được – đó chính là cách nghĩ và cách làm theo kiểu dựa trên các quan hệ cá nhân,
qui mô nhỏ và hoàn toàn không theo các qui trình chuyên nghiệp.
Ở hầu hết các công ty quảng cáo của Việt Nam, dựa trên đơn đặt hàng của
bạn, thường các nhân viên thiết kế sẽ chúi đầu vào tìm trong thư viện ảnh lưu trữ
một hình nào đó hay hay, có vẻ phù hợp rồi gắn sản phẩm của bạn vào đấy. Nếu
mẫu thiết kế đó đẹp đẽ, chỉn chu thì bạn có thể phải trả đến vài triệu đồng cho công
thiết kế tạo mẫu.
Hiện chỉ có một số rất ít công ty quảng cáo có được những chuyên viên quảng
cáo giỏi. Đa số họ là nhân viên cũ của những công ty, những tập đoàn quảng cáo đa
quốc gia, nay đã nghỉ việc và ra mở công ty riêng. Trong chừng mực nào đó, họ có
được những kỹ năng của một người làm quảng cáo chuyên nghiệp. Tuy nhiên, họ
không thể bù đắp được vào lỗ hổng lớn mà các công ty quảng cáo của Việt Nam
luôn thiếu: Một “Hệ thống Quản lý” chuẩn mực với các qui trình làm quảng cáo
chuyên nghiệp.

1.2. Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế đối với các doanh nghiệp quảng
cáo thiết kế
1.2.1. Khái quát về khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Bong bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ
cấp rồi phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính mà hậu quả là tình trạng
đói tín dụng ảnh hưởng tới khu vực kinh tế thực. Vỡ bong bóng nhà ở cũng dẫn tới
suy giảm tiêu dùng cá nhân ở Hoa Kỳ. Sự bất trắc trong đời sống kinh tế và kinh
doanh càng làm cho tiêu dùng và sản xuất bị hạn chế. Ba nhân tố này gây ra suy
thoái kinh tế ở Hoa Kỳ từ năm 2008. Nhiều nước trên thế giới có các tổ chức tài
chính đã tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Khi các tổ chức
tài chính này bị thua lỗ, tình trạng rối loạn tài chính, thậm chí là khủng hoảng tài
4
chính đã xảy ra ở nhiều nước khiến cho các nước này rơi vào suy thoái kinh tế hoặc
suy giảm tốc độ tăng trưởng. Do Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản là những thị trường
xuất khẩu quan trọng của nhiều nước đang phát triển (nhất là khu vực Đông Á) nên
suy thoái và suy giảm tăng trưởng kinh tế từ thế giới phát triển đã làm giảm xuất
khẩu của các nước đang phát triển. Đồng thời, vì các nước phát triển là nguồn cung
cấp các khoản vay ngân hàng, các khoản vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp cho các
nước đang phát triển, nên khi các nước phát triển dừng cho vay, dừng giải ngân hay
rút vốn về, nhiều nền kinh tế đang phát triển đã bị tác động tiêu cực nghiêm trọng.
Giảm sản xuất trên quy mô toàn cầu dẫn tới giảm lượng cầu về năng lượng và
nguyên liệu, khiến cho các nước xuất khẩu dầu và nguyên liệu bị giảm đáng kể
nguồn thu từ xuất khẩu các yếu tố này. Vì thế, suy thoái và suy giảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế lan sang cả các nước xuất khẩu dầu mỏ ở Trung Đông, Nam Mỹ,
Trung Á và Nga vốn được lợi suốt một thời gian khá dài từ giá dầu tăng.
Để ngăn chặn suy giảm tăng trưởng, khôi phục kinh tế, hầu hết các nước bị tác
động đã áp dụng tích cực chính sách kích thích kinh tế, đặc biệt là kích cầu, khiến
cho có nhiều quan điểm khẳng định sự trở lại của chủ nghĩa Keynes. Sự hợp tác
quốc tế thông qua diễn đàn G20 đã làm tăng vị thế của các nước đang phát triển,
nhất là của Trung Quốc.

Đến giữa năm 2009, dấu hiệu phục hồi kinh tế đã bắt đầu thấy ở các nước bị
tác động.
1.2.2. Tác động của khủng hoảng kinh tế đến kinh doanh của các công ty
quảng cáo thiết kế
Khủng hoảng kinh tế làm cho thu nhập của người dân giảm sút đáng kể, doanh
nghiệp không kiếm được lợi nhuận và thậm chí có thể doanh thu âm. Do vậy người
tiêu dùng họ sẽ thắt chặt chi tiêu và hạn chế tiêu dùng một cách tối thiểu nhất,
doanh nghiệp cũng sẽ giảm chi phí tối đã để mong sống sót qua cơn khủng hoảng.
Do vậy. Ngành quảng cáo cũng bị ảnh hưởng nặng nề, doanh thu sụt giảm trong khi
đó nếu không thay đổi thì chi phí vận hành máy móc thiết bị, chi phí quản lý doanh
nghiệp vẫn sẽ tăng lên đều đặn và làm cho doanh nghiệp thua lỗ, dễ bị phá sản.
5
Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế cũng là điều cần thiết để thanh lọc các doanh
nghiệp yếu kém, thiếu sức cạnh tranh ra khỏ i thị trưởng, doanh nghiệp nào có thể
vượt qua được khủng hoảng, đến giai đoạn phục hồi trở lại, các doanh nghiệp và
người tiêu dùng lao động sản xuất trở lại thì nhu cầu về quảng cáo, in ấn, tổ chức sự
kiện sẽ càng trở lên cần thiết hơn bao giờ hết để họ có thể tìm lại được thương hiệu
như trước khi khủng hoảng xáy ra.
1.2.3. Khó khăn của các công ty quảng cáo hiện nay
- Điểm yếu của các công ty quảng cáo Việt Nam trong việc tạo ra các quảng
cáo giá trị cao là thiếu những người làm quảng cáo chuyên nghiệp và thiếu các quy
trình chuyên nghiệp.
- Vốn của các doanh nghiệp quảng cáo hiện nay không nhiều và khó khăn cho
việc chi trả các chi phí trong thời gian kinh tế khó khăn như hiện nay.
- Trình độ máy móc kĩ thuật của các doanh nghiệp quảng cáo hiện nay là chưa
theo kịp với sự phát triển của công nghệ.
- Nhà Nước và các cấp chính quyền chưa có quy định cụ thể rõ ràng về ngành
và còn chưa thực sự quan tâm sát đến vấn đề chung của ngành quảng cáo.
- Đội ngũ nhân viên còn thiếu ý tưởng, và chưa có sự sáng tạo mang phong
cách riêng cho từng đơn hàng quảng cáo thiết kế

1.3. Chỉ tiêu đánh giá và nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp quảng cáo thiết kế
1.3.1. Yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp
có thể tự duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh,
đảm bảo việc thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc tài trợ
những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời thực hiện được những mục tiêu mà
doanh nghiệp đề ra.
Nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường mà không có khả năng cạnh tranh
hay khả năng cạnh tranh yếu hơn các đối thủ của nó thì sẽ rất khó khăn để tồn tại và
phát triển được, quá trình duy trì sức mạnh của doanh nghiệp phải là quá trình lâu
6
dài và liên tục. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là cơ sở để đảm bảo khả
năng duy trì lâu dài sức mạnh cạnh tranh đó. Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp bao gồm :
Thứ nhất, đó là trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Tổ chức quản lý tốt
trước hết là áp dụng phương pháp quản lý hiện đại đã được doanh nghiệp của
nhiều nước áp dụng thành công như phương pháp quản l ý theo tình huống,
quản lý theo tiếp cận quá trình và tiếp cận hệ thống, quản lý theo chất lượng
như ISO 9000, ISO 1400.
Thứ hai là yếu tố nguồn lực của doanh nghiệp bao gồm nguồn nhân lực,
nguồn vốn và trình độ khoa học công nghệ. Nhân lực là một nguồn lực rất quan
trọng vì nó đảm bảo nguồn sáng tạo trong mọi tổ chức Bên cạnh nguồn nhân
lực, vốn là một nguồn lực liên quan trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là doanh nghiệp
có nguồn vốn dồi dào, luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện
cần thiết, có nguồn vốn huy động hợp lý, có kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả để
phát triển lợi nhuận và phải hạch toán các chi phí rõ ràng để xác định được hiệu
quả chính xác. Một nguồn lực nữa thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là trình độ công nghệ. Công nghệ hiện đại là công nghệ sử dụng ít nhân

lực, thời gian tạo ra sản phẩm ngắn, tiêu hao năng lượng và nguyên liệu thấp,
năng suất cao, tính linh hoạt cao, chất lượng sản phẩm tốt, ít gây ô nhiễm môi
trường. Sử dụng công nghệ hiện đại giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động,
giảm giá thành, chất lượng sản phẩm, do đó làm cho năng lực cạnh tranh của
sản phẩm tăng.
Yếu tố thứ ba cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực
cạnh tranh của sản phẩm . Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản
phẩm đó bán được nhiều và nhanh chóng trên thị trường có sản phẩm tương tự.
Nó bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: chất lượng, giá cả sản phẩm, thời gian cung
cấp, dịch vụ đi kèm, điều kiện mua bán, danh tiếng và uy tín
Yếu tố thứ tư là khả năng liên kết vả hợp tác với doanh nghiệp khác và hội
7
nhập kinh tế quốc tế. Một doanh nghiệp tồn tại trong mối liên hệ nhiều chiều
với các đối tượng hữu quan trong môi trường kinh doanh
Yếu tố thứ năm là năng lực suất sản xuất kinh doanh. Năng suất có liên
quan đến việc sử dụng toàn bộ tài nguyên không chỉ bao gồm vấn đề chất
lượng, chi phí giao hàng mà còn bao gồm cả những vấn đề rộng hơn như là vấn đề
môi trường, xã hội…
Yếu tố thứ sáu là uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp được hình thành
trong cả một quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì theo đuổi mục tiêu và chiến
lược đúng đắn. Thương hiệu trước hết được xây dựng bằng con đường chất
lượng: chất lượng của hệ thống quản lý, của từng con người trong doanh nghiệp,
chất lượng sản phẩm doanh nghiệp sản xuất cung cấp cho thị trường.
1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể dựa vào một
số chỉ tiêu sau:
- Thị phần của doanh nghiệp/ thị phần của các đối thủ cạnh tranh
Là một chỉ tiêu hay được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Người ta thường xem xét các loại thị phần sau:

- Thị phần của công ty so với toàn bộ thị trường: đó chính là tỷ lệ % giữa
doanh số của công ty so với doanh số của toàn ngành.
- Thị phần của công ty so với phân khúc mà nó phục vụ: đó là tỷ lệ % giữa
doanh số của công ty so với doanh số của toàn khúc.
- Thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của công ty so với đối
thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của sản phẩm trong cạnh tranh trên thị
trường như thế nào.
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang
đứng ở vị trí nào, và cần vạch ra chiến lược hành động như thế nào.
Ưu điểm: chỉ tiêu này đơn giản và dễ tính.
Nhược điểm: khó đảm bảo tính chính xác do khó thu thập được doanh số
8
chính xác của doanh nghiệp.
- Doanh thu/ doanh thu của các đối thủ mạnh nhất
Nếu sử dụng chỉ tiêu này người ta có thể chọn từ 2 đến 5 doanh nghiệp mạnh
nhất tuỳ theo lĩnh vực cạnh tranh khác nhau mà chọn khác nhau.
Chỉ tiêu này có ưu điểm đơn giản, dễ tính. Nhưng có nhược điểm là khó chính
xác vì mỗi lĩnh vực có doanh nghiệp đứng đầu khác nhau.
- Tỷ lệ chi phí Marketing/ tổng doanh thu
Đây là chỉ tiêu hiện nay được sử dụng nhiều để đánh giá khả năng cạnh tranh
cũng như hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
Thông qua chỉ tiêu này mà doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động của
mình. Nếu chỉ tiêu này cao có ý nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiêu vào chi
phí cho công tác Marketing mà hiệu quả không cao.
Xem xét tỷ lệ: chi phí Marketing/ tổng chi phí ta thấy:
Tỷ lệ này cao chứng tỏ việc đầu tư cho khâu Marketing là tương đôí lớn, đòi
hỏi doanh nghiệp phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu. Có thê thay vì quảng cáo rầm rộ
công ty có thể đầu tư cho nghiên cứu và phát triển.
- Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng cạnh

tranh của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp ấy. Đó chính là: chênh lệch (giá bán- giá thành)/giá bán. Nếu chỉ tiêu này
thấp chứng tỏ cạnh tranh trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao
thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi.
1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.3.1. Các nhân tố chủ quan
•Nguồn nhân lực
Nhân lực là yếu tố quyết định đến sản xuất kinh doanh, nó bao gồm một số
nội dung chủ yếu sau:
• Ban giám đốc doanh nghiệp
Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người
9
vạch ra chiến lược, trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của
doanh nghiệp. Đối với những công ty cổ phần, những tổng công ty lớn, ngoài ban
giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp
quyết định phương hướng kinh doanh của công ty.
Các thành viên của ban giám đốc có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm
và khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại
cho doanh nghiệp không chỉ những lợi ích trước mắt như: tăng doanh thu, tăng lợi
nhuận mà còn uy tín lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp. Đây mới là yếu tố quan trọng
tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
• Đội ngũ cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp
Là những người quản lý chủ chốt có kinh nghiệm công tác, phong cách quản
lý, khả năng ra quyết định, khả năng xây dựng ê kíp quản lý và hiểu biết sâu rộng
lĩnh vực kinh doanh sẽ là một lợi thế quan trọng cho doanh nghiệp. Người quản lý
làm việc trực tiếp với nhân viên cấp dưới, với chuyên viên, vì vậy trình độ hiểu biết
của họ sẽ giúp họ nảy sinh những ý tưởng mới, sáng tạo phù hợp với sự phát triển
và trưởng thành của doanh nghiệp.
• Các cán bộ quản lý ở cấp phân xưởng, đốc công và công nhân

Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say nhiệt tình làm việc của họ
là yếu tố tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi khi tay
nghề cao kết hợp với lòng hăng say nhiệt tình lao động thì nhất định năng suất lao động
sẽ tăng trong khi chất lượng sản phẩm được bảo đảm. Đây là tiền đề để doanh nghiệp
có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
Muốn đảm bảo được điều này các doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo và đào
tạo lại đội ngũ người lao động của mình, giáo dục cho họ lòng nhiệt tình hăng say
và tinh thần lao động tập thể.
•Nguồn lực vật chất và tài chính
* Khả năng tài chính của doanh nghiệp
Quyết định đến việc thực hiện hay không thực hiện bất cứ một hoạt động đầu
10
tư, mua sắm hay phân phối của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tiềm lực về tài
chính sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư trang
thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng, hạ giá thành nhằm duy trì và nâng cao sức
mạnh cạnh tranh, củng cố vị trí của mình trên thị trường.
* Máy móc thiết bị và công nghệ
Tình trạng máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc đến
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất
thể hiện năng lực sản xuất của mỗi doanh nghiệp và tác động trực tiếp đến chất
lượng sản phẩm, đến giá thành và giá bán sản phẩm.
Có thể khẳng định rằng một doanh nghiệp với một hệ thống máy móc thiết bị
và công nghệ tiên tiến cộng với khả năng quản lý tốt sẽ làm ra sản phẩm có chất
lượng cao, giá thành hạ từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh. Ngược lại không một
doanh nghiệp nào mà được coi là có khả năng cạnh tranh cao trong khi trong tay họ
là cả một hệ thống máy móc thiết bị cũ kỹ với công nghệ sản xuất lạc hậu.
Ngày nay việc trang bị máy móc thiết bị công nghệ có thể được thực hiện dễ
dàng, tuy nhiên doanh nghiệp cần phải biết sử dụng với quy mô hợp lý mới đem lại
hiệu quả cao.
* Hệ thống mạng lưới phân phối của doanh nghiệp

Mạng lưới phân phối của doanh nghiệp được tổ chức, quản lý và điều hành
một cách hợp lý thì nó sẽ là một phương tiện có hiệu quả để tiếp cận khách hàng.
Doanh nghiệp thu hút khách hàng bằng cách trinh phục (hình thức mua bán, thanh
toán, vận chuyển) hợp lý nhất.
1.3.3.2. Nhân tố khách quan
- Các nhân tố kinh tế
Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước
Nhân tố này có tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói
chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện trong nền kinh tế mở.
Nếu đồng nội tệ lên, giá cả của doanh nghiệp trong nước giảm, khả năng cạnh tranh
ở nước ngoài kém, khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn
11
của các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá khuyến khích nhập
khẩu vì giá cả hàng nhập khẩu sẽ giảm và như vậy khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại khi
đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên thị
trường trong nước và thị trường nước ngoài vì khi đó giá bán hàng hoá sẽ giảm hơn
so với các đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất.
* Tốc độ tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh
toán của họ tăng dẫn đến sức mua tăng. Đây là cơ hội tốt cho các nhà doanh nghiệp,
nếu nhà doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu
cầu khách hàng (về mặt số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã) thì chắc chắn doanh
nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao.
* Lãi suất cho vay của các ngân hàng
Nhân tố này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp bởi vì vốn vay trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp là không thể thiếu. Khi lãi
suất cho vay của ngân hàng cao dẫn đến chi phí của các doanh nghiệp tăng lên do
phải trả tiền vay lớn hơn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp kém đi nhất là khi
các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh về vốn.

- Các nhân tố về chính trị pháp luật
Các nhân tố chính trị pháp luật có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Nó bao gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các
công cụ chính sách của nhà nước, tổ chức bộ máy điều hành của chính phủ và các tổ
chức chính trị xã hội.
Một thể chế chính trị ổn định, luật pháp rõ ràng, rộng mở sẽ là cơ sở cho việc
đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có hiệu
quả. Ví dụ các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh, đảm bảo sự bình đẳng
giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau và trên mọi lĩnh
vực; thuế xuất nhập khẩu cũng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp sản xuất trong nước.
12
Các yếu tố cơ bản của môi trường thành phần này được lưu ý là:
- Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển xã hội và nền kinh tế của Đảng
và Nhà nước.
- Chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện các quan điểm, mục tiêu của
Chính phủ và khả năng điều hành của Chính phủ.
- Mức độ ổn định chính trị – xã hội
- Thái độ và phản ứng của các tổ chức xã hội, của các nhà phê bình xã hội.
- Thái độ phản ứng của dân chúng.
- Môi trường kinh tế và công nghệ
Nhóm các yếu tố này ngày càng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi
trường cạnh tranh, tác động một cách quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đó là chất lượng và giá bán. Khoa
học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của các doanh nghiệp, qua đó tạo nên
khả năng cạnh tranh của sản phẩm nói riêng và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp nói chung. Hiện nay trên thế giới đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh
tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa
học công nghệ cao. Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp các cơ sở sản xuất trong
nước tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái

trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đây là tiền đề để
cácUdoanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
- Các nhân tố thuộc môi trường ngành
Môi trường ngành (môi trường tác nghiệp) là môi trường phức tạp nhất và
cũng ảnh hưởng nhiều nhất đến cạnh tranh. Sự thay đổi có thể diễn ra thường xuyên
và khó sự báo chính xác được, khác với môi trường vĩ mô, môi trường ngành không
được tổng hợp từ những quy định, quy luật mà nó đậm tính thời điểm nhất định.
Micheal Porter đã đưa ra khái niêm cạnh tranh mở rộng, theo đó cạnh tranh
trong một ngành phụ thuộc vào 5 lực lượng: Các đối thủ tiềm năng, sản phẩm thay
thế, người cung ứng, khách hàng và những đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành.
Bốn lực lượng đầu được xem như là các lực lượng bên ngoài và cuộc cạnh tranh
13
giữa các đối thủ cạnh tranh trong một ngành được xem là cạnh tranh quyết liệt nhất.
Sơ đồ 1.1: Các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành






Năm lực lượng cạnh tranh này kết hợp với nhau xác định cường độ cạnh tranh
và mức lợi nhuận ngành. Lực lượng nào mạnh nhất sẽ thống trị và trở thành trọng
yếu theo quan điểm xây dựng chiến lược.
- Các nhân tố tự nhiên
Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước, vị trí địa
lý, phân bố địa lý của các tổ chức kinh doanh. Các nhân tố này tạo ra những điều
kiện thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi sẽ giúp cho các doanh
nghiệp tiết kiệm được các chi phí (nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển…) do đó
tăng khả năng cạnh tranh. Hơn nữa vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện cho doanh

nghiệp khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường. Ngược lại những nhân tố tự
nhiên không thuận lợi sẽ tạo ra khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp tất sẽ bị thuyên giảm.
- Môi trường cạnh tranh
Cạnh tranh được xác định là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
14
Các đối thủ tiềm năng
Các đối thủ cạnh tranh trong ngành
Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại
Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ hiện tại
Người
mua
(khách
hàng)
Người
cung
ứng
Sản phẩm thay thế
Nguy cơ đe doạ từ những
người mới vào cuộc
Quyền lực
thương lượng
của người
cung ứng
Quyền lực
thương lượng
của người
mua
Nguy cơ đe doạ từ
các sản phẩm

thị trường với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn, ai thoả mãn tốt hơn nhu cầu, hiệu quả
tốt hơn thì người đó sẽ thắng, tồn tại và phát triển. Duy trì cạnh tranh bình đẳng và
đúng pháp luật là nhiệm vụ của Chính phủ. Trong điều kiện đó vừa mở ra các cơ
hội để doanh nghiệp kiến tạo hoạt động của mình vừa yêu cầu các doanh nghiệp
phải luôn vươn lên phía trước “vượt qua đối thủ”. Điều kiện để cạnh tranh và các
thành phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh để “vượt lên phía trước”
tạo ra môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp cần xác định cho
mình một chiến lược cạnh tranh hoàn hảo. Chiến lược cạnh tranh cần phản ánh
được các yếu tố ảnh hưởng của môi trường cạnh tranh bao quanh doanh nghiệp.
Các nhân tố chính của môi trường cạnh tranh bao gồm :
- Điều kiện chung về cạnh tranh trên thị trường
- Số lượng đối thủ
- Điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh
- Chiến lược sản xuất kinh doanh của các đối thủ
.
15
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN QUẢNG CÁO THIẾT KẾ PHONG CÁCH MỚI
2.1. Thực trạng khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần quảng cáo thiết
kế Phong Cách Mới.
Công ty đang cạnh tranh bằng các công cụ cạnh tranh sau :
- Cạnh tranh về giá cả :
Công ty sử dụng chính sách giá thấp làm công cụ cạnh tranh chính. Đối với
mặt hàng là dịch vụ quảng cáo thiết kế ngoài chất lượng và sự mới lạ trong phong
cách thì giá cả cũng là một yếu tố góp phần đi đến quyết định sư dụng của khách
hàng, đặc biệt là khi mức thu nhập của người tiêu dùng Việt Nam còn thấp. Công ty
sử dụng giá bán là công cụ cạnh tranh chủ yếu đối với các đối thủ cạnh tranh trên
thị trường. Các biện pháp mà công ty đã sử dụng để cạnh tranh về giá cả là làm
giảm giá thành đối với dịch vụ quảng cáo thiết kế và giảm các chi phí thương mại.

Đối với chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm, hình thành trả lương theo
sản phẩm đã góp phần tăng năng suất lao động. Trong cả sản xuất, thiết kế hạn chế
được thời gian máy chạy không tải làm chi phí cố định. Đồng thời công ty còn xác
định số lượng lao động tối ưu cho từng hoạt động. Công ty sử dụng các loại phương
tiện vận tải có trọng tải lớn sẵn có để chuyên chở hàng hoá đến các đại lý ở gần thay
vì thuê vận chuyển hoặc khuyến khích họ đưa phương tiện đến công ty trực tiếp
nhận hàng. Ở khâu quảng cáo, khuyến mại, chi phí thương mại vẫn được hạn chế.
Bằng các biện pháp làm giảm chi phí trên, giá thành và giá bán sản phẩm của
công ty thấp hơn tương đối so với các đối thủ cạnh tranh và đây là công cụ cạnh
tranh chủ yếu của công ty .
-Cạnh tranh về sản phẩm
Công ty tập trung duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có
trên thị trường. Chất lượng sản phẩm của công ty được duy trì và không ngừng nâng
cao.Quảng cáo, thiết kế là sản phẩm dịch vụ truyền thống của công ty có chất lượng
16
tốt, có phng cách mới, đặc trưng nên được khách hàng rất yêu thích và ưa chuộng.
Hiện nay, sản phẩm của công ty có uy tín trên thị trường và được tiêu thụ mạnh ở
thị trường miền Bắc . Chất lượng cũng như sự độc đáo trong phong cách của sản
phẩm luôn được người tiêu dùng tin tưởng. Xét riêng về mặt này, công ty gần như
có sức mạnh độc quyền trên thị trường niềm Bắc Bằng việc cải tiến chất lượng, đổi
mới dây chuyền sản xuất nên sản phẩm bắt đầu lấy cảm tình của người tiêu dùng.
- Hệ thống phân phối
Hiện nay, công ty vẫn đang tập trung thị trường chính ở thành phố Hà Nội, bởi
nơi đây có nhiều nhà máy, cửa hàng kinh doanh,… sức tiêu thụ ở đây rất lớn, và
còn nhiều tiềm năng mà công ty chưa khai thác hết tiềm năng đó. Ngoài ra, trên
định hướng chiến lược mở rộng thị trường của mình, công ty đã từng bước xây
dựng thị trường ở các tỉnh lân cận và có được những thành công nhất định và cũng
đã chiếm lĩnh được một phần thị trường ở đây. Tỉ lệ giữa các thị trường của công ty
được thể hiện qua biểu đồ một cách rõ ràng, Hà Nội vẫn là thị trường chính với hơn
64% , và 26% còn lại là ở các tỉnh lân cận.

Do vậy, những khách hàng ở khu vực Hà Nội sẽ được phục vụ một cách nhanh
chóng nhất và hoàn hảo nhất, các khách hàng ở những nơi xa hơn có thể chờ đợi
thời gian, tuy nhiên không quá lâu bởi công ty cũng có những cửa hàng uỷ quyền tại
những tỉnh lân cận. Thời gian tới công ty đang chú trọng mở rộng thị trường và qua
đó sẽ tăng thêm mật độ cũng như khả năng phục vụ của các cửa hàng ở thị trường
tiềm năng này.
- Dịch vụ sau bán hàng
Để nhằm tạo mối quan hệ thân thuộc với khách hàng cũ và tạo niềm tin, sự hài
lòng với khách hàng mới, công ty rất chú trọng công tác hậu mãi dịch vụ sau bán
hàng. Với sản phẩm của công ty là in ấn, quảng cáo, công ty có dịch vụ bảo hành
cho các sản phẩm in hỏng, in lỗi và các lỗi trong quá trình làm biển hiệu quảng cáo,
clip quảng cáo và tổ chức sự kiện trong thời gian từ 3 tháng đến 2 năm tuỳ theo sản
phẩm. Hiện nay công ty mới chỉ có 01 cửa hàng bảo hành, bảo trì, tư vấn khách
hàng ở ngay tại trụ sở văn phòng làm việc của công ty. Trong thời gian tới khi công
17
ty mở rộng thị trường thì công ty cũng cần mở thêm các cửa hàng bảo trì, bảo hành
ở những tỉnh thành lân cận này làm tăng thêm uy tín và hình ảnh cho công ty.
- Phương thức thanh toán
Để thuận tiện cho quá trình thanh toán, công ty rất linh hoạt khi áp dụng chính
sách thanh toán dưới nhiều hình thức : tiền mặt, chuyển khoản, giao dịch bằng vật
phẩm ngang giá theo thoả thuận, cho khách hàng nợ theo uy tín và trả lại công ty
khi cần thiết. Bằng những hình thức thanh toán này, công ty đã thu hút được các
khách hàng ở xa khi họ ngại, khó khăn trong việc thanh toán bằng tiền mặt, và các
khách hàng có nhiều đơn đặt hàng công ty có thể cho phép họ nợ và cộng dồn khi
nào đủ lớn thì công ty sẽ thanh toán một lần.
-Xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là hoạt động không thể thiếu ở một công ty quảng cáo.
Công ty đã có website riêng và mỗi khi có sản phẩm mới, tin tức mới công ty luôn
update lên trang chủ để khách hàng và đối tác có thể tìm kiếm nhiều thông tin hơn
và tìm đến làm ăn với doanh nghiệp. Công ty cũng đã tiến hành hình thức marketing

truyền thống, thông qua đó công ty sẽ đến trực tiếp những công ty, hộ kinh doanh
có nhu cầu sử dụng sản phẩm công ty và truyền đạt, giới thiệu về công ty mình để
làm ăn, trở thành khách hàng, đối tác. Hiện nay, công ty đang triển khai kế hoạch
cho một chiến dịch marketing với quy mô lớn hơn, qua đó công ty sẽ quảng cáo, PR
hình ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng và qua các bảng hiệu, tờ rơi.
Theo nhận định, đây là bước đi đúng đắn khi mà bối cảnh khách hàng thiên về
hướng tìm đến các doanh nghiệp có thương hiệu lớn khi họ tìm kiếm sản phẩm.
- Thị phần
Sản lượng là nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lợi nhuận của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ. Trong trường hợp giá cả không thay đổi, nếu sản phẩm tiêu thụ
tăng lên thì lợi nhuận cũng tăng lên và ngược lại. Bên cạnh đó sản lượng tiêu thụ
còn tác động không nhỏ đến chi phí doanh nghiệp , nếu ta xét trong thời gian ngắn
tức là quy mô của doanh nghiệp ổn định, chi phí cố định không thay đổi. Khi sản
lượng tăng lên sẽ làm cho chi phí tăng, đồng thời chi phí cho một sản phẩm giảm
18
xuống có nghĩa là giá thành một sản phẩm giảm và ngược lại. Nếu ta xét trong thời
gian dài, quy mô của doanh nghiệp thay đổi, chi phí cố định thay đổi, khi đó nếu
tăng sản lượng thì chi phí bình quân tăng lên vì phải mua thêm máy móc thiết bị,
xây dựng thêm nhà xưởng, thuê nhân công. Như vậy, khi sản lượng thay đổi không
chỉ làm lợi nhuận, chi phí biến đổi mà nó còn làm cho nhiều yếu tố khác cũng biến
đổi, trong đó có quy mô của doanh nghiệp và sự đáp ứng thoả mãn cho người tiêu
dùng trên thị trường trong và ngoài nước.
2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty cổ
phần quảng cáo thiết kế phong cách mới.
2.2.1. Yếu tố bên trong doanh nghiệp
-Năng lực về tài chính
Bảng 2.1 : Kết quả hoạt động kinh doanh công ty
ĐVT : Triệu đồng
Năm 2010 2011 2012 So sánh (%)
11 / 10 12 / 11

Tổng doanh thu 16.933,21 18.676,78 20.615.72 110,30 110,38
Nộp ngân sách 299,34 324,25 354,60 108,23 109,36
Lợi nhuận 864,56 936,51 1.024,12 108,33 107,35
Nguồn : Báo cáo KQKD Công ty
Qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh ta có thể thấy được doanh thu tăng đều
hàng năm, năm 2011 tăng lên hơn 1,7tỉ đồng tương đương 10,3% so với năm 2010,
bước sang năm 2012 doanh thu tăng lên 2tỉ đồng, tương đương 10,38% so với năm
2011. Qua đó, phản ánh được kinh doanh của công ty bán ra được nhiều sản phẩm
hơn, đây cũng là dấu hiệu tốt khi doanh thu cao công ty có thể kiếm lại nhiều lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
Về lợi nhuận, lợi nhuận của công ty là vừa phải so với quy mô của công ty và
doanh thu đạt được. Lợi nhuận công ty cũng tăng đều hàng năm, từ hơn 800 triệu
năm 2010 đã tăng lên hơn 1 tỉ đồng năm 2012. Lợi nhuận tăng, đây là động lực cho
công ty đầu tư, mở rộng thị trường sau này.
19
Doanh thu ổn định và lợi nhuận cũng tăng đều hàng năm, công ty luôn thực
hiện nghĩa vụ đóng thuế đúng hạn đối với Nhà nước. Cụ thể năm 2010 công ty đã
nộp thuế gần 300 triệu đồng, năm 2012 công ty nộp thuế 354 triệu đồng. Thuế công
ty nộp đúng với sổ sách và các chứng từ liên quan.
Bảng 2.2: Bảng cơ cấu vốn và nguồn vốn của công ty
ĐVT: ngàn đồng
Chỉ tiêu
2010 2011 2012
Số liệu % Số liệu % Số liệu %
Bố trí cơ cấu tài sản(TS): 9.124.645 100 10.145.792 100 12.509.728 100
+ TSCĐ/ Tổng TS 1.368.669 15 2.424.784 17 2.937.237 23
+ TSLĐ/ Tổng TS 7.755.796 85 7.721.008 83 9.572.491 77
Bố trí cơ cấu nguồn vốn 9.124.465 100 10.145.792 100 12.509.728 100
+ Nợ phải trả/Tổng NV 6.660.859 73 7.609.344 75 9.227.393 76
+ Vốn CSH/ Tổng NV 2.463.605 27 2.536.448 25 3.282.335 24

( Nguồn: Phòng tài chính - kế toán)
Ta thấy được tổng giá trị tài sản năm 2010 là thấp nhất với số tiền là 9,1 tỉ
đồng, sang năm 2012 tổng giá trị tài sản tăng mạnh lên 12,5 tỉ đồng, cao hơn năm
2009 hơn 3 tỉ đồng tương đương với tăng 14,59%. Sự tăng nhanh chóng này chủ
yếu do tăng tài sản lưu động với hơn 1,75 tỉ, qua đó thể hiện được rằng quy mô kinh
doanh của công ty năm 2012 tăng lên hơn 15% so với năm 2010.
Qua bảng trên ta thấy, tổng nguồn vốn tăng lên trong năm 2011 phần lớn là do nợ
phải trả tăng gần 1 tỉ đồng, trong khi đó vốn chủ sở hữu chỉ tăng 70 triệu. Trong năm
2012, tổng số nguồn vốn tăng thêm hơn 2 tỉ đồng là do nợ phải trả tăng khoảng 1,6 tỉ,
trong khi đó vốn chủ sở hữu cũng tăng lên 7500 triệu so với năm 2011. Ta thấy nguồn
vốn chủ sở hữu liên tục tăng qua các năm. Đây là một điều khả quan đối với công ty vì
công ty có xu hướng tự chủ về tài chính, cho thấy công ty hoạt động có lãi. Tuy nhiên
năm 2012 để mở rộng hoạt động kinh doanh công ty đã tăng phần nợ phải trả lên quá
cao, điều này có thể làm cho chi phí tài chính tăng theo.
Với lợi nhuận thu được khoảng 1 tỉ đồng/năm, công ty hoàn toàn có khả năng
20
đầu tư cho các hoạt động nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp
minh, nhất là lĩnh vực quảng cáo là ngành nghề kinh doanh của công ty.
- Năng lực marketing – PR:
Giai đoạn đầu khi mới thành lập, công ty sử dụng hình thức Marketing truyền
thống. Bằng cách này, công ty đã đi khảo sát thị trường, phát hiện và tìm ra đâu là
nơi khách hàng có nhu cầu cần quảng cáo và đưa sản phẩm vào tiêu thụ ở thị trường
đó. Hình thức Marketing này mang lại kết quả đáng kể song chưa thực sự phát huy
hết tiềm năng vốn có của ngành quảng cáo.
Nhận thấy sự thay đổi cần thiết, công ty từng bước học hỏi và hiện nay đã và
đang áp dụng thành công chiêu thức Marketing hiện đại. Khác với hình thức
Marketing truyền thống, công ty đã tìm cách khơi dậy niềm hứng khởi, thích thú
sản phẩm quảng cáo từ khách hàng, từ đó kích thích nhu cầu của khách hàng và kết
quả mang lại đáng ngờ, nhiều doanh nghiệp tìm đến công ty hơn.
Hiện nay công ty đang từng bước hoàn thiện hơn hệ thống marketing với mục

tiêu làm đối tác lớn, tin cậy cho các công trình. Ngoài ra, sản phẩm công ty đặc thù
là sản phẩm mang tính hiện đại, đòi hòi nhiểu điểm độc đáo và mới lạ, bộ phận
Marketing đã nắm bắt được điều đó và liên tục đưa ra những ý tưởng mới, phát
triển các ý tưởng cũ, nhằm nhấn mạnh sự độc đáo, khác biệt mà sản phẩm mang lại,
và tạo ra một chiêu thức quảng cáo truyền miệng. Đó là hình thức Marketing thông
minh nhất, chi phí thấp mà hiệu quả rất cao, và công ty đang thực hiện mở rộng và
phát huy khả năng này.
- Tình hình phân phối sản phẩm :
Công ty nhận đơn hàng từ khắp mọi nơi trên đất nước, khi được thanh toán
trước bằng tiền mặt, chuyển khoản,… công ty sẽ có phương thức vận chuyển, giao
hàng tận nơi theo đúng yêu cầu của khách hàng. Quy trình giao hàng thuận lợi,
nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm.
- Năng lực kĩ thuật, trình độ:
Bảng 2.3 : Cơ cấu lao động trong doanh nghiệp
Năm 2012
21
Số lượng
(%)
Tỷ trọng
(%)
1. Tổng số cán bộ, công nhân viên 45 100
Cán bộ lãnh đạo 6 13,33
- Cán bộ làm KH - KT 10 22,22
- Cán bộ làm nghiệp vụ 9 20
- Công nhân, nhân viên 20 44,45
2. Trình độ 45 100
- Đại học 31 68,89
- Cao đẳng 9 20
- Trung cấp 5 11,11
3. Độ tuổi 45 100

22 – 30 18 40
31 – 40 21 46,67
41 – 45 6 13,33
Nguồn: Phòng nhân sự, hành chính công ty
+ Về độ tuổi:
Qua bảng ta nhận thấy ở công ty nổi bật nhất trong cơ cấu lao động đó là độ
tuổi các lao động ở đây còn rất trẻ. Số lượng lao động từ độ tuổi 22 – 30 chiếm
40%. Do đặc tính công việc, sản phẩm công ty kinh doanh đòi hỏi sức trẻ nhiều, sự
năng động, linh hoạt, nhanh nhẹn và chịu được điều kiện lao động, vì thế độ tuổi lao
động ở công ty dao động chỉ từ 22 – 45, với độ tuổi này, công ty sẽ hạn chế được
vấn đề nghỉ hưu cho nhân viên.
+ Về trình độ :
Hiện công ty đang sở hữu 45 công nhân với các trình độ kỹ sư, cử nhân, cao
đẳng và trung cấp với các vị trí khác nhau, kỹ sư có 18 người chiếm 40%; cử nhân
có 13 người chiếm 28,89%; cao đẳng có 9 người chiếm 20%; trung cấp có 5 người
chiếm 11,11%. Do tính chất ngành nghề, tỉ trọng kĩ sư trong công ty cao, đủ để đáp
ứng được yêu cầu đó. Các cử nhân, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh,
kế toán, và cao đẳng, trung học sẽ đảm nhiệm vị trí thực hiện, thi công các sản
phẩm đã được chuẩn bị từ trước từ bộ phận kĩ thuật.
- Máy móc thiết bị:
Công ty có mặt bằng kinh doanh là trong một toà nhà 4 tầng rộng 80M2.
22
Xưởng in, thiết kế ở tầng 1, khối kĩ thuật ở tầng 2, khối văn phòng và ban quan trị
tầng 3
- Máy móc thiết bị:
+ Máy tính, laptop: gồm 18 chiếc, được cài các phần mềm cần thiết
+ Máy in phun khổ lớn, nhỏ, in lưới: 5 chiếc.
+ Máy photocopy: 14 chiếc.
+ Máy xén giấy: 2 chiếc.
+ Ô tô vận tải : 1 chiếc.

Nhìn chung, Công ty có cơ sở vật chất vừa phải, đủ để hoạt động kinh doanh
cho các sản phẩm của mình.
2.2.2. Yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
- Khách hàng
Sản phẩm của công ty hướng tới là tất cả các đối tượng có nhu cầu sử dụng
biển quảng cáo, thiết kế quảng cáo qua các hình thức khác nhau. Nhưng thị trường
tập trung vào phân khúc chính là các nhà hàng, các shop thời trang và mĩ phẩm, các
công ty sản xuất kinh doanh.
- Nhóm khách hàng là khách sạn – nhà hàng : chiếm 25%
- Nhóm khách hàng là shop, cửa hàng kinh doanh: chiếm 20%
- Nhóm khách hàng là công ty sản xuất kinh doanh: chiếm 45%
- Nhóm khách hàng còn lại, cá nhân nhỏ lẻ: chiếm 10%
-Đối thủ cạnh tranh
Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp bao gồm đối thủ cạnh tranh trực tiếp và
đối thủ cạnh tranh gián tiếp. Có thể liệtkê ra hàng trăm doanh nghiệp quảng cáo
hoạt động mạnh trên thị trường, điển hình như : các đài truyền hình, công ty quảng
cáo GOLDSUN,…
Trên thị trường có rất nhiều các doanh nghiệp kinh doanh quảng cáo với mẫu
mã có phần giống nhau, hoặc giá cả có thể rẻ hơn, hoặc bằng nhau,… Việc này dẫn
đến thị trường bị xé nhỏ ra làm nhiều phần và công ty cần chú trọng để giành giật
từng mảng thị phần về cho mình trên tất cả các phương diện có thể : như cạnh tranh
giá cả, cạnh tranh về ý tưởng, cạnh tranh về ưu đãi, khả năng dịch vụ…
23

×