ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
KHOA LUẬT 
____________ 
 
 
 
 
NGUYỄN ĐÌNH HÀO 
____________ 
 
 
 
 
CÁC YÊU CẦU 
ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH 
 CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH 
 NHÀ NƢỚC VIỆT NAM 
 TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
 
 
 
 
 
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC 
__________________ 
 
 
 
 
 
   HÀ NỘI - 2002      
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
KHOA LUẬT 
____________   
NGUYỄN ĐÌNH HÀO 
____________    
CÁC YÊU CẦU 
ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH 
 CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH 
 NHÀ NƢỚC VIỆT NAM 
 TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY       
Chuyên ngành : Lý luận - Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật 
Mã số : 5.01.01   
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC 
______________  
Ngƣời hƣớng dẫn : TS. NGUYỄN CỬU VIỆT    
HÀ NỘI - 2002       
MỤC LỤC   
Số 
thứ 
tự 
NỘI DUNG 
Trang  
MỞ ĐẦU 
1 
1. 
Tính cấp thiết của đề tài 
1 
2. 
Tình hình nghiên cứu đề tài 
2 
3. 
Phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ của Luận văn 
3 
4. 
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
4 
5. 
Những điểm mới và ý nghĩa của Luận văn 
5 
6. 
Cơ cấu của Luận văn 
5  
Chƣơng 1 
KHÁI NIỆM QUYẾT ĐỊNH 
CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC   
6 
1.1. 
Quyết định quản lý nhà nƣớc 
6 
1.1.1. 
Khái niệm quyết định quản lý nhà nước 
6 
1.1.2. 
Bản chất của quyết định quản lý nhà nước 
11 
1.1.3. 
Các tính chất và đặc trưng của quyết định quản lý nhà nước 
12 
1.2. 
Phân loại quyết định quản lý nhà nƣớc 
14 
1.2.1. 
Phân loại theo tính chất pháp lý 
15 
1.2.2. 
Phân loại theo cơ quan ban hành 
21 
1.2.3. 
Phân loại theo trình tự ban hành 
26 
1.2.4. 
Phân loại theo hình thức ban hành 
27 
1.2.5. 
Phân loại theo các căn cứ khác 
28 
1.3. 
Thủ tục xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà 
nƣớc  
29 
1.3.1. 
Sáng kiến ban hành 
30 
1.3.2. 
Chuẩn bị dự thảo 
30 
1.3.3. 
Trình dự thảo lên cơ quan có thẩm quyền ban hành 
31 
1.3.4. 
Thảo luận và thông qua dự thảo ở cơ quan có thẩm quyền 
32 
1.3.5. 
Truyền đạt đến cơ quan và người thi hành 
33 
1.4. 
Quyết định quản lý nhà nƣớc trong hệ thống văn bản 
pháp luật của nhà nƣớc ta  
34 
1.4.1. 
Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ, 
Thủ tướng Chính phủ, cơ quan hành chính các cấp với nghị 
quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 
Ban cán sự Đảng Chính phủ, văn bản của cơ quan nhà nước 
cấp trên     
34 
1.4.2. 
Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ, 
Thủ tướng Chính phủ với các văn bản của Toà án nhân dân 
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao   
36 
1.4.3. 
Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của Chính phủ, 
Thủ tướng Chính phủ với quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ 
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, quyết định, chỉ thị của 
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương    
37 
1.4.4. 
Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của các Bộ, 
ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung 
ương với các quyết định của các Bộ, ngành khác và Uỷ ban 
nhân dân các cấp    
38 
1.4.5. 
Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân 
dân các cấp với quyết định pháp luật của Hội đồng nhân dân 
cùng cấp  
 39 
1.4.6. 
Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của các Bộ, 
ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp với quyết định pháp luật của 
toà án nhân dân   
40 
1.4.7. 
Quan hệ giữa quyết định quản lý nhà nước của các Bộ, 
ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp với quyết định pháp luật của 
viện kiểm sát nhân dân   
41  
Chƣơng 2 
NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH 
CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC 
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY    
43 
2.1. 
Các yêu cầu đối với quyết định quản lý nhà nƣớc 
46 
2.1.1. 
Các yêu cầu hợp pháp 
46 
2.1.2. 
Các yêu cầu hợp lý 
62 
2.1.3. 
Các yêu cầu đối với thủ tục xây dựng và ban hành quyết định 
quản lý nhà nước  
66 
2.2. 
Hậu quả không tuân thủ các yêu cầu đối với quyết định 
quản lý nhà nƣớc  
70 
2.2.1. 
Hậu quả không thủ các yêu cầu hợp pháp đối với nội dung và 
hình thức quyết định quản lý nhà nước  
70 
2.2.2. 
Hậu quả không tuân thủ các yêu cầu hợp pháp đối với thủ tục 
xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước  
73 
2.2.3. 
Hậu quả không tuân thủ các yêu cầu hợp lý 
74  
Chƣơng 3 
THỰC TRẠNG BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ 
NHÀ NƯỚC TRONG NHỮNG NĂM QUA VÀ 
PHƯƠNG HƯỚNG ĐẢM BẢO THỰC HIỆN TỐT CÁC 
YÊU CẦU ĐỐI VỚI QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ NHÀ 
NƯỚC     
77 
3.1. 
Thực trạng ban hành quyết định quản lý nhà nƣớc trong 
những năm qua  
77 
3.1.1. 
Những ưu điểm 
77 
3.1.2. 
Nhược điểm 
83 
3.1.3. 
Nguyên nhân 
103 
3.2. 
Phƣơng hƣớng đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu đối với 
quyết định quản lý nhà nƣớc  
109 
3.2.1. 
Phương hướng đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu về hợp 
pháp 
109 
3.2.2. 
Phương hướng đảm bảo tính hợp lý của quyết định quản lý 
nhà nước  
113 
3.2.3. 
Phương hướng nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công 
chức làm công tác tham mưu, soạn thảo, trình cơ quan có 
thẩm quyền ban hành quyết định quản lý nhà nước   
114  
KẾT LUẬN 
115  
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
117    
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Các cơ quan hành chính nhà nước là một hệ thống thống nhất từ trung 
ương đến địa phương, thực hiện chức năng quản lý nhà nước toàn diện mọi 
lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi cả nước. 
Nghị quyết của Quốc hội số 51/2001/NQ-QH10 ngày 25 tháng 12 năm 
2001 sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận quyết 
tâm của Đảng và Nhà nước ta xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam
[23, Đ. 1, K. 2]
. Đây là một quyết sách đúng đắn và kịp thời ở 
tầm hiến định về một vấn đề rất cơ bản và quan trọng trong thời đại ngày nay 
- vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền, khi mà cả nước ta đang trong giai 
đoạn tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu 
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 
Nhà nước pháp quyền là hệ thống các tư tưởng, quan điểm đề cao pháp 
luật, pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời 
sống xã hội. Xây dựng Nhà nước ta theo hướng nhà nước pháp quyền nhằm 
quản lý xã hội theo pháp luật và đề cao quyền con người, quyền công dân. 
Các cơ quan hành chính nhà nước ban hành các quyết định quản lý trên 
cơ sở pháp luật và để thi hành pháp luật. Ban hành các quyết định quản lý nhà 
nước là hình thức hoạt động chủ yếu của các cơ quan hành chính nhà nước. 
Thông qua các quyết định quản lý nhà nước, các cơ quan hành chính nhà 
nước đưa các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào 
cuộc sống, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, giáo dục, chăm sóc 
sức khoẻ người dân, bảo vệ môi trường, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an    
2 
toàn xã hội, phát triển quan hệ hợp tác mọi mặt với các nước trong khu vực, 
hội nhập quốc tế v.v 
Pháp luật nước ta đã qui định thẩm quyền ban hành quyết định quản lý 
nhà nước cho các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, pháp luật mới chỉ 
qui định thẩm quyền về nội dung, hình thức và thủ tục ban hành văn bản của 
các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, nhưng các qui định đó chưa 
đồng bộ, chưa thống nhất, chưa hoàn thiện. Do đó, hoạt động ban hành, thực 
hiện, kiểm tra việc thực hiện và tổng kết việc thực hiện quyết định quản lý 
nhà nước trong những năm qua còn nhiều vấn đề đặt ra. Đó là không ít các 
quyết định quản lý được ban hành không đúng thẩm quyền cả về hình thức và 
nội dung, không đúng thủ tục do pháp luật qui định, không có hoặc không đủ 
căn cứ pháp lý dẫn đến hậu quả là quyết định trái pháp luật, hoặc quyết định 
không có tính khả thi trên thực tế. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là 
các cơ quan hành chính nhà nước đã không tuân thủ các yêu cầu trong việc 
ban hành quyết định quản lý nhà nước. 
Từ những vấn đề đặt ra nói trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: 
"Các yêu cầu đối với quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước Việt 
Nam trong giai đoạn hiện nay". 
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
Cho đến nay, các vấn đề về văn bản pháp luật nói chung, văn bản qui 
phạm pháp luật nói riêng và đặc biệt, quy trình xây dựng và ban hành chúng 
đã được nghiên cứu nhiều lần bởi nhiều cơ quan nhà nước ở trung ương và 
địa phương (Quốc hội, Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố). 
Nhưng những nghiên cứu về các yêu cầu đối với quyết định quản lý nhà nước 
thì ít được quan tâm, kể cả cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học.    
3 
Ở nước ngoài, các tác giả Liên bang Nga như giáo trình Luật Hành 
chính Liên bang Nga xuất bản năm 1994
[1, tr. 145 - 150]
 cũng có đề cập về một 
số yêu cầu đối với các quyết định quản lý nhà nước nhưng chỉ trên bình diện 
chung. Viết tương đối có hệ thống về vấn đề này là Luận án tiến sỹ của Tiến 
Sỹ Nguyễn Cửu Việt (Chương III)
[2, tr. 118 - 191]
. Nhưng áp dụng cụ thể vào 
Việt Nam thì chưa có một công trình nào nghiên cứu kỹ về vấn đề này. 
Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc và có hệ thống các yêu cầu đối với 
quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một 
vấn đề cơ bản cả về lý luận và thực tiễn nhằm góp phần làm sáng tỏ nội dung 
các yêu cầu nói trên, phục vụ hiệu quả cho công tác soạn thảo, ban hành, thực 
hiện, kiểm tra việc thực hiện, tổng kết việc thực hiện các quyết định quản lý 
nhà nước. 
3. Phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ của Luận văn 
a) Phạm vi nghiên cứu 
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn về 
các yêu cầu đối với quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm 
các yêu cầu đối với hình thức và nội dung của quyết định quản lý nhà nước và 
các yêu cầu đối với thủ tục xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà 
nước. Để nghiên cứu các yêu cầu đối với quyết định quản lý nhà nước thì 
không chỉ quán triệt yêu cầu đối với hình thức và nội dung của quyết định 
(yêu cầu đối với bản thân quyết định) mà còn cả các yêu cầu đối với thủ tục 
xây dựng và ban hành quyết định. 
b) Mục đích nghiên cứu 
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là trên cơ sở phân tích rõ bản chất, 
vị trí, vai trò quyết định quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính từ    
4 
trung ương đến địa phương, thông qua việc nghiên cứu những quy định hiện 
hành của pháp luật và thực tiễn hoạt động xây dựng và ban hành quyết định 
quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương, 
từ đó rút ra kết luận và kiến nghị các phương hướng hoàn thiện chúng. 
c) Nhiệm vụ của Luận văn 
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của Luận văn là: 
- Làm rõ khái niệm, bản chất, phân loại quyết định quản lý nhà nước; 
thủ tục xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước; vị trí của quyết 
định quản lý nhà nước trong hệ thống pháp luật của nhà nước ta. 
- Xác định rõ các yêu cầu đối với các quyết định của cơ quan hành 
chính nhà nước trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta là các yêu cầu 
đối với hình thức, nội dung của quyết định quản lý nhà nước và các yêu cầu 
đối với thủ tục xây dựng và ban hành quyết định quản lý nhà nước trên cơ sở 
các quy định hiện hành của pháp luật về soạn thảo, ban hành quyết định của 
cơ quan hành chính nhà nước. 
- Nêu lên thực trạng bao gồm ưu điểm, nhược điểm, nguyên nhân của 
nhược điểm trong soạn thảo, ban hành, thực hiện quyết định quản lý nhà nước 
những năm qua để đưa ra một số phương hướng nhằm hoàn thiện các qui định 
của pháp luật về qui trình soạn thảo, ban hành quyết định của cơ quan hành 
chính nhà nước. 
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Phương pháp nghiên cứu được vận dụng là khảo sát thực tiễn ban hành 
quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và một số địa 
phương, xem xét các vấn đề liên quan trên cơ sở vận dụng tư duy biện chứng 
của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận nhà nước và pháp    
5 
luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật và nhà nước pháp 
quyền trong giai đoạn hiện nay. 
Ngoài ra, để thấy được tình hình ban hành quyết định ở các cơ quan 
khác nhau, tác giả đã áp dụng phương pháp so sánh để từ đó phân tích, tổng 
hợp và hệ thống hoá những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn trong công 
tác xây dựng và ban hành quyết định. 
5. Những điểm mới và ý nghĩa của Luận văn 
- Luận văn có những điểm mới sau đây: Đây là một luận án thạc sỹ lần 
đầu tiên nghiên cứu riêng và một cách có hệ thống, toàn diện về các yêu cầu 
đối với quyết định quản lý nhà nước; trong đó Luận văn đã phân tích, lý giải 
được các yêu cầu khác nhau đối với thủ tục xây dựng và ban hành các loại 
quyết định khác nhau trong thực tiễn quản lý nhà nước hiện nay. 
- Ý nghĩa của Luận văn: Là công trình nghiên cứu khoa học trong việc 
xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thực hiện, tổng kết việc 
thực hiện quyết định quản lý nhà nước, làm cơ sở cho việc hoàn thiện cơ quan 
quản lý nhà nước cũng như nâng cao chất lượng của quyết định quản lý nhà 
nước. 
6. Cơ cấu của Luận văn 
Luận văn gồm: 
- Mở đầu. 
- Chương 1. Khái niệm quyết định của cơ quan hành chính nhà nước. 
- Chương 2. Những yêu cầu đối với quyết định của cơ quan hành chính 
nhà nước trong giai đoạn hiện nay.    
6 
- Chương 3. Thực trạng ban hành quyết định quản lý nhà nước trong 
những năm qua và phương hướng đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu đối với 
quyết định quản lý nhà nước 
- Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.      
              7 
Chương 1 
KHÁI NIỆM QUYẾT ĐỊNH 
CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC   
1.1. Quyết định quản lý nhà nước 
1.1.1. Khái niệm quyết định quản lý nhà nước 
Trong các sách báo pháp lý của nước ta cũng như của nước ngoài và 
trong các văn bản pháp luật, những từ như: quyết định, quyết định quản lý, 
quyết định quản lý nhà nước, quyết định hành chính, quyết định quản lý hành 
chính nhà nước, quyết định hành chính chủ đạo, quyết định hành chính qui 
phạm pháp luật, quyết định hành chính cá biệt được dùng không thống nhất, 
ở nhiều nghĩa khác nhau. 
Hàng ngày, hàng giờ, mỗi cá nhân, tổ chức, dù tổ chức đó là tổ chức 
kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hay tổ chức là cơ quan 
nhà nước từ trung ương đến cơ sở đều phải có những quyết định nhất định để 
giải quyết các việc riêng tư, việc của cơ quan, đơn vị, việc của quốc gia, việc 
của quốc tế. Các quyết định đó được biểu hiện dưới dạng văn bản, dạng nói 
hay từ trong suy nghĩ mà thể hiện ra hành động. Đối với cá nhân là các trường 
hợp cá nhân đó quyết định những việc nhỏ như chọn mua sắm đồ ăn, mặc, ở, 
đi lại, hoặc việc lớn như chọn trường nào để thi trong kỳ thi tuyển sinh đại 
học sắp tới, chọn người bạn trăm năm, chọn mua nhà đất v.v Đối với những 
tổ chức kinh tế thì đó là những quyết định đầu tư mở rộng sản xuất, kinh 
doanh, tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước, tuyển chọn những chuyên gia 
giỏi Đối với các cơ quan nhà nước thì đó là những quyết định nhằm phát    
8 
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự, không ngừng nâng cao đời 
sống của nhân dân về mọi mặt, mở rộng quan hệ quốc tế 
Vì vậy, cần phải tìm hiểu xem quyết định là gì và nó có vai trò quan 
trọng như thế nào trong đời sống của mỗi cá nhân, của mỗi cơ quan, tổ chức 
và đối với cả quốc gia và cộng đồng quốc tế. Trong khuôn khổ của Luận văn 
này, chúng tôi chỉ xem xét các khái niệm có liên quan đến hoạt động chấp 
hành và điều hành của cơ quan hành chính nhà nước như: quyết định, quyết 
định hành chính và quyết định quản lý nhà nước để thấy được bản chất, sự 
giống nhau và khác nhau giữa chúng. 
1.1.1.1. Khái niệm quyết định 
Theo Từ điển tiếng Việt: ở nghĩa chung nhất, từ "quyết định" có nghĩa 
là "định ra một cách dứt khoát việc sẽ làm" và là "nguyên nhân trực tiếp của 
những thay đổi, của những gì cuối cùng diễn ra hay không diễn ra ở sự vật, 
hiện tượng nào đó" 
[8, tr. 787]
. 
Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính định nghĩa quyết định: "là văn 
bản qui phạm pháp luật dùng để ban hành các biện pháp, thể lệ cụ thể nhằm 
thực hiện luật pháp Nhà nước và các chủ trương, chính sách của Chính phủ 
về quản lý ngành, lĩnh vực trong ngành, các tiêu chuẩn, qui trình, qui phạm 
và các định mức kinh tế thuộc ngành, thành lập, giải thể, qui định nhiệm vụ 
quyền hạn và tổ chức bộ máy của các cơ quan đơn vị trực thuộc"
[6, tr. 637 - 638]
. 
Từ điển Một số thuật ngữ hành chính định nghĩa quyết định là: "hành vi 
thể hiện ý chí của chủ thể ra quyết định, ý chí đó được định ra, thể hiện dưới 
một hình thức nhất định, có tính bắt buộc đối với đối tượng phải thi hành 
nhằm đạt được mục đích mà chủ thể đó mong muốn hoặc đồng tình"
[5, tr. 168]
.    
9 
Theo định nghĩa của Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính về quyết 
định thì các tác giả đã giải thích quá chi tiết, chưa đúng với bản chất của từ 
quyết định, dễ làm mọi người nhầm lẫn thuật ngữ "quyết định" nói chung với 
quyết định qui phạm. Còn từ điển Một số thuật ngữ hành chính cho rằng 
quyết định là hành vi của chủ thể "định ra, thể hiện dưới một hình thức nhất 
định, có tính bắt buộc đối với đối tượng phải thi hành nhằm đạt được mục 
đích mà chủ thể đó mong muốn hoặc đồng tình" cũng chưa hoàn toàn đúng, 
bởi đôi khi chủ thể phải ban hành các quyết định không trên cơ sở "mong 
muốn hoặc đồng tình" của chủ thể đó, mà là sự bắt buộc của pháp luật, ví dụ 
như trường hợp chủ thể đó ban hành quyết định trái pháp luật, bị cấp trên yêu 
cầu phải sửa đổi, bãi bỏ thì phải ban hành quyết định khác để sửa đổi, bãi bỏ, 
nếu không thì bị áp dụng các chế tài. 
Như vậy, cùng một từ "quyết định" mà các từ điển có cách định nghĩa 
khác nhau. Nhưng theo chúng tôi, cách định nghĩa tại Từ điển tiếng Việt là 
đúng hơn cả, vì nó rất khái quát, chưa đi sâu vào bản chất và phân loại quyết 
định. 
1.1.1.2. Khái niệm quyết định hành chính 
Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Khoản 1 Điều 11 Pháp lệnh thủ tục 
giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 
định nghĩa quyết định hành chính là: "quyết định bằng văn bản của cơ quan 
hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính 
nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về 
một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính"
[22, Đ. 2, k. 10], [28, Đ. 11, k. 
1]
. 
Theo cách giải thích trên của Luật khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh thủ 
tục giải quyết các vụ án hành chính thì quyết định hành chính là một loại    
10 
quyết định cá biệt bị khiếu nại và được các cơ quan nhà nước xem xét tính 
hợp pháp. Tuy nhiên, chỉ một số loại quyết định hành chính cá biệt của một số 
cơ quan hành chính nhà nước mới là đối tượng xét xử của toà án. 
Còn những cách giải thích dưới đây thì đều cho rằng trong quyết định 
hành chính có cả quyết định chủ đạo, quyết định qui phạm và quyết định cá 
biệt. 
Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính định nghĩa quyết định hành 
chính là: "quyết định của cơ quan hành chính nhà nước trong việc quản lý 
công việc nhà nước, đề ra biện pháp giải quyết chủ quan đối với vấn đề tồn 
tại khách quan, làm cho chủ quan và khách quan phù hợp với nhau để thực 
hiện mục tiêu, nhiệm vụ quản lý hành chính. Cũng có nghĩa là người ra quyết 
định khi phát hiện và xử lý vấn đề hành chính, căn cứ vào tình hình và điều 
kiện nhất định, cân nhắc các phương án có thể lựa chọn, đề ra quyết định tối 
ưu để đạt được mục tiêu dự định." 
[6, tr. 640]
. Theo cách giải thích này, thì 
quyết định hành chính là quyết định của "cơ quan hành chính nhà nước" là 
chưa hoàn toàn đúng, bởi vì không chỉ những cơ quan hành chính nhà nước 
mới có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính, mà các quyết định hành 
chính (cá biệt) chủ yếu do những người đứng đầu các cơ quan đó ban hành. 
Từ điển Một số thuật ngữ hành chính định nghĩa quyết định hành chính 
là: "hành vi thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của cơ quan hành chính Nhà 
nước, của viên chức Nhà nước được trao thẩm quyền hoặc các tổ chức khác 
khi nhà nước uỷ quyền, nhằm đưa ra các qui định chung hoặc tình trạng pháp 
lý cụ thể, cá biệt cho các chủ thể khác thi hành dựa trên cơ sở luật"
[5, tr. 168]
. 
Trong định nghĩa trên đây, các tác giả đã nhầm lẫn giữa các khái niệm "cán 
bộ", "công chức", "viên chức" theo qui định của Pháp lệnh cán bộ, công chức. 
Theo đó, từ "viên chức" chỉ những người đứng đầu các doanh nghiệp nhà    
11 
nước như giám đốc, tổng giám đốc, các thành viên hội đồng quản trị, kế toán 
trưởng, và những người đứng đầu doanh nghiệp thì không thể ban hành các 
quyết định của cơ quan hành chính nhà nước được. Quyết định hành chính 
được ban hành dựa trên cơ sở "luật" là chưa đủ, bởi vì rất nhiều quyết định 
hành chính (cá biệt) được ban hành dựa trên cơ sở của pháp lệnh, nghị quyết, 
nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và các 
văn bản pháp luật khác của cơ quan nhà nước cấp trên. 
Vì có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quyết định hành chính nói 
trên, nên theo chúng tôi, phải xuất phải từ bản chất của vấn đề là cơ quan ban 
hành quyết định đó căn cứ theo qui định nào của pháp luật, nhằm mục đích gì, 
nhân danh ai để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý nhà 
nước. 
1.1.1.3. Khái niệm quyết định quản lý nhà nước 
Quyết định quản lý là phương tiện quan trọng trong việc thực hiện trên 
thực tế các mục đích, nhiệm vụ, chức năng, là hình thức cơ bản trong hoạt 
động chấp hành và điều hành của cơ quan hành chính nhà nước, được sử dụng 
hàng ngày và liên tục trong hoạt động chỉ đạo, điều hành trên tất cả các lĩnh 
vực kinh tế, văn hoá - xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại v.v 
của đất nước. 
Các quyết định quản lý nhà nước là sản phẩm cơ bản của cơ quan hành 
chính nhà nước. Những quyết định này có số lượng lớn nhất và đa dạng nhất. 
Cũng như các cơ quan dân cử, các cơ quan hành chính nhà nước cũng có 
thẩm quyền ban hành những quyết định qui phạm pháp luật. Cùng với toà án, 
các cơ quan hành chính cũng ban hành các quyết định mang tính chất tài phán 
như xử lý vi phạm hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo Việc chỉ đạo,    
12 
điều hành những công việc đa dạng và rộng lớn trong xã hội đòi hỏi cơ quan 
hành chính nhà nước phải ban hành rất nhiều quyết định. 
Theo chúng tôi, cách định nghĩa sau đây về quyết định quản lý nhà 
nước là đúng hơn cả: quyết định quản lý nhà nước là kết quả sự thể hiện ý chí 
quyền lực đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những 
người có chức vụ và các cơ quan của các tổ chức xã hội khi được nhà nước 
trao quyền, được thực hiện trên cơ sở và để thi hành luật, theo trình tự và 
hình thức do luật định, nhằm định ra chủ trương, đường lối, nhiệm vụ lớn có 
tính chất định hướng; hoặc đặt ra, sửa đổi, áp dụng, bãi bỏ các quy phạm 
pháp luật hành chính hay làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng; hoặc làm 
phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể, để 
thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà nước 
[3, tr. 299]
. 
Định nghĩa nói trên không chỉ nêu được vị trí, vai trò, bản chất của 
quyết định quản lý nhà nước trong hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước 
ta, mà còn phân loại các quyết định quản lý nhà nước khác nhau căn cứ vào 
tính chất pháp lý của chúng (vấn đề phân loại quyết định sẽ được phân tích 
sâu tại phần 1.2. của Luận văn này). 
1.1.2. Bản chất của quyết định quản lý nhà nước 
Khái niệm "quyết định" bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng la-tinh "actus" mà 
một trong những ý nghĩa của nó là hành động, hành vi. Do đó, sách báo pháp lý 
nước ngoài thường gọi quyết định là hành động, hoạt động dẫn đến hệ quả pháp 
lý được gọi là quyết định pháp luật. Lý luận về nhà nước và pháp luật coi việc bỏ 
phiếu của công dân trong các cuộc bầu cử cũng là quyết định pháp luật. Người ta 
còn gọi quyết định pháp luật là mệnh lệnh, là sự thể hiện ý chí quyền lực, là văn 
bản, là kết quả và hình thức thể hiện của hoạt động nhà nước, v.v    
13 
Trong sách báo pháp lý ở nước ta người ta thường đồng nhất khái niệm 
quyết định pháp luật với văn bản, nhưng văn bản pháp luật chỉ là một trong 
những hình thức thể hiện ra bên ngoài của quyết định pháp luật. 
Trong hoạt động của mình, các cơ quan nhà nước, những người có chức 
vụ, quyền hạn ban hành các quyết định để thực hiện nhiệm vụ đã được Hiến 
pháp và pháp luật qui định. Các quyết định ấy là sự thể hiện ý chí của Nhà 
nước, nhân danh Nhà nước để giải quyết các công việc của Nhà nước, mặc dù 
trước khi ban hành các quyết định quan trọng, đụng chạm đến quyền và lợi 
ích của các công dân và tổ chức trong xã hội thì dự thảo các quyết định ấy đã 
được đưa ra để xin ý kiến những đối tượng phải thi hành. Những quyết định 
đó là những quyết định pháp luật, được ban hành trên cơ sở pháp luật và để 
thi hành pháp luật. Quyết định pháp luật là sự thể hiện ý chí của chủ thể có 
quyền lực và nhân danh quyền lực nhà nước để tác động vào đối tượng bị 
quản lý. Ý chí của chủ thể nhân danh quyền lực nhà nước xuất phát từ phương 
pháp điều chỉnh của hoạt động quản lý nhà nước là phương pháp "mệnh lệnh - 
phục tùng", một bên ra lệnh và một bên phải phục tùng, không có ngoại lệ. 
Vì vậy, quyết định pháp luật là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực - nhà 
nước (tức là kết quả của hành động mang tính pháp lý - quyền lực). Đó chính 
là bản chất của quyết định pháp luật và cũng là bản chất của quyết định quản 
lý nhà nước
[3, tr.296]
. 
1.1.3. Các tính chất và đặc trưng của quyết định quản lý nhà nước 
1.1.3.1. Tính chất của quyết định quản lý nhà nước 
Quyết định quản lý nhà nước là một loại quyết định pháp luật, vì vậy, 
nó có tất cả các tính chất của quyết định pháp luật mà quan trọng nhất là: tính 
ý chí, tính quyền lực nhà nước và tính pháp lý.    
14 
Quyết định quản lý nhà nước có tính ý chí, tính quyền lực - nhà nước bởi 
vì, cũng như các loại quyết định pháp luật khác, nó là kết quả sự thể hiện ý chí 
của các chủ thể quản lý có thẩm quyền thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước, 
vì lợi ích của nhà nước. Trong quyết định quản lý nhà nước, ý chí của nhà nước 
thể hiện một cách tập trung nhất và mang tính quyền lực, đó là ý chí đơn phương 
của nhà nước mà mọi chủ thể pháp luật khác đều buộc phải tuân theo, nếu họ 
thuộc phạm vi tác động của quyết định. 
Tính pháp lý thể hiện ở hệ quả pháp lý của nó là: quyết định quản lý nhà 
nước đem lại sự thay đổi trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. Bởi vì, quyết định 
quản lý nhà nước hoạch định chủ trương, đường lối, nhiệm vụ lớn cho hoạt 
động quản lý; đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ các quy phạm pháp luật hành chính hoặc 
làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng; làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt 
các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể. 
Tính chất này không những cho phép phân biệt quyết định quản lý nhà 
nước với hoạt động tổ chức - xã hội trực tiếp, với các tác nghiệp vật chất - kĩ 
thuật, mà còn cho phép phân biệt nó với các công văn, giấy tờ hành chính 
thông thường, với các hợp đồng dân sự, hợp đồng hành chính, với các hành 
động mang tính quyền lực và có giá trị pháp lý (tạm giữ người vi phạm hành 
chính theo qui định của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, thực hiện các 
quyết định cưỡng chế, canh gác bảo vệ cơ quan nhà nước, công trình đặc biệt 
quan trọng ). 
1.1.3.2. Đặc trưng của quyết định quản lý nhà nước 
Quyết định quản lý nhà nước mang tính dưới luật, tức là các quyết định 
quản lý nhà nước được xây dựng và ban hành trên cơ sở và để thi hành luật, 
nội dung của quyết định quản lý nhà nước được ban hành phải phù hợp và để    
15 
thi hành không chỉ Hiến pháp, luật, pháp lệnh, mà mọi quyết định pháp luật 
của các cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan quyền lực cùng cấp. 
Không chỉ riêng quyết định quản lý nhà nước có tính dưới luật mà rất 
nhiều văn bản của các cơ quan nhà nước khác, kể cả các văn bản của Quốc 
hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, toà án, viện kiểm sát nhân 
dân đều mang tính dưới luật. Nhưng đây là tính chất rất quan trọng của quyết 
định quản lý nhà nước. 
Quyết định quản lý nhà nước được ban hành theo hình thức và trình tự 
do pháp luật quy định (pháp luật ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là mọi quy 
định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). 
Hình thức quyết định ở đây được hiểu trước hết là tên gọi, thể thức 
bằng văn bản hay có thể bằng miệng, chữ ký, con dấu, số của quyết định, 
v.v Trình tự ban hành thể hiện chủ yếu ở chỗ nó được thông qua bởi tập thể 
hay cá nhân người có thẩm quyền Nếu không đảm bảo yêu cầu này, quyết 
định quản lý nhà nước hoặc sẽ bị coi là không có hiệu lực, hoặc sẽ phải chỉnh 
lý, sửa đổi. 
Quyết định quản lý nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, 
những người có chức vụ hoặc cơ quan, tổ chức xã hội (khi được nhà nước 
trao quyền) ban hành để thực hiện các nhiệm vụ và chức năng quản lý nhà 
nước. Chủ thể chủ yếu ban hành quyết định quản lý nhà nước là các cơ quan 
hành chính nhà nước, nhưng các cơ quan khác của Nhà nước cũng ban hành 
các quyết định quản lý nhà nước khi thực hiện những mặt hoạt động mang 
tính chất chấp hành và điều hành (ngoài chức năng chính của mình). Hoạt 
động chấp hành và điều hành là giới hạn để phân biệt quyết định quản lý nhà 
nước với mọi quyết định pháp luật khác. 
1.2. Phân loại quyết định quản lý nhà nước    
16 
Các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương hàng 
ngày, hàng giờ ban hành rất nhiều quyết định quản lý nhà nước phục vụ cho 
hoạt động chấp hành, điều hành. Các quyết định đó là nguồn rất quan trọng 
của pháp luật. Vì vậy, cần phải phân loại các quyết định đó để tìm hiểu bản 
chất, chức năng pháp lý, ý nghĩa của chúng, làm cơ sở cho việc hoàn thiện 
hoạt động xây dựng và ban hành các loại quyết định đó, đồng thời phục vụ 
cho công tác tập hợp hoá và pháp điển hoá các quyết định quản lý nhà nước, 
giúp cho hoạt động quản lý được tiến hành có trật tự và hiệu quả. 
Có rất nhiều cách phân loại quyết định quản lý nhà nước
[3, tr. 303 - 322]
: 
phân loại theo tính chất pháp lý, theo cơ quan ban hành, theo trình tự ban 
hành, theo hình thức, nội dung cụ thể của quyết định theo ngành và lĩnh vực 
quản lý, theo phạm vi hiệu lực v.v 
1.2.1. Phân loại theo tính chất pháp lý 
Theo tính chất pháp lý, các quyết định quản lý nhà nước bao gồm các 
quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm và quyết định cá biệt. 
1.2.1.1. Quyết định quản lý nhà nước chủ đạo là loại quyết định rất quan 
trọng, vì tuy chúng không trực tiếp làm thay đổi hệ thống quy phạm hoặc hệ 
thống quan hệ pháp luật hành chính, nhưng chúng đặt cơ sở cho sự thay đổi đó. 
Quyết định quản lý nhà nước chủ đạo đề ra chủ trương, đường lối, nhiệm vụ, 
chính sách, các biện pháp lớn có tính chất chung, là công cụ định hướng chiến 
lược trong việc thực hiện chức năng lãnh đạo của quản lý nhà nước. Các quyết 
định quản lý nhà nước chủ đạo thường được ban hành dưới dạng các nghị quyết 
của Chính phủ. Ví dụ: Nghị quyết số 49/CP ngày 04 tháng 8 năm 1993 về phát 
triển công nghệ thông tin ở nước ta trong những năm 90; Nghị quyết số 
03/2000/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2000 về kinh tế trang trại, Nghị quyết 
số 07/2000/NQ-CP ngày 05 tháng 6 năm 2000 về xây dựng và phát triển công    
17 
nghệ phần mềm giai đoạn 2000 - 2005 Các quyết định quản lý nhà nước 
chủ đạo nói trên là cơ sở pháp lý rất quan trọng trong tổ chức hoạt động chấp 
hành, điều hành của cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa 
phương. 
Quyết định chủ đạo chỉ được thực hiện một lần, nhưng thường sự thực 
hiện đó rất lâu dài, đôi khi còn có hiệu lực lâu hơn nhiều quyết định quy phạm 
và phạm vi các đối tượng thi hành rộng, không xác định. Các quyết định chủ 
đạo là cơ sở để ban hành các quyết định quy phạm và cá biệt. Các quyết định 
chủ đạo của cơ quan cấp dưới có thể ban hành không những trên cơ sở quyết 
định chủ đạo, mà cả quyết định quy phạm của cơ quan cấp trên. 
Quyết định chủ đạo đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà nước, 
nhưng không nên lạm dụng vì nó dễ làm mất tính chuẩn mực (tính quy phạm) 
và tính cụ thể của quản lý nhà nước, khiến các mệnh lệnh quản lý nhà nước 
mang tính chung chung, trừu tượng, vô thưởng, vô phạt, không rõ phải làm 
như thế nào và ai là người chịu trách nhiệm về từng công việc cụ thể. 
1.2.1.2. Quyết định quản lý nhà nước quy phạm là loại quyết định trực 
tiếp làm thay đổi hệ thống quy phạm pháp luật hành chính, vì đó là những 
quyết định: 
- đặt ra những quy phạm pháp luật hành chính mới để bổ sung thêm 
vào hệ thống quy phạm pháp luật hành chính hiện hành (đặt ra quy định mới 
về phòng chống lũ lụt, giảm nhẹ thiên tai, điều chỉnh giá cước bưu chính, viễn 
thông, áp dụng các biện pháp nhằm chống buôn lậu, gian lận thương mại 
v.v ); 
- áp dụng các quy phạm hiện hành do các cơ quan quyền lực và quản lý 
nhà nước cấp trên ban hành: các quyết định này được ban hành nhằm thi hành 
các văn bản quy phạm có hiệu lực cao hơn của cấp trên do các chủ thể quản lý    
18 
nhà nước cấp dưới ban hành mang tính quy phạm (các nghị định hướng dẫn 
thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban 
Thường vụ Quốc hội, thông tư hướng dẫn thi hành nghị quyết, nghị định của 
Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ ); 
- sửa đổi những quy phạm pháp luật hành chính hiện hành (ví dụ: Nghị 
định của Chính phủ số 168/1999/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 1999 sửa đổi, 
bổ sung một số điều của Nghị định số 58/CP ngày 03 tháng 10 năm 1996 của 
Chính phủ về cấp Giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc tại các 
doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 
38/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2000 sửa đổi, bổ sung một số điều 
trong Quyết định số 531/TTg ngày 08 tháng 8 năm 1996 của Thủ tướng Chính 
phủ về quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia v.v ); 
- bãi bỏ các quy phạm pháp luật hành chính hiện hành, thay đổi hệ 
thống quy phạm pháp luật hành chính hiện hành bằng cách "bỏ bớt" đi (ví dụ: 
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 19/2000/QĐ-TTg ngày 03 tháng 02 
năm 2000 về bãi bỏ một số giấy phép trái với qui định của Luật doanh 
nghiệp; Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính số 47/2000/QĐ-BTC ngày 04 
tháng 4 năm 2000 về việc bãi bỏ khoản thu lệ phí cấp các loại giấy phép trái 
với qui định của Luật Doanh nghiệp v.v ); 
- thay đổi phạm vi hiệu lực của quy phạm pháp luật hành chính hiện 
hành về thời gian, không gian và đối tượng thi hành: ra quyết định kéo dài 
hay rút ngắn thời gian hiệu lực; mở rộng hay thu hẹp phạm vi hiệu lực theo 
lãnh thổ và đối tượng thi hành của các quy định hiện hành (Khoản Điều 28 
Nghị định của Chính phủ số 36/2001/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2001 về 
việc bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao 
thông đô thị qui định: "Người điều khiển và người ngồi trên xe môtô, xe gắn    
19 
máy phải đội mũ bảo hiểm khi đi trên tuyến đường quy định phải đội mũ bảo 
hiểm". Như vậy, trên một số tuyến có qui định phải đội mũ bảo hiểm nếu 
không đội sẽ là vi phạm và bị xử phạt ). 
Quyết định đình chỉ có thời hạn hay không thời hạn hiệu lực của quy 
phạm hiện hành cũng là một loại quyết định quy phạm thay đổi phạm vi hiệu 
lực về thời gian của quy phạm hiện hành. 
Việc sửa đổi, bãi bỏ hay thay đổi phạm vi hiệu lực của quy phạm hiện 
hành về thực chất không có quy phạm mới, nhưng có ý nghĩa cực kỳ quan 
trọng làm thay đổi hệ thống quy phạm. Còn các quy phạm nằm trong quyết 
định áp dụng quy phạm hiện hành là các quy phạm không hoàn toàn mới đúng 
với nghĩa của nó, vì đây là các quy phạm hướng dẫn, quy phạm cụ thể hoá, 
chi tiết hoá quy phạm hiện hành. Các quyết định quy phạm áp dụng các quy 
phạm khác là loại quyết định quy phạm phổ biến nhất trong quản lý nhà nước. 
Các quyết định quản lý nhà nước quy phạm cũng có các dấu hiệu bên 
ngoài như bản thân các quy phạm pháp luật là tính bắt buộc chung, áp dụng 
nhiều lần và hiệu lực không chấm dứt khi đã thực hiện. 
Các quyết định quản lý nhà nước quy phạm có thể được phân loại theo 
nhiều cách khác nhau thành: quyết định quy phạm chính và phụ, bổ sung; 
quyết định điều chỉnh tích cực và quyết định bảo vệ pháp luật. Có một loại 
quyết định bảo vệ pháp luật quan trọng là quyết định quy phạm về xử lý vi 
phạm hành chính. Các quyết định này đòi hỏi những yêu cầu đặc biệt về thẩm 
quyền và trình tự ban hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính, vì nó 
trực tiếp động chạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ví dụ: Pháp 
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm ngày 06 tháng 7 năm 1995 và hàng chục 
nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này: Nghị định số 33/CP ngày 14 
tháng 4 năm 1997 về ban hành qui chế về trường giáo dưỡng; Nghị định số    
20 
31/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 về ban hành qui chế quản chế hành chính; 
Nghị định số 49/CP ngày 15 tháng 8 năm 1996 về xử phạt vi phạm hành 
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự v.v 
Quyết định quản lý nhà nước quy phạm có vai trò đặc biệt quan trọng, 
tạo thành nền tảng của sự điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động quản lý. Đó 
là công cụ cơ bản để thực hiện các nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước, 
thiết lập trật tự, khuôn khổ cho việc thực hiện các hoạt động điều hành cụ thể. 
Quyết định quản lý nhà nước quy phạm còn là cơ sở cho việc ban hành các 
quyết định quản lý nhà nước cá biệt. 
Trên thực tế có quyết định quản lý nhà nước chứa những quy phạm tiên 
phát, là những quy phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh mà 
chưa được văn bản nào điều chỉnh. Ví dụ: Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 
11 tháng 7 năm 1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán; Quyết định 
của Thủ tướng Chính phủ số 178/1999/QĐ-TTg ngày 30 tháng 8 năm 1999 
ban hành Qui chế ghi nhãn hàng hoá lưu thông trong nước và hàng hoá xuất 
khẩu, nhập khẩu v.v 
Các quyết định quản lý nhà nước quy phạm không chỉ chứa các quy 
phạm pháp luật hành chính. Trong một số trường hợp các quyết định quản lý 
nhà nước, đặc biệt là các nghị định của Chính phủ, có thể chứa các quy phạm 
của ngành luật lao động, dân sự, tài chính, đất đai, hôn nhân và gia đình v.v 
nhưng không thể có các qui phạm của luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật 
hiến pháp. 
1.2.1.3. Quyết định quản lý nhà nước cá biệt, còn gọi là quyết định 
hành chính, là các quyết định giải quyết các việc cá biệt - cụ thể (quyết định 
tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, nâng lương công chức cụ