ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
KHOA LUẬT 
 
 
 
 
PHẠM THỊ HIỀN 
 
 
 
 
 
HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
 
 
 
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC 
 
 
 
 
 
 
 
HÀ NỘI - 2007 
 
  ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
KHOA LUẬT      
PHẠM THỊ HIỀN      
HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM  
Chuyên ngành : Luật hình sự 
Mã số : 60 38 40   
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC    
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ   
HÀ NỘI - 2007 
     1  
2  
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN     
Trang  
Trang phụ bìa   
Lời cam đoan   
Lời cảm ơn   
Mục lục   
MỞ ĐẦU 
1 
 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH 
PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 
5 
1.1 
Khái niệm hình phạt 
5 
1.1.1. 
Định nghĩa 
5 
1.1.2. 
Mục đích hình phạt 
8 
1.1.3. 
Hệ thống hình phạt 
11 
1.2. 
Hình phạt cải tạo không giam giữ 
15 
1.2.1. 
Khái niệm 
15 
1.2.1.1. 
Bản chất pháp lý 
15 
1.2.1.2. 
Đặc điểm 
17 
1.2.1.3. 
Điều kiện áp dụng 
21 
1.2.2. 
Ý nghĩa của hình phạt cải tạo không giam giữ 
23 
1.2.2.1. 
Ý nghĩa chính trị xã hội 
23 
1.2.2.2. 
Ý nghĩa pháp lý 
24 
1.2.3. 
So sánh hình phạt cải tạo không giam giữ với một số 
hình phạt và biện pháp hình sự khác 
25 
1.2.3.1. 
So sánh với một số hình phạt khác 
25 
1.2.3.2. 
So sánh với biện pháp pháp lý hình sự khác - án treo 
27 
1.3. 
Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình 
sự một số nước 
30  
Chương 2: HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM 
GIỮ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
37 
2.1. 
Trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 
39 
2.2. 
Theo Bộ luật hình sự 1985 
39 
2.3. 
Theo Bộ luật hình sự 1999 
45  
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CẢI 
TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ MỘT SỐ 
KIẾN NGHỊ 
59 
3.1. 
Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ 
và những bất cập vướng mắc 
59 
3.1.1. 
Thực tiễn áp dụng 
59 
3.1.2. 
Những bất cập vướng mắc 
63 
3.2. 
Một số kiến nghị 
68 
3.2.1. 
Hoàn thiện các quy định về cải tạo không giam giữ 
68 
3.2.2. 
Thống nhất nhận thức về áp dụng hình phạt cải tạo 
không giam giữ 
72 
3.2.3. 
Các biện pháp tăng cường hiệu quả áp dụng hình 
phạt cải tạo không giam giữ 
73  
KẾT LUẬN 
78  
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
80   
1 
MỞ ĐẦU  
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với tội phạm là trừng trị kết 
hợp với cải tạo, giáo dục cảm hóa; thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, 
cảm hóa cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện; qua đó bồi 
dưỡng mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp 
luật, chủ động tích cực tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm. 
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp theo Nghị 
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách 
tư pháp đến năm 2020 là hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và 
thủ tục tố tụng tư pháp. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, Nghị quyết xác định: 
Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư 
pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện 
hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và 
thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng 
thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng 
áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với 
một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình 
phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm khác…[3]. 
Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam 
không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự, mà còn có ý 
nghĩa động viên, khuyến khích người phạm tội tự giác cải tạo, giáo dục. Đồng 
thời, áp dụng hình phạt này đối với người phạm tội sẽ tạo điều kiện cho người 
đó được làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi 
trường xã hội bình thường, dưới sự quản lý, giám sát, giáo dục của cơ quan, 
tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó làm việc,   
2 
công tác, học tập, cư trú và của chính gia đình của người đó, nhanh chóng 
giúp cho họ tái hòa nhập cộng đồng, không bị cách ly khỏi xã hội. 
Mặc dù mang bản chất nhân đạo cao cả, khả năng cải tạo, giáo dục 
người phạm tội cao và động viên được các lực lượng xã hội khác nhau trong 
phòng chống tội phạm, hình phạt cải tạo không giam giữ vẫn chưa được quan 
tâm đúng mức trong luật hình sự nước ta. Trong phần quy định về các loại tội 
phạm cụ thể trong phần riêng của Bộ luật Hình sự năm 1999, việc cho phép 
áp dụng hình phạt này còn hạn chế; Trong thực tiễn xét xử, hình phạt cải tạo 
không giam giữ còn ít được Tòa án áp dụng; Việc thi hành hình phạt cải tạo 
không giam giữ còn nhiều bất cập và thiếu hiệu quả v.v 
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề chung về hình phạt cải tạo 
không giam giữ, thực tế áp dụng hình phạt đó có ý nghĩa quan trọng về lý 
luận cũng như thực tiễn, góp phần hoàn thiện Bộ luật Hình sự và nâng cao 
hiệu quả xét xử của Tòa án các cấp. 
Những phân tích trên lý giải cho việc chúng tôi chọn đề tài cho luận 
văn thạc sĩ luật học của mình là "Hình phạt cải tạo không giam giữ trong 
Luật Hình sự Việt Nam". 
2. Tình hình nghiên cứu 
Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam là 
một trong những chế định pháp lý hình sự quan trọng trong chính sách hình 
sự của Nhà nước ta. Bản thân hệ thống hình phạt nói chung và hình phạt cải 
tạo không giam giữ nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm 
nghiên cứu, được đề cập trong nhiều bài viết nghiên cứu - trao đổi, xây dựng 
pháp luật… và được thể hiện trên báo chí trung ương và địa phương, nhất là 
các báo, tạp chí chuyên ngành pháp luật. Ví dụ như: Pháp luật thi hành án 
hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, 2006, của 
PGS.TS Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng; Tìm hiểu về hình   
3 
phạt và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị 
quốc gia, 2000, của ThS. Đinh Văn Quế; Hình phạt trong luật hình sự Việt 
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 1994, của tập thể nhiều tác giả. Tuy nhiên, hình 
phạt cải tạo không giam giữ vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các nghiên 
cứu về hình phạt cải tạo không giam giữ thường mới chỉ đề cập, tập trung 
nghiên cứu chung với các hình phạt khác hoặc từ góc độ khác. Cho đến nay 
chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về 
hình phạt cải tạo không giam giữ để trên cơ sở đó đưa ra được giải pháp hoàn 
thiện pháp luật hình sự nói chung và hệ thống hình phạt nói riêng nhằm nâng 
cao hiệu quả áp dụng hình phạt này. 
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
- Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý 
luận, phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt cải 
tạo không giam giữ, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Luật 
Hình sự về cải tạo không giam giữ và kiến nghị, đề xuất những giải pháp nâng 
cao hiệu quả áp dụng hình phạt này. 
- Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: 
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ 
+ Phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự về cải tạo không giam giữ 
+ Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ 
+ Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp 
dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. 
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở 
lý luận của hình phạt cải tạo không giam giữ; các quy định của Bộ luật Hình sự 
hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ; cũng như thực tiễn áp dụng các 
quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ trong những năm qua ở nước ta.   
4 
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy 
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít; tư tưởng Hồ Chí Minh; 
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây 
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bản chất nhân đạo của chính 
sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm 
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp lịch 
sử, thống kê, so sánh, tham khảo chuyên gia và khảo sát thực tiễn. 
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 
Nghiên cứu hình phạt cải tạo không giam giữ một cách toàn diện và 
có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xét xử trong những năm 
qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định hình 
phạt cải tạo không giam giữ và nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án. 
6. Kết cấu luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội 
dung của luận văn gồm 3 chương: 
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt cải tạo 
Chương 2: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật hình sự Việt Nam 
Chương 3: Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và một 
số kiến nghị.    
5 
Chương 1 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 
VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ  
1.1. KHÁI NIỆM HÌNH PHẠT 
Để có cái nhìn toàn diện về hình phạt cải tạo không giam giữ - những 
vấn đề lý luận và thực tiễn, trước tiên, chúng ta cần xem xét một cách tổng thể 
lý luận về hình phạt. 
1.1.1 . Định nghĩa 
"Hình phạt không phải là một cái gì khác ngoài phương tiện của xã hội để 
tự bảo vệ mình chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó" [28, tr. 513]. 
Với khẳng định này, Mác đã chỉ dẫn về tính phổ biến, tính giai cấp và tính 
lịch sử của hình phạt. Theo đó, hình phạt là một trong những công cụ, phương 
tiện chủ yếu và lâu đời để thực hiện chính sách hình sự nhằm bảo vệ quyền và 
lợi ích của Nhà nước và giai cấp lãnh đạo nói riêng, của xã hội nói chung. 
Lịch sử phát triển của Hình phạt trong luật hình sự ghi nhận nhiều 
quan điểm khác nhau về hình phạt nhưng tựu chung lại xoay quanh hai quan 
điểm chủ chốt: 
Thời kỳ trung cổ, với phương ngôn "nợ máu phải trả bằng máu", hình 
phạt đã từng được coi là công cụ trả thù người phạm tội. Nhà cầm quyền đã 
nghĩ ra những biện pháp hà khắc, dã man nhất để trừng phạt người phạm tội 
như: phanh thây, bêu đầu, tùng xẻo, chặt tay… 
Trong xã hội văn minh và dân chủ, Hình phạt được coi là công cụ đấu 
tranh phòng và chống tội phạm. Các hình phạt dã man đã bị loại bỏ. Các hình 
phạt mang tính hà khắc cao như tử hình cũng đã được một số nhà nước loại 
bỏ khỏi hệ thống hình phạt của luật hình sự.   
6 
Trong khoa học luật hình sự cũng đã tồn tại nhiều quan điểm khác 
nhau về hình phạt. 
Xét về khía cạnh lý luận luật hình sự, các quan điểm về hình phạt từng 
được đưa ra khá nhiều và chưa đi đến một quan điểm thống nhất. 
"Hình phạt được quyết định đối với kẻ phạm tội căn cứ vào pháp luật, 
nó mang lại những thiệt hại cho chính người phạm tội về thể chất, tinh thần 
hoặc tài sản của họ" - Gura, nhà luật học người Ấn Độ đã khẳng định như 
trên [26, tr. 266]. 
Tác giả Kusnetzova trong cuốn "Những nguyên lý của Luật hình sự 
Xô - viết" quan niệm khá đầy đủ và tiến bộ: "Hình phạt là biện pháp cưỡng 
chế của Nhà nước, được Tòa án tuyên trong bản án, đối với người thực hiện 
tội phạm, với mục đích phòng ngừa người bị kết án phạm tội mới và phòng 
ngừa những người khác phạm tội" [20, tr. 137]. 
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, GS.TS Đỗ Ngọc Quang có 
quan điểm: 
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc của Nhà 
nước được quy định trong luật hình sự do Tòa án áp dụng đối với 
người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích 
nhất định với mục đích cải tạo giáo dục người phạm tội và ngăn 
ngừa tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và 
lợi ích hợp pháp của công dân [19, tr. 675]. 
Tìm hiểu tiến trình phát triển của luật thực định nước ta, chúng ta 
nhận thấy rằng chỉ đến Bộ luật Hình sự năm 1999 khái niệm hình phạt mới 
được ghi nhận lần đầu tiên (tại Điều 26): 
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của 
Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người 
phạm tội.   
7 
Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa 
án quyết định [10]. 
Bắt đầu từ đây, các nhà luật học đã đưa vào các tài liệu, sách báo pháp lý 
chuyên khảo xuất bản ở nước ta một quan niệm khá thống nhất về hình phạt. 
Tuy nhiên, chúng ta đồng tình với quan điểm của Tiến sĩ khoa học - 
PGS Lê Văn Cảm, tại Điều 26 Bộ luật Hình sự 1999 nên sửa thuật ngữ pháp 
lý "người phạm tội" thành "người bị kết án". 
Các dấu hiệu đặc trưng được chỉ ra từ khái niệm hình phạt nói trên 
bao gồm: 
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so 
với tất cả các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước. Hình 
phạt là biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền, lợi ích của người bị kết 
án. Việc áp dụng hình phạt đối với người bị kết án sẽ đưa đến hậu quả pháp lý 
là người đó bị coi là có án tích. Chịu hình phạt, người bị kết án có thể bị tước 
bỏ hoặc bị hạn chế quyền tự do, quyền về tài sản, về chính trị, thậm chí cả 
quyền sống 
- Hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội. Hình phạt là 
một trong những dấu hiệu cấu thành tội phạm (là một dạng của trách nhiệm 
hình sự). Các dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tính trái pháp 
luật hình sự và tính có lỗi của người phạm tội luôn gắn liền với tính chịu 
hình phạt. 
- Cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng hình phạt là tòa án. Ngoài 
tòa án không có cơ quan nào khác có quyền quyết định hình phạt. 
- Hình phạt phải và chỉ được quy định trong Pháp luật hình sự, được 
Tòa án áp dụng theo một trình tự đặc biệt do luật Tố tụng Hình sự quy định. 
- Hình phạt chỉ mang tính chất cá nhân vì một trong những nguyên tắc 
cơ bản của luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá   
8 
nhân người phạm tội. Luật hình sự Việt Nam hiện hành không cho phép việc 
chấp hành hình phạt thay cho người phạm tội dưới mọi hình thức. 
Những phân tích trên một lần nữa đã khẳng định tính đúng đắn và 
toàn diện của khái niệm về hình phạt mà Tiến sĩ khoa học - PGS Lê Văn Cảm 
đã đưa ra: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà 
nước được áp dụng trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án 
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do, lợi ích của người bị kết án theo các 
quy định của pháp luật hình sự" [19, tr. 677]. 
1.1.2. Mục đích hình phạt 
Để nâng cao và bảo đảm hiệu quả của hình phạt, cần phải có cái nhìn 
xác thực về mục đích của hình phạt bởi lẽ nó được coi là một tiêu chí rất quan 
trọng để đánh giá hiệu quả hình phạt. Bên cạnh đó, lý luận khoa học hình sự 
đã cho thấy mục đích của hình phạt có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công 
tác xây dựng và áp dụng các quy định về hình phạt. Mọi hoạt động giáo dục, 
đào tạo, tuyên truyền và phổ biến pháp luật hình sự cũng chịu sự chi phối đặc 
biệt này. Giới hạn của hình phạt hay nói cách khác nội dung chế tài của hình 
phạt đồng thời được xác định dựa trên mục đích của hình phạt. 
Luật hình sự của các quốc gia trên thế giới có nhiều quan điểm khác 
nhau về vấn đề này. Bộ luật Hình sự của Liên Bang Nga có hiệu lực từ ngày 
01 tháng 03 năm 1996 quy định: "Hình phạt có mục đích lập lại sự công bằng 
xã hội, cũng như cải tạo người bị kết án và phòng ngừa tội phạm mới". 
Trong khi đó, Bộ luật Hình sự Cộng hòa Cu Ba quy định mục đích của 
hình phạt tại Điều 27 như sau: "Hình phạt không chỉ có nhằm trừng trị người 
phạm tội, mà còn nhằm giáo dục người bị kết án có thái độ đúng đắn đối với 
lao động, tuân thủ pháp luật và tôn trọng các quy tắc cuộc sống xã hội chủ 
nghĩa, cũng như phòng ngừa phạm tội mới, không chỉ riêng đối với người bị 
kết án mà cả những người khác".   
9 
Pháp luật hình sự Mỹ (Đ3 - 101 Điều 3 "Các hình phạt'' trong Luật 
mẫu năm 1978 về quyết định và thi hành hình phạt), tại các quy phạm liên 
quan đến các mục đích của hình phạt đã khẳng định những đặc điểm cơ bản 
như sau: 1. Khi trừng trị kết án cần phải đảm bảo việc quyết định hình phạt 
cho phù hợp với tội phạm mà người đó đã thực hiện. 2. Khi quy định tính chất 
ngăn ngừa hợp pháp của bản án và thủ tục công bằng trong việc tuyên án phải 
đảm bảo sự đối xử công minh với tất cả những người bị kết án bằng cách loại 
trừ sự bất bình đẳng không thể chấp nhận được trong việc thi hành hình phạt. 
3. Ngăn ngừa việc phạm tội và đảm bảo sự tôn trọng pháp luật được thực hiện 
bằng cách: a) Tìm phương pháp có hiệu quả để răn đe những người khác có 
khả năng thực hiện tội phạm tương tự; b) Cách ly những người có quá khứ về 
hình sự lâu dài (ý nói những kẻ phạm tội hình sự chuyên nghiệp); c) Hỗ trợ 
cho việc thực hiện các chương trình cải tạo nhằm mục đích đạt được sự tự 
nguyện trong việc hợp tác và tham gia của những người phạm tội vào các 
chương trình đó. 
Luật hình sự Việt Nam có quan điểm chính thức của Nhà nước về mục 
đích hình phạt, thể hiện tại Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Hình sự 
1999. Theo đó: 
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà 
còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức 
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ 
nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục 
người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội 
phạm [10, Điều 27]. 
Tuy đã được quy định trong luật nhưng cho đến nay mục đích của 
hình phạt vẫn là một đề tài tranh luận khá gay gắt trong giới luật học trong 
nước. Vấn đề tranh luận chủ yến xoay quanh việc có thừa nhận hình phạt có 
mục đích trừng trị hay không.   
10 
Một số nhà luật học cho rằng: Người bị kết án phải bị trừng trị để bảo 
vệ lợi ích xã hội và Nhà nước, đem đến công bằng xã hội. Chính vì điều đó 
nên mục đích của hình phạt bên cạnh phòng ngừa tội phạm, giáo dục, cải tạo 
phải có sự trừng trị. 
Bên cạnh đó, phần lớn các quan niệm lại đồng nhất với nhau khi cho 
rằng mục đích của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội. Trừng trị chỉ 
là biện pháp để đạt được mục đích đó 
Khi phân tích Điều 27 Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, nhiều người 
cho rằng, sự thật hiển nhiên, luật hình sự đã quy định mục đích trừng trị của 
hình phạt là một lẽ tất nhiên không thể phủ nhận. 
Bản chất của hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, của xã hội, 
là công cụ "bảo vệ xã hội khỏi các vi phạm điều kiện tồn tại của nó" [28, tr.513]. 
Trừng trị vừa là thuộc tính, vừa là nội dung vừa là phương thức thực hiện 
hình phạt. Với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, trừng trị không thể là 
mục đích của hình phạt. Theo quan điểm của cá nhân tôi, mục đích của hình 
phạt bao gồm hai mục đích chính là bảo đảm công bằng xã hội và phòng ngừa 
tội phạm. 
Mục đích cuối cùng, cơ bản và quan trọng nhất của hình phạt là bảo 
đảm công bằng xã hội. Công bằng xã hội đòi hỏi hình phạt phải có tính trừng 
trị. Công bằng xã hội vừa là xuất phát điểm, vừa là giới hạn của trừng trị 
trong hình phạt. Có những người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng 
bị tước quyền sống, có những người chỉ bị tước tự do… Từng giới hạn hình 
phạt đảm bảo cho công bằng xã hội được thiết lập và duy trì vững chắc. 
Song song với bảo đảm công bằng xã hội, hình phạt còn hướng tới mục 
đích phòng ngừa tội phạm. Trong mục đích này tồn tại ba nội dung cơ bản: 
- Cải tạo và giáo dục người bị kết án, đồng thời ngăn ngừa họ phạm 
tội mới - ngăn ngừa riêng. Tác động của phòng ngừa riêng chủ yếu ở sự giáo   
11 
dục cho người phạm tội nhận thức đầy đủ và đúng đắn về pháp luật, hướng 
người phạm tội hoàn lương, kìm chế không cho họ phạm tội mới. 
- Góp phần giáo dục các thành viên khác trong xã hội ý thức tôn trọng, 
tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật - ngăn ngừa chung. Hình phạt 
có tác động nâng cao ý thức pháp luật của công dân, ngăn cản và phòng ngừa 
họ có các hành vi vi phạm pháp luật hình sự. 
Hiệu quả phòng ngừa chung phụ thuộc một phần quan trọng vào kết 
quả phòng ngừa riêng. Nếu phát sinh xung đột giữa phòng ngừa chung và 
phòng ngừa riêng thì mục đích của phòng ngừa riêng phải dựa vào phòng 
ngừa chung. 
- Hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Ở góc độ này, 
hình phạt có tác dụng giáo dục, động viên, tập hợp quần chúng nhân dân tham 
giam vào quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm. Bên cạnh đó, hình phạt 
là công cụ để cơ quan thi hành pháp luật tiến hành các hoạt động tố tụng của 
mình để duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của xã hội và Nhà nước. 
Tóm lại, trừng trị và cải tạo, giáo dục là phương tiện để hình phạt đạt 
được mục đích cuối cùng là bảo đảm công bằng xã hội và phòng ngừa tội 
phạm. Với từng hình phạt cụ thể, nội dung thực chất của mục đích hình phạt 
cũng theo đó mà đậm nhạt khác nhau. Điều đó dẫn đến đòi hỏi sự linh hoạt tối 
đa của những người cầm cân nẩy mực trong các quyết định hình phạt. Một 
hình phạt không công bằng sẽ không có tác dụng cải tạo người phạm tội và 
răn đe, giáo dục chung đối với xã hội. Sự công bằng phải luôn được duy trì 
song song với phòng ngừa tội phạm (đặc biệt là phòng ngừa chung) sẽ đem 
đến hiệu quả cao cho hình phạt. 
1.1.3. Hệ thống hình phạt 
Hệ thống hình phạt được xây dựng phụ thuộc vào các điều kiện, hoàn 
cảnh xã hội, yêu cầu của công tác phòng ngừa và chống tội phạm, lý luận về   
12 
hình phạt trong nước và quốc tế cũng như kinh nghiệm lập pháp hình sự. Số 
lượng các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt của mỗi nước, mỗi thời kỳ 
có sự khác biệt và thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố tác động nói trên. Nhưng 
nhìn chung: 
Hệ thống hình phạt là tổng hợp các biện pháp cưỡng chế về 
hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Pháp 
luật hình sự, căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của mỗi loại được 
sắp xếp thành một danh mục cụ thể theo trình tự nhất định từ nhẹ 
đến nặng (hay ngược lại) và chỉ do Tòa án quyết định trong bản án 
kết tội đối với bị cáo vì đã thực hiện tội phạm [19, tr. 688]. 
Điều này đã lý giải rất rõ ràng cho sự thay đổi (lược bớt hoặc quy định 
thêm) các hình phạt quy định trong pháp luật hình sự. 
Đặc điểm của hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước ta thể hiện 
tính đa dạng, cho phép trong mọi trường hợp thực hiện được nguyên tắc công 
bằng trách nhiệm, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc nhân đạo sâu 
sắc, kết hợp hài hòa các yếu tố cưỡng chế và thuyết phục. Các hình phạt nhằm 
khủng bố, trả thù, làm nhục hình, đày đọa thể xác và chà đạp phẩm giá của 
con người hoàn toàn không tồn tại trong các quy định hình sự liên quan. 
Lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam cho thấy, trước khi Bộ luật 
Hình sự năm 1985 ra đời, chưa có bất kỳ văn bản pháp lý nào thống kê đầy đủ và 
chi tiết các loại hình phạt có tính chất bắt buộc với tòa án. Các hình phạt được 
quy định rải rác trong hai nhóm văn bản là các văn bản luật hình sự và các văn 
bản khác có tính chất hình sự và bao gồm 12 hình phạt: 1. Tử hình; 2. Tù chung 
thân; 3. Tù có thời hạn; 4. Cải tạo không giam giữ; 5. Tịch thu một phần hoặc 
toàn bộ tài sản. 6. Buộc phải bồi thường thiệt hại đã gây ra; 7. Tước một số 
quyền công dân; 8. Cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định hoặc làm nghề nhất 
định; 9. Cư trú bắt buộc; 10. Cấm cư trú; 11. Quản chế; 12. Phạt tiền.   
13 
Bộ luật Hình sự 1985 ra đời tạo một bước ngoặt phát triển quan trọng 
của pháp luật hình sự. Lần đầu tiên một hệ thống hình phạt gồm 11 loại hình 
phạt được quy định chặt chẽ và chính xác với những điều kiện áp dụng cụ thể 
có tính chất bắt buộc với Tòa án thành một điều luật (Điều 21). Theo đó hình 
phạt cảnh cáo được quy định bổ sung, đồng thời các hình phạt buộc phải bồi 
thường thiệt hại đã gây ra, cư trú bắt buộc bị loại bỏ. Ngoài ra, có hai loại 
hình phạt nữa được quy định để áp dụng riêng đối với quân nhân phạm tội là: 
Cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội và Tước danh hiệu quân nhân. 
Điều 28, Bộ luật Hình sự 1999 quy định hệ thống hình phạt như sau: 
Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. 
1. Hình phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) 
Cải tạo không giam giữ; d) Trục xuất; đ) Tù có thời hạn; e) Tù 
chung thân; g) Tử hình. 
2. Hình phạt bổ sung bao gồm: a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, 
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; b) Cấm cư trú; c) 
Quản chế; d) Tước một số quyền công dân; đ) Tịch thu tài sản; e) 
Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; 
g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. 
3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một 
hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ 
sung [10]. 
Bộ luật Hình sự hiện hành đã đưa ra một hệ thống hình phạt mà ở đó 
các hình phạt được sắp xếp theo trật tự nhất định. Các điều luật quy định cụ 
thể từng loại hình phạt bao gồm nội dung, điều kiện áp dụng, phạm vi và giới 
hạn áp dụng. Hệ thống hình phạt của Bộ luật Hình sự 1999 đã ghi nhận hình 
phạt tiền và hình phạt trục xuất là hai hình phạt vừa là chính vừa là bổ sung.   
14 
Cũng từ đây, hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội cũng không còn 
được áp dụng. 
Tiến trình phát triển của luật hình sự đã chỉ ra các hình phạt trong luật 
hình sự Việt Nam được quy định thành hệ thống hình phạt với hai loại hình 
phạt là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt cụ thể của hai loại 
hình phạt này đều được Luật hình sự quy định cụ thể về nội dung, mức độ cũng 
như về điều kiện áp dụng. Căn cứ chủ yếu để phân biệt hình phạt chính với hình 
phạt bổ sung là khả năng áp dụng hình phạt đối với mỗi tội phạm. Về nguyên 
tắc, hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập, mỗi tội phạm chỉ có thể 
bị tuyên một hình phạt chính. Hình phạt bổ sung là hình phạt không thể tuyên 
độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm theo một hình phạt chính đối với một tội phạm. 
Nghiên cứu về khái niệm và đặc điểm của hệ thống hình phạt, chúng 
ta hướng tới xây dựng một hệ thống hình phạt hoàn thiện đáp ứng các tiêu chí 
chủ yếu: 
- Các quy định về hình phạt tại phần chung và các chế tài cụ thể đối 
với tội phạm trong Phần riêng Bộ luật Hình sự phải được xây dựng một cách 
khoa học, cân đối và tương xứng với nhau. 
- Hệ thống hình phạt phải thể hiện rõ được tính chất và mức độ 
nghiêm khắc khác nhau của các loại hình phạt tương ứng với tính chất và mức 
độ nguy hiểm cho xã hội của các nhóm tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Yêu 
cầu này đòi hỏi hệ thống hình phạt phải phản ánh được thực tại khách quan - 
phản ánh tội phạm, phải được xây dựng trong mối tương quan với các điều 
kiện xã hội, các biện pháp đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. 
- Hệ thống hình phạt phải có tính linh hoạt đảm bảo các điều kiện cần 
thiết để các loại hình phạt phát huy tác dụng của mình. 
- Hệ thống hình phạt phải có tính khả thi. Điều đó đòi hỏi việc quy 
định trình tự áp dụng các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt phải tương   
15 
ứng với sự phân chia các tội phạm thành các loại nhất định. Mặt khác, hệ 
thống hình phạt phải được quy định một cách cụ thể, rõ ràng và chính xác nội 
dung và điều kiện áp dụng, cũng như giới hạn tối thiểu và tối đa của các loại 
hình phạt. 
1.2. HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 
1.2.1. Khái niệm 
1.2.1.1. Bản chất pháp lý 
Cải tạo không giam giữ được quy định tại Điều 31 Bộ luật Hình sự 
1999 như sau: 
1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến 
ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội 
nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn 
định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết 
phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. 
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian 
tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải 
tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày 
cải tạo không giam giữ. 
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ 
quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương 
nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị 
kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền 
địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. 
3. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các 
quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu 
nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp đặc   
16 
biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi 
rõ lý do trong bản án [10]. 
Mục đích đảm bảo công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm của hình 
phạt đòi hỏi các hình phạt phải được xây dựng đa dạng và linh hoạt. Cải tạo 
không giam giữ là một hình phạt đáp ứng được yêu cầu đó, được thực hiện 
bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn, phát huy hiệu quả cao giữa trừng trị và cải tạo 
giáo dục. Bản chất của hình phạt vẫn là sự hạn chế tự do thể hiện ở việc người 
bị kết án dù được cải tạo, giáo dục tại địa phương nhưng tự bản thân họ luôn 
biết rằng mọi việc làm của họ đều bị theo dõi, giám sát, hoàn toàn không 
được tự do như bình thường 
Trong pháp luật hình sự Việt Nam, cải tạo không giam giữ là hình 
phạt chính, nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt không phải tù, nhẹ hơn 
hình phạt tù, nặng hơn phạt tiền và cảnh cáo. Việc quy định hình phạt này đã 
tạo khả năng cho Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với các trường hợp 
phạm tội mà nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền thì chưa đủ tính 
chất để trừng trị và giáo dục răn đe người phạm tội, răn đe người khác, nhưng 
cũng không cần thiết phải sử dụng hình phạt tù - hình phạt mà tính trừng trị 
nghiêm khắc được đảm bảo rõ nét. Là hình phạt chính, vì vậy, khi Tòa án 
tuyên áp dụng cải tạo không giam giữ cho người phạm tội có thể đồng thời 
tuyên một hoặc nhiều hình phạt bổ sung kèm theo. 
Theo tinh thần Nghị quyết 49 -NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ 
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cải tạo không giam 
giữ được đánh giá cao và lựa chọn là một trong những phương pháp đảm bảo 
cho hoạt động phòng và chống tội phạm ngày càng phát huy hiệu quả. Cũng 
như các hình phạt khác, cải tạo không giam giữ một mặt có tính cả đến đặc 
điểm của hình phạt nhưng mặt khác có nội dung, điều kiện và giới hạn áp 
dụng cụ thể riêng.   
17 
1.2.1.2. Đặc điểm 
- Điểm nổi bật của hình phạt này chính là khả năng tiến hành trừng trị 
và giáo dục, cải tạo người bị kết án nhưng không cần cách ly họ ra khỏi xã 
hội. Người bị kết án được thi hành án trong môi trường bình thường trước sự 
giám sát, giáo dục của cơ quan tổ chức hoặc chính quyền địa phương cụ thể. 
Người bị kết án hoàn toàn được quyền tham gia lao động, được bố trí làm 
việc trong những vị trí hợp lý, được sinh hoạt bình thường, được trả công lao 
động và tiếp tục hưởng các chế độ xã hội như họ đã từng được hưởng trước 
khi phạm tội và bị kết án. 
- Khác với các hình phạt tù, việc thi hành án cải tạo không giam giữ 
không phải được giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện. Thẩm quyền 
giám sát giáo dục này thuộc về cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi 
người bị kết án cư trú hoặc lao động sản xuất. Hình phạt này thể hiện rất rõ 
chính sách xã hội hóa công tác thi hành án của Đảng và Nhà nước ta trong 
những năm gần đây. Sự phối hợp giữa cơ quan, tổ chức và gia đình người bị 
kết án là điều cần thiết để tạo ra hiệu quả của hình phạt này. Những cơ quan 
này được tự do thực hiện các biện pháp giám sát để quản lý người bị kết án. 
Pháp luật hiện hành quy định rất cụ thể về các cơ quan, tổ chức có thể được 
tòa án giao trách nhiệm giáo dục, giám sát là: 
+ Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người bị kết án, nếu người đó là 
cán bộ, công chức, người đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo; 
+ Đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên, nếu người 
bị kết án là quân nhân, công nhân quốc phòng; 
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã nếu người bị kết án là người lao động làm 
công ăn lương; 
+ Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú, nếu 
người đó không thuộc đối tượng của ba cơ quan, tổ chức trên.   
18 
Trong đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục 
người bị kết án có các trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể: 
+ Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án; 
+ Tạo điều kiện để người bị kết án lao động, học tập và hòa nhập vào 
cuộc sống chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; 
+ Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan khác và gia đình người bị 
kết án trong việc giáo dục, cảm hóa, giúp họ sửa chữa lỗi lầm; 
+ Yêu cầu người bị kết án thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình; có 
biện pháp ngăn ngừa, giáo dục kịp thời khi người đó có biểu hiện tiêu cực và 
thông báo với cơ quan có thẩm quyền để xử lý khi cần thiết; 
+ Kịp thời biểu dương khi người bị kết án có nhiều tiến bộ, tích cực 
tham gia các hoạt động xã hội hoặc lập công; 
+ Cho phép người bị kết án được vắng mặt ở nơi cư trú; 
+ Xem xét hoặc theo đề nghị của người bị kết án đề nghị Tòa án cấp 
huyện hoặc Tòa án quân sự khu vực nơi người đó đang chấp hành hình phạt 
xem xét việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt còn lại; 
+ Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn cải tạo không 
giam giữ cho người bị kết án; 
+ Nhận xét bằng văn bản và ghi vào sổ theo dõi về quá trình chấp 
hành hình phạt của người bị kết án khi người đó chuyển đi nơi khác; 
+ Tiến hành khấu trừ một phần thu nhập của người bị kết án theo 
quyết định của Tòa án để giao nộp cho cơ quan thi hành án dân sự. 
- Tính trừng trị của hình phạt thể hiện ở một loạt các nghĩa vụ mà 
người bị kết án phải thực hiện, bao gồm: 
+ Người bị kết án bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để 
sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc   
19 
khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Trường hợp phải 
thực hiện khấu trừ thu nhập, người đó phải tiến hành khai báo và giao nộp đầy 
đủ phần thu nhập bị khấu trừ theo quyết định của Tòa án cho cơ quan thi hành 
án dân sự. Nếu không nộp đúng hạn thì phải chịu lãi suất theo quy định của 
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 
+ Làm bản cam kết với cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục, trong đó 
nêu rõ nội dung quyết tâm và hướng sửa chữa lỗi lầm của mình. Bản cam kết 
phải có ý kiến của người người trực tiếp giám sát, giáo dục. Đồng thời người 
bị kết án phải thực hiện nghiêm chỉnh bản cam kết của mình, phải tích cực 
sửa chữa lỗi lầm, làm ăn lương thiện và tham gia các hoạt động chung tại 
cộng đồng nơi mình cư trú. Trong thời gian cải tạo, người thực hiện cải tạo 
không giam giữ phải ghi chép đầy đủ các nội dung quy định trong sổ theo dõi 
và nộp cho người trực tiếp giám sát, giáo dục khi hết thời hạn cải tạo không 
giam giữ; 
+ Bên cạnh đó, hàng tháng, người thực hiện cải tạo không giam giữ 
phải báo cáo bằng văn bản với người trực tiếp giám sát, giáo dục về tình hình 
rèn luyện, tu dưỡng của mình. Trong trường hợp người bị kết án vắng mặt 
khỏi nơi cư trú trên 30 ngày, thì bản báo cáo phải có nhận xét của cảnh sát 
khu vực hoặc công an xã nơi người đó đến tạm trú. Cứ ba tháng một lần, 
người bị kết án phải tự kiểm điểm về kết quả thực hiện bản cam kết của mình 
trước tập thể nơi mình làm việc, học tập hoặc cư trú; 
+ Phải có mặt khi cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục yêu cầu; 
+ Trong trường hợp người bị kết án cần đi khỏi nơi cư trú: 
Nếu là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người 
lao động làm công ăn lương, thì phải xin phép Thủ trưởng cơ quan, tổ chức 
nơi mình làm việc, đồng thời báo cho tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, 
ấp, bản hoặc cảnh sát khu vực, công an xã nơi mình cư trú;   
20 
Nếu là người đang học tập tại cơ sở giáo dục, đào tạo thì phải xin phép 
lãnh đạo cơ sở giáo dục, đào tạo, đồng thời báo cho tổ trưởng tổ dân phố, 
trưởng thôn, làng, ấp, bản hoặc cảnh sát khu vực, công an xã nơi mình cư trú; 
Nếu là người được giao cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn 
giám sát, giáo dục thì phải báo với người trực tiếp giám sát, giáo dục mình; 
trong trường hợp đi khỏi nơi cư trú trên 30 ngày thì phải báo cáo bằng văn 
bản gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn giám sát, giáo dục, 
trong đó ghi rõ thời gian vắng mặt, nơi đến tạm trú; 
Trong các trường hợp quy định nếu người bị kết án đi khỏi nơi cư trú 
qua đêm thì khi đến nơi phải trình báo ngay và nộp sổ theo dõi người bị kết án 
cho cảnh sát khu vực hoặc công an xã nơi đến tạm trú. 
+ Một yếu tố thể hiện nội dung trừng trị của hình phạt cải tạo không 
giam giữ nữa là người bị áp dụng hình phạt này phải chịu án tích trong thời 
hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt (Điều 64 Bộ luật Hình sự). 
- Nằm trong hệ thống hình phạt, cải tạo không giam giữ là một trong 
những hình phạt đem đến hiệu quả cao về giáo dục, phòng ngừa chung và 
phòng ngừa riêng. Người bị kết án cải tạo không giam giữ được bố trí công 
việc phù hợp với yêu cầu, mục đích giám sát, giáo dục và được hưởng chế độ 
phù hợp với công việc mà mình đảm nhiệm. Chẳng hạn, nếu người bị kết án 
làm việc trong các cơ quan nhà nước thì được hưởng quyền lợi theo các quy 
chế của cơ quan nhà nước, bao gồm đầy đủ lương, chế độ bảo hiểm và các đãi 
ngộ khác. Nếu người đó không làm việc tại cơ quan nhà nước thì cơ quan nhà 
nước tại địa phương tạo điều kiện cho họ làm ăn, sinh sống. 
Hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nặng nhất trong 
số các hình phạt không phải là tù, đứng sau hình phạt tù có thời hạn. Người 
phạm tội bị áp dụng hình phạt này khi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành 
vi họ gây ra không lớn hoặc lớn chưa đến mức phải chịu hình phạt tù và nếu   
21 
cảnh cáo và phạt tiền thì quá nhẹ. Không buộc người phạm tội phải vào trại 
cải tạo tước đi quyền tự do thân thể của họ, nhưng với hình phạt này người 
phạm tội phải chịu sự giám sát chặt chẽ, nghiêm ngặt của cơ quan, tổ chức nơi 
họ làm việc, sinh sống, thường trú. Người phạm tội phải cải tạo, tự sửa chữa 
bản thân mình, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước; tích cực 
tham gia lao động, học tập, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, quy tắc của 
thôn, làng, bản, cụm dân cư nơi mình cư trú, sinh sống. 
- Giống như các hình phạt khác, cải tạo không giam giữ có quy định 
rất chặt chẽ về thời hạn thi hành. Theo luật hình sự 1999, thời gian đó kéo dài 
từ 6 tháng đến 3 năm. Mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt này được ghi 
nhận cụ thể. Tòa án không thể tuyên án dưới mức tối thiểu và vượt mức tối 
đa. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm 
giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 
một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ. 
1.2.1.3. Điều kiện áp dụng 
Mục đích của hình phạt cải tạo không giam giữ là tạo điều kiện cho người 
bị kết án tự giác cải tạo, giáo dục trong môi trường xã hội bình thường, không 
bị tước tự do. Vì vậy, để áp dụng hình phạt này trong thực tiễn xét xử, Bộ luật 
Hình sự năm 1999 quy định cụ thể điều kiện để áp dụng. Các điều kiện đó là: 
- Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người phạm 
tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng mà đang có nơi làm việc ổn 
định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly 
người phạm tội khỏi xã hội. 
Như vậy, điều kiện đầu tiên để người phạm tội được hưởng hình phạt 
cải tạo không giam giữ là tội mà người đó phạm phải là tội ít nghiêm trọng "là 
tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình 
phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù" hoặc tội nghiêm trọng " là tội phạm gây   
22 
nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy 
là đến bảy năm tù;" (khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự 1999). 
Ngoài điều kiện phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, 
để được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, người phạm tội còn phải 
có nơi làm việc ổn định hoặc thường trú rõ ràng. Nếu không có nơi thường trú 
rõ ràng, hoặc nơi làm việc ổn định, người bị kết án sẽ không thể bị giám sát 
và giáo dục bởi một cơ quan, tổ chức có trách nhiệm. Mặt khác, nếu không có 
nơi làm việc ổn định, người phạm tội cũng không có cơ hội lao động, không 
có thu nhập, quy định của pháp luật về nghĩa vụ khấu trừ một phần thu nhập 
của người chịu án cải tạo không giam giữ trở thành một vấn đề không thể 
thực hiện. Trong những trường hợp này, mục đích cải tạo, giáo dục người 
phạm tội không hề đạt được, tác dụng của hình phạt không được phát huy. 
- Đồng thời với các điều kiện nêu trên, Tòa án chỉ có thể áp dụng hình 
phạt cải tạo không giam giữ cho người bị kết án nếu trong quá trình phân tích 
tình hình thực tế vụ án, Tòa án nhận thấy không cần thiết phải cách ly người 
phạm tội ra khỏi xã hội. Nói cách khác, hình phạt này được quyết định áp 
dụng trong trường hợp Tòa án nhận thức rõ việc chỉ hạn chế tự do của người 
bị kết án không làm cho mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tiếp tục phát 
triển, gây nguy hại cho xã hội; người phạm tội có nhân thân tốt, có khả năng 
tự cải tạo, giáo dục và/hoặc người phạm tội còn đáp ứng các tình tiết giảm 
nhẹ trách nhiệm hình sự khác. 
Tuy nhiên, xem xét tổng thể các văn bản pháp lý, chúng ta dễ dàng 
nhận thấy các điều kiện áp dụng của hình phạt cải tạo không giam giữ vẫn còn 
khá chung chung. Các căn cứ để tòa án tự nhận thấy không cần thiết phải cách 
ly người phạm tội ra khỏi xã hội là gì? Tình hình thực tế của vụ án cụ thể bao 
gồm những chi tiết nào? Không có quy định chi tiết về các vấn đề trên, với 
những gợi ý mở cho phép Tòa án tự đánh giá về khả năng tự cải tạo giáo dục 
của người phạm tội, pháp luật vô hình chung đã tạo điều kiện cho các sai lầm