1
NAM DƯỢC
CÂY THUỐC NAM
&
CÁC BÀI THUỐC
- 2015 -
2
3
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 3
LỜI NÓI ĐẦU 4
LƯU Ý TRONG SỬ DỤNG CÂY THUỐC NAM 5
CÂY THUỐC VÀ BÀI THUỐC THÔNG DỤNG 14
4
LỜI NÓI ĐẦU
Theo dòng lịch sử dân tộc kể từ giai thoại sư thầy Tuệ
Tĩnh điều chế và viết sách về thuốc Nam, đến ngài Hải Thượng
Lãn Ông cũng kế thừa truyền thống “lấy thuốc Nam trị bệnh
cho người Nam”. Các bài thuốc Nam đã lưu truyền và phát
triển, ăn sâu bám rễ trong đời sống nhân dân ta.
Ngành đông y dược nói chung và các thầy thuốc, thầy
lang nói riêng với những bài thuốc dân gian đã lưu giữ được
nhiều bài thuốc hay, thuốc quý chế từ những cây cỏ, hoa lá, thú
vật chúng ta thấy thường ngày. Nói như ai đó “người Việt Nam
ta dẫm lên thuốc mà không hay biết”. Những thứ cây quả ta ăn
hàng ngày nếu biết cách chế biến cũng trở thành thuốc. Cỏ mọc
ven bờ ruộng, cỏ bụi rậm kênh mương cũng có thể đem về chế
ra thuốc chữa bệnh… Thế nhưng không phải ai cũng biết được
điều đó, và những cây cỏ quý kia vẫn vô tình bị người ta cho là
thứ bỏ mà đối sử một cách thô bạo làm mất đi nguồn giống quý
nguồn gen giống của những loại cây thuốc.
Để góp phần bảo tồn, phát triển sở học của người Nam ta,
kiến thức về thuốc Nam dược. Không chỉ là để “lấy thuốc Nam
trị bệnh cho người Nam”, mà hơn hết là nâng cao ý thức của
con người về bảo vệ môi trường sống và quan tâm hơn đến các
loài cây muôn thú xung quanh ta, đưa ra các phương án phát
triển và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên gen quý giá
của nước ta.
Người thực hiện
5
LƯU Ý TRONG SỬ DỤNG CÂY
THUỐC NAM
Bất luận trong y học hiện đại hay y học cổ truyền vai trò
của dược đều không thể thiếu được, thậm chí, nhiều trường hợp
nó nâng cao chất lượng chữa bênh; đơn thuốc thiếu vị, vị thuốc
bào chế không đúng quy cách thì đơn thuốc đó chắc chắn giảm
tác dụng, do đó đã dùng nam dược là phải biết về dược từ khi
thu hái, bảo quản cho đến khi bào chế… Dưới đây là một số
điều cụ thể:
1. Thu hái
Các bộ phận cây thuốc có thời kỳ sinh trưởng nhất định
nên thời gian thu hái cũng phải đúng kỳ của nó mới đem lại tỷ
lệ hoạt chất cao nhất. Cụ thể về kỳ thu hái như sau
- Gốc, củ, vỏ, rễ: Đầu xuân, cuối thu, mùa đông (lúc cây
khô héo, hoạt chất tập trung tại rễ.
- Mầm lá: Mùa xuân, hè
- Hoa: Lúc ngậm nụ hoặc bắt đầu nở, như hoa cúc, hoa
kim ngân
- Quả: Lúc đã chín.
- Hạt: Lúc thật chín
Thu hái xong cần bảo quản chu đáo, tránh ẩm ướt, chống
sâu mọt. Với loại thuốc có tinh dầu, cần đậy kín, cất chỗ râm
(âm can).
2. Bào chế
Mục đích của bào chế là làm mất hoặc làm giảm chất độc
của thuốc điều hòa lại tính năng, hòa hoãn hoặc tăng công hiệu
của thuốc. Ví dụ: Bán hạ dùng sống, gây ngứa, nên phải chế
với nước gừng; ba đậu có dầu , gây ỉa chảy dữ dội, cần bào chế
6
làm mất chất dầu, giảm độc tính; hoặc có một số vị thuốc dùng
sống, chín thì lại có tác dụng khác nhau, ví dụ: sinh địa dùng
sống, tính lạnh, mát, để thanh nhiệt lương huyết; nhưng sinh
địa đem nấu chín với rượu thành thục địa, lại mang tính ấm,
dùng bổ huyết…
Những bài thuốc trong sách này thường dùng dưới dạng
sắc (thuốc thang), số lượng của từng thuốc trong bài ghi theo
dược liệu khô, nếu dược liệu tươi thì số lượng gấp đôi; riêng
với thuốc xông thì hầu hết dùng dược liệu tươi, vì dược liệu
khô đã giảm tinh dầu.
Dược liệu dùng trong những bài thuốc thang, nếu không
ghi chú tức là dùng dưới dạng khô theo tiêu chuẩn dược liệu đã
ban hành, còn nhưng vị thuốc dùng tươi hoặc cần sao tẩm thì
ghi chú rõ.
a) Phương pháp bào chế.
- Dùng lửa (hỏa chế):
Dùng lửa trực tiếp hoặc gián tiếp hong, sấy, cốt làm khô
ráo, xém vàng, thành than,… gồm có các phương pháp sau:
+ Sấy: Sấy thuốc trong lò sấy hoặc trên than
+ Nung: làm cho mất nước, tăng tác dụng hấp thu. Bỏ
thuốc nung trong nồi chịu lửa hoặc để thuốc trực tiếp trên lửa
đỏ. Thường dùng cho các loại thuốc khoáng vật như mẫu lệ
+ Lùi: Có tác dụng thu hút một số hoạt chất có dầu, làm
giảm bớt độc tính của thuốc như cam toại. Thuốc bọc giấy trớt
hoặc cám ướt, lùi vào tro nóng hoặc than, đến khi giấy cháy,
cám thì tro là được.
+ Bào: Làm giảm tính mãnh liệt của thuốc như bào
khương. Cho thuốc vào chảo sao đến khi xém vàng xung quanh
nứt nẻ.
7
+ Trích: Làm tăng tác dụng của thuốc như trích cam thảo
với mật đề làm tăng tác dụng dinh dưỡng, nhuận phế. Như vậy
trích là sao có tẩm mật, đường và các thành phần khác đến khi
không dính là được
+ Sao: Sao có nhiều tác dụng khác nhau và có nhiều cách
sao, nó là phương pháp bào chế hay dùng nhất. Nói chung, sao
là dùng nồi rang bằng đất hoặc chảo gang đốt nóng và đôi đũa
bằng tre để đảo dược liệu
Sao vàng: Để có mùi thơm, cho vị thuốc bớt hàn. Khi
sao, lửa phải nhỏ, sao lâu cho mặt ngoài vị thuốc có màu xém
vàng.
Sao vàng hạ thổ: để lấy lại thăng bằng âm dương cho vị
thuốc. Để dược liệu đã được sao vàng xuống mặt đất, trải trên
miếng vải hoặc giấy mỏng, đậy lại, để 10 – 15 phút cho nguội.
Sao vàng xém cạnh: Cách sao này áp dụng cho những vị
chua, chát hoặc tanh lợm quá. Sao cho xém cạnh mặt ngoài,
còn màu bên trong ruột vẫn như cũ.
Sao đen: Dùng lửa to, chảo thật nóng, sao cho đến khi
bên ngoài dược liệu cháy đen, khi bẻ ra, trong ruột còn vàng.
Sao tồn tính: Dùng lửa to, chao thật nóng, đảo đều dược
liệu đến khi khói lên, làm cho dược liệu cháy đen đến 70% mà
vẫn chưa thành than, mang ra khỏi lửa, úp vung lại để nguội.
Nếu thành than, thành tro, tính chất của thuốc bị thay đổi mất
hết tác dụng.
- Dùng nước (thủy chế):
Dùng nước làm cho vị thuốc sạch, mềm, dễ thái, giảm
tính độc. Có mấy cách sau:
+ Ngâm: Dùng nước nguội hay nước sôi để ngâm cho dễ
bóc vỏ như hạnh nhân, đào nhân. Nếu vị thuốc cứng, phải
ngâm lâu cho mềm, dễ thái, giảm tính độc.
8
+ Thủy phi: cho thêm nước vào nghiền chung với thuốc
bột để tán nhỏ, mịn và thuốc không bay ra, như hoạt thạch,
thanh đại.
Tẩm: Ngâm cho mềm vị thuốc để dễ bào nhỏ. Tẩm nhiều
loại: nước muối, nước gừng,… cho ngấm vào dược liệu trong 2
-4 giờ. Số lượng nước tầm 50 – 200 ml cho 1 kg dược liệu. Sau
khi tẩm, đem sao và sao cho đến vàng khô.
Tẩm rượu: Để bớt tính hàn, thêm tính ấm, dẫn thuốc đi
lên các bộ phận cơ thể, tản ra ngoài (thăng đề). Thường dùng
rượu trắng 35 – 40 %, tẩm trộn với dược liệu, sau 2 – 3 giờ rồi
sao vàng.
Tẩm muối: Làm cho thuốc có vị mặn, hướng thuốc đi
vào thận nhiều hơn, để tăng tác dụng của thuốc. Dùng nước
muối 20% tẩm, rồi sao
Tẩm gừng: Để giảm tính hàn, tăng tác dụng kích thích
tiêu hóa của thuốc, làm ấm tỳ vị và dẫn thuốc vào tỳ, vị, vào
phổi. Dùng gừng tươi (50 – 100g gừng tươi cho 1kg dược liệu,
rửa sạch, giã giập với ít nước, vắt lấy nước, trộn vào dược liệu,
ngâm khoảng 1 giờ, rồi đem sao vàng.
Tẩm dấm: Để tăng cường dẫn thuốc vào gan, tăng thêm
tác dụng của thuốc. Dùng dấm ăn, tẩm xấp dược liệu khoảng 1
– 2 giờ, rồi sao xém cạnh.
Tẩm mật: Để làm giảm tính đắng, tính chát, tăng tính
ấm, bổ và nhuận phổi của một số vị thuốc. Thường dùng mật
mía, nếu mặt đặc quá phải pha loãng với nước sôi tỷ lệ 1/1, tẩm
trộn với dược liệu, để khoảng 4 – 6 giờ, rồi sao vàng cạnh (sao
chậm).
Tẩm nước đậu đen hoặc cam thảo: Để làm giảm tính
độc của các vị thuốc có độc, làm thuốc êm dịu, đỡ chát, đỡ kích
thích, đỡ phản ứng. Dùng 100 g đậu đen hoặc 100 g cam thảo
9
cho 1 lít nước, đun sôi 1 giờ, gạn lấy nước, đem tẩm với dược
liệu, tỷ lệ tầm 10 – 12% so với dược liệu.
Tẩm nước gạo: Để bớt tính ráo, nóng hoặc độc của vị
thuốc. Dùng nước gạo đặc, mới vo. Số lượng nước gạo 5 – 10
% so với dược liệu. Dược liệu thái thành phiến tẩm nước gạo, ủ
một đêm, đem sấy khô, rồi sao vàng cạnh.
Tẩm nước tiểu: Để tăng tính dẫn thuốc vào máu và
giáng hỏa. Dùng nước tiểu trẻ em dưới 5 tuổi, không có bệnh
tật (không lấy nước đầu và nước cuối), số lượng 5% so với
dược liệu, tẩm trong 12 – 48 giờ, rồi đem sao vàng. Dược liệu
thường tẩm nước tiểu là cỏ gấu (hương phụ), nga truật (củ nghệ
xanh).
Tẩm đất sét vàng (hoàng thổ): Để giảm bớt tính nóng,
ráo của vị thuốc, dễ dẫn thuốc vào tỳ của các dược liệu có tính
dầu như bạch truật. Dùng đất sét vàng phơi khô, tán nhỏ, cứ
100 g đất sét cho vào một lít nước, đun sôi, quấy đều, chắt bỏ
nước trên, gạn lấy nước giữa, bỏ cặn, đem tẩm với dược liệu
theo tỷ lệ 40 – 50 % so với dược liệu, để 2 – 3 giờ, rồi đem sao
vàng.
Trong thủy chế, ngâm tẩm có khi còn kết hợp với cả sao
như hương phụ chế, bản hạ chế là những vị thường gặp.
Với hương phụ chế: Hương phụ (cỏ gấu) sau khi làm
sạch rễ, chia làm ba phần: một phần ngâm với dấm; một phần
ngâm với nước tiểu trẻ em, mỗi ngày thay nước tiểu một lần,
không dùng nước tiểu để lâu, thời gan ngâm là 3 ngày. Trận lẫn
ba phần hương phụ nói trên, rửa sạch, giã giập phơi khô, rồi
tẩm với rượu, sao thơm (cứ 1 kg hương phụ tẩm 200ml rượu)
Với bán hạ chế: Bán hạ Việt Nam (củ chóc), sau khi rửa
sạch, ngâm nước 2 – 3 ngày, mỗi ngày thay nước một lần cho
đến khi nước trong thì đem chế biến. Có hai cách: Tẩm cam
thảo và bồ kết, cho 100 g cam thảo và 100 g bồ kết vào 1 kg
bán hạ, rồi đổ nước đủ ngập đun đến khi cạn nước, vớt ra phơi
10
hoặc sấy khô; hoặc tẩm gừng và phèn chua, cho 50 g phèn
chua, 300 g gừng tươi giã nhỏ và 1 kg bán hạ, cho nước đủ
ngập, ngâm trong nước gừng, lần này cho thêm 150g gừng tươi
giã nát với ít nước, vắt lấy nước, rồi cho bán hạ vào ngâm trong
1 đêm, sau đó lấy ra sao vàng.
b) Các dạng của đơn thuốc
- Thuốc sắc (thuốc thang):
Là thuốc cho vào nước sắc, bỏ bã, lấy nước uống hoặc
dùng ngoài. Nó là một dạng thuốc hay dùng, thích ứng với các
loại bệnh, nhất là bệnh cấp tính.
Thuốc hấp thụ nhanh, dễ phát huy tác dụng, dễ gia giảm
phù hợp với từng chứng bệnh của người bện.
+ Nên sắc thuốc bằng ấm đắc hoặc xoong tráng men,
không nên dùng ấm kim loại tránh biến chất của thuốc. Đổ
nước lạnh ngập các vị thuốc, khi bước đã sôi, để nhỏ lửa cho
sôi âm ỉ, tránh trào hoặc mau cạn nước. Khi đun thấy có vị
thuốc nổi lên trên mặt nước thì quấy cho chìm xuống. không
nên mở vung luôn, làm bay hơi thuốc.
Có một số vị thuốc khi sắc phải theo thứ tự thời gian
khác nhau: loại thuốc khoáng vật như vỏ ốc, mai mực, long
cốt,… cần sắc trước để lấy ion kim loại hòa tan: vị thuốc có
tinh dầu như bạc hà, hương nhu,… cho vào sắc khi thuốc đã
gần đươc, để tránh bay mất tinh dầu; loại thuốc dạng keo như
da lừa (a giao), keo da trâu (hảng minh giao), cao quy bản,…
khi được nước thuốc, gạn bỏ bã, mới cho những loại thuốc đó
vào đun sôi, nhỏ lửa để hòa tan, nếu đun chúng dưới các vị
thuốc khác sẽ dính vào bã, làm giảm lượng cần dùng; loại
thuốc quý như lộc nhung, nhân sâm, tam thất,… cũng cần sắc
riêng để hòa tan, nếu đun chung với các vị thuốc khác sẽ dính
vào bã, làm giảm lượng cần dùng; loại thuốc quý như lộc
nhung, nhân sâm, tam thất, cũng cần sắc riêng để tránh dính
vào bã thuốc khác, gây lãng phí; loại thuốc gây kích thích niêm
11
mạc họng, có lông gây ho như lá nhót tây,… lúc sắc, cần bọc;
và một số vị thuốc nếu sắc thì sẽ lắng xuống đáy nồi như hạt
mã đề, hạt củ cải,… sẽ gây cháy mất hoạt chất, cho nên phải
bọc vải xô để sắc; loại thuốc khi bị quá nóng bị phân tích ra
thủy thành độc như chu xa (quặng sunfua thủy ngân bị phân
tích ra thủy ngân gây ngộ độc) thì phải uống riêng với nước
thuốc sau khi sắc.
- Rượu thuốc:
Dùng rượu thuốc làm dung môi triết suất hoạt chất của
các vị thuốc để uống hay dùng ngoài.
- Thuốc cao:
Cao lỏng uống trong: Sắc thuốc lấy hết hoạt chất, bỏ bã,
cô lại thành cao. Dùng nước đường, nước mật đun nhỏ lửa cho
tan. Hàm lượng trung bình là 1 ml cao lỏng tương ứng với 1 g
thuốc. Còn dạng cao đặc hơn thì hàm lượng 1 ml cao tương
ứng với 2 g – 5 g thuốc. Loại cao lỏng dễ uống, nhưng khó bảo
quản được lâu.
Cao mềm dùng ngoài: Các vị thuốc đem nấu thành cao,
cho tá dược (dầu thực vật, vazơlin,…) trộn lẫn làm thành cao
mềm. Thường dùng cho các vết thương phần mềm.
Cao cứng dùng ngoài: Các vị thuốc đem nấu thành cao,
cho tá dược (nhựa thông, sáp ong,…) trộn lẫn làm thành cao
cứng. Phết cao cứng trên giấy hoặc vải làm cao dán lên mụn
nhọt, khớp xương. Khi gặp nhiệt trên cơ thể thuốc sẽ mềm ra.
Cao cứng đem ngâm rượu, mật ong để uống, ví dụ cao khớp
100 g ngâm với 1 lít rượu trắng, 0,5 lit mật ong.
- Thuốc viên:
Viên dẹt: Các loại thuốc đem nấu thành cao, làm thành
cốm, rồi giập viên. Thể tích nhỏ, dễ uống. Nếu thuốc đắng khó
uống, có thể bọc đường. Thuốc kích thích niêm mạc dạ dày, có
thể dùng viên bọc keo.
12
Viên tròn (hoàn): Các vị thuốc đem tán nhỏ, rồi dùng
nước thuốc, hoặc rượu, dấm, mật, hồ gạo để bào chế thành
hoàn. Thuốc hoàn hấp thu chậm, tác dụng chậm; nhưng thể
tích nhỏ, dễ sử dụng và bảo quản.
- Thuốc tán: Các vị thuốc đem sao ròn, tán thành bột. Sử
dụng đơn giản, ít biến chất, hấp thu nhanh hơn so với thuốc
viên nhưng kém hơn so với thuốc sắc.
Thuốc tán dùng uống trong hoặc dùng ngoài. Nếu dùng
uống thì uống với nước sôi để nguội hoặc sắc khoảng vài chục
phút, bỏ cặn, uống nước.
c) Đơn vị đo lường
- Liều lượng: ghi theo đơn vị đo thường tiêu chuẩn Việt
Nam (TCVN) như gam (g), kilogam (kg), lít (l),…
- Đơn vị đo lường ngày trước quy ra tiêu chuẩn hiện
nay:
1 cân
1 lạng
1 đồng cân (1 tiền)
1 phân
1 ly
1 lai
= 500 g
= 31,25 g
= 3,25 g
= 0,325g
= 0,0325 g
= 0,00325 g
d) Phân biệt chứng hàn và chứng nhiệt.
Ngoài việc am hiểu những điều thông thường, nhưng
thiết yếu trên đây, việc phân biệt chứng hàn và chứng nhiệt trên
người để lựa chọn bài thuốc là rất quan trọng.
13
- Chứng hàn:
Sợ lạnh; thích ấm; miệng nhạt; không khát; sắc mặt xanh
trắng; tay, chân lạnh; nước tiểu trong; đại tiện lỏng; chất lưỡi
nhạt; rêu lưỡi trắng, trơn, ướt; mặt chậm.
- Chứng nhiệt:
Sốt; thích mát; mặt đỏ; mắt đỏ; tay, chân nóng; tiểu tiện
đỏ, ngắn; đại tiện táo; chất lưỡi đỏ; rêu lưỡi vàng khô; mạch
nhanh.
- Vận dụng chứng hàn, chứng nhiệt vào từng loại bệnh:
Cảm lạnh (cảm do phong hàn): Triệu chứng có thêm sợ
lạnh, nước đái trong, không khát nước, không có mồ hôi. Dùng
bài cảm số thể lạnh.
Cảm nóng (cảm do phong nhiệt): Triệu chứng có thêm sợ
nóng, khát nước, có mồ hôi, môi khô, nước tiểu vàng. Dùng bài
cảm sốt nóng.
Viêm đại tràng: Chứng đại tràng hàn: Đại tiện lỏng như
phân vịt, tiểu tiện trong và nhiều, bụng sôi, đau bụng, chân tay
lạnh, rêu lưỡi trắng tinh, mạch chậm. Chứng đại tràng nhiệt:
Đại tiện rắn, hậu môn sưng đau, đại tiện thối khắm, tiểu tiện ít
và đỏ, rêu lưỡi vàng và khô mạch nhanh.
14
CÂY THUỐC VÀ BÀI THUỐC
THÔNG DỤNG
1. Atiso (Ác ti sô)
Thông mật, thông tiểu tiện: lá tươi hoặc khô 5 – 10g, sắc
uống; hoặc cao lỏng 2 – 10 g trong ngày.
2. ẤU
(Ấu nước, ấu trụi, kỵ thực, lăng thực, krechep)
Nhức đầu, choáng váng và cảm sốt: 3 – 4 quả, sao cháy,
nước 300ml, sắc còn 100ml, chia 2 lần uống trong ngày.
Trẻ con sài đầu: cây củ ấu 10 – 16g, nước 600 ml, sắc
còn 200ml, chia làm hai lần uống trong ngày; hoặc sắc đặc để
bôi ngoài, không kể liều lượng.
3. BA CHẠC
(bí bái, dầu dấu, mạt, ke le van tio tăng, swai anor)
Ghẻ, viêm da, lở loét do liên cầu trùng: Lá ba chạc,
không kể liều lượng, nấu sôi, cho thêm 20 g phèn chua, tắm rửa
hết mủ nhớt rồi bôi cao. Cao gồm: lá bòng bong, lá bạch đàn, lá
bạch hạc, mỗi thứ 1 kg, cho thêm 5 g muối ăn, nấu thành cao
lỏng, ngày bôi 2 lần.
4. BA ĐẬU
(ba đậu, ba nhân, mầm đè, cây đế, mắc vát, công khói phồn,
giang tử, mãnh tử nhân, lão dương tử)
Đau bụng, viêm mạc dạ dày cấp tính (chữ theo đơn tam
vật bạch thang: ba đậu 1 g, cát cánh 2 g, bối mẫu 3 g, tất cả tán
bột, trộn đều, mỗi lần uống 0,2 g với nước ấm.
Thủy thũng (thũng nước): Ba đậu 200 mg, hạnh nhân 3 g,
làm thành viên bằng hạt đậu xanh, ngày 3 – 6 viên, uống đến
khi lợi tiểu, đi ngoài nhuận thì thôi.
15
Chữa ngộ độc ba đậu: chữa bằng cách uống nước hoàng
liên, nước đậu đũa để lạnh.
5. Bạc hà
Cảm thể nóng: Bạc hà 8 g, kinh giới 8 g, cam thảo đất
12g, kim ngân 16 g, lá tre 16 g, nước 600 ml, sắc còn 200 ml,
chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
Cảm mạo, nhức đầu: Lá bạc hà 6 g, kinh giới 6 g, bạch
chi 4 g, hành hoa 6 g, phòng phong 5g, hãm với nước sôi sau
20 phút, uống lúc nóng.
Xông mũi: Bạc hà 12 g, hương nhu 12 g, cỏ cứt lợn 12 g,
nước 500 ml, đun sôi, để cả bã rồi xông hơi, hít qua mũi, ngày
xông 1 – 2 lần.
Nôn, thông mật giúp sự tiêu hóa: lá bạc hà hay toàn cây
bạc hà, bỏ rễ 5 g, pha với nước sôi 200 ml, cách 3 giờ uống
một lần.
Viêm mũi dị ứng: lá bạc hà 20 g, lá hương nhu 20 g, cỏ
cứt lợn 20g, cồn 70
o
200 ml, ngâm ba thứ vào cồn trong 2
ngày, lọc đổ vào lọ, dùng bôi vào phía ngoài lỗ mũi hoặc qua
vải bịt miệng.
6. Lá ổi
Để trị mụn trứng cá và vết thâm: Chỉ cần rửa mặt sạch,
đắp lá ổi nghiền nhuyễn vào các nốt mụn hay vết thâm, sau 10
phút rửa sạch bằng nước, thực hiện hàng ngày cho đến khi mụn
bay biến. Riêng với mụn đầu đen, giã nhuyễn lá ổi và pha chút
nước ấm, dùng dung dịch này rửa mặt hàng ngày, chà xát nhẹ
vào những nơi có mụn sẽ giúp loại bỏ mụn nhanh chóng.
Giảm cân: Các thành phần của lá ổi hỗ trợ trong việc
giảm cân bằng cách ngăn chặn các tinh bột phức tạp chuyển
đổi thành các loại đường. Các carbohydrates thường được chia
nhỏ trong gan để nuôi cơ thể, lá ổi ngăn các carbonhydrates
này chuyển hóa thành hợp chất có thể dùng được. Để hỗ trợ
16
giảm cân, lá ổi thường được xắt nhỏ, phơi khô và pha nước
uống (như uống trà).
Mụn đầu đen: Giã nhuyễn lá ổi và pha chút nước ấm,
dùng dung dịch này rửa mặt hàng ngày, chà xát nhẹ vào những
nơi có mụn sẽ giúp loại bỏ mụn nhanh chóng.
Chăm sóc da: Chọn những ngọn lá ổi non rửa sạch và
nghiền nhỏ. Trộn lòng trắng trứng gà cùng một muỗng nhỏ
đường nâu khuấy cho tan đều.
Sau đó trộn hai hỗn hợp trên rồi thoa khắp mặt và vùng
cổ, để trong 5 phút và rửa mặt với nước ấm. Làm mỗi tuần 2 –
3 lần, trong vòng 1 tháng, da mặt sẽ được cải thiện rõ rệt và trở
nên sáng mịn.
Chống lão hoá: Lá ổi có chứa chất chống oxy hóa, các
chất này tiêu diệt các gốc tự do gây tổn hại làn da của bạn, do
đó bảo vệ da khỏi lão hóa cũng như cải thiện màu da và kết
cấu. Nước sắc từ lá ổi già có thể làm se khít da của bạn.
7. Đu đủ
Chữa chai chân: Dùng mủ quả đu đủ bôi vào chỗ bị chai,
dùng liên tục trong vài ngày chai sẽ bị tiêu hủy tan biến
Xóa đi vết tàn nhang trên mặt: Quả đu đủ xanh giã nhỏ
thêm nước sôi để nguội vắt lấy nước, xoa lên kèm lá rau má
ngày 2 – 3 lần. Dịch trong mủ đu đủ tẩy được những vết tàn
nhang, đồng thời phục hồi kích thích sắc tố da trở lại hoạt động
bình thường.
Chữa ho gà cho trẻ em: Hoa đu đủ đực 20 g, bỏ hai thứ
vào chén hấp cách thủy cho chính kỹ lấy nước cho trẻ uống
nhiều lần trong ngày. Người lớn cũng chữa được bằng phương
pháp này.
Ăn no, tiêu hóa quá tải, đầy ách dồn lên bụng, căn
trướng khó thở: Quả đu đủ xanh để cả vỏ thái lát luộc chín lấy
17
nước. Dùng nước luộc từ từ từng chén một (uống nhiều lần).
Hiện tượng đầy ách giảm đi, bụng nhẹ dần, người dễ chịu.
Vết thương phần mềm do hiện tượng nhiễm trùng: Dùng
lá đu đủ nấu lấy nước rửa vết thương chất kháng sinh trong lá
đu đủ làm vết thương mau lành, kích thích tế bào non phát
triển.
Tẩy giun cho trẻ em: Cho trẻ em ăn đu đủ chín lúc đói
bụng, giun kim sẽ tự ra đường hậu môn. Người lớn theo dõi rửa
hậu môn cho trẻ bằng dung dịch thuốc tím pha loãng.
Điều trị khối u (u trong vú, u buồng trứng, u sơ tử
cung,…): Hàng ngày dùng lá đu đủ nấu nước uống, có thể kết
hợp với lá hoàng cung trinh nữ. Uống liên tục trong mười ngày,
nghỉ 1 tuần lại uống tiếp trong đợt hai. Có tác dụng làm cho
khối u dừng lại, khối u nhỏ lại.
Cấp cứu rắn cắn: Dùng rễ đu đủ từ 5 – 8 g giã nhỏ vắt
lấy nước cho nạn nhân uống, bã đắp vào vết thương.
8. Đậu đen
Theo sách cổ đậu đen có vị ngọt, bổ thận âm bổ can
huyết, trừ phong nhiệt vị nhiệt, làm mát da lợi tiểu chỉ huyết.
Ăn đồ cay nóng chân răng lỡ loét: Nấu đậu đen với rau
má ăn thường xuyên.
Chữa đái dắt, đái buốt: Đậu đen 20g, liên nhục 20g, mã
đề 16g, thủy long 16g sắc uống trong ngày.
Đại tiện ra máu: Đậu đen (sao) 30g, hoa hòe (sao) 20g,
chi tử (sao đen) 20 g, tam thất 16g, huyết dụ 16g, sắc uống
trong ngày.
Sốt xuất huyết: Đậu đen 50g, cỏ mực 30g, huyết dụ 30g,
lá chi tử 40g, rau má 30g, kim ngân 30g, sắc uống ngày một
thang.
18
Trị mề đay: Đậu đen (sao) 50g, phòng phong 16g, kinh
giới 16g, ngân hoa 16g, liên kiêu 16g, chi tử 16g, thương nhĩ
16g, bạch chỉ 16g sắc với 0,5 lít nước, còn già nửa chia làm hai
lần uống trong ngày, kiêng gió sưởi ấm cơ thể.
Phụ nữ đang có thai bị đau bụng ra huyết đe dọa bị xảy
thai: Đậu đen (sao) 50g, ngãi diệp 20g, liên nhục 20h, sa nhân
16g, bố trích 20g, hoàng kỳ 16g, quy 16g, Bạch truật 16g, tía tô
20g, cam thảo 10g sắc với 0,5 lít nước. Còn già nửa chia hai
lần uống trong hai ngày.
Lưu ý: Khi dùng chọn đậu đen xanh lòng chất lượng tốt.
9. Bệnh Quai bị
Quai bị là bệnh truyền nhiễm, phát triển thông qua tiếp
xúc trò chuyện, lây qua đường nước bọt. Bệnh xuất hiện bằng
những hạch ở mang tai gây đau đớn. Bệnh gây triệu chứng
sưng to buồng trứng phụ nữ, nam giới sưng teo tinh hoàn dẫn
tới vô sinh.
Cách chữa:
- Dùng 3 đến 4 hạt gấc, bì cói hoặc chiếu cói đốt thành
than trộn với dầu vừng, làm cao loãng bôi vào chỗ sưng, đau.
- Vỏ chuối, hạt gấc, bì cói hoặc chiếu rách đốt thành than
tán nhỏ trộn với dầu vừng (dầu dừa cũng được) bôi vào chỗ
đau.
- Có thể dùng 2 - 3 nhân hạt gấc mài với dấm hoặc rượu
trắng bôi vào chỗ đau. Để dắp bên ngoài dùng vài củ hành, một
nhúm bồ hóng, thêm vài hạt muối, giã nát, xào nóng đắp vào
chỗ đau.