Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.81 KB, 56 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
khoa Quan Hệ Quốc Tế và chuyên ngành Kinh tế đối ngoại đã tận tình giảng dạy,
truyền đạt, bồi dưỡng tri thức cho em trong quá trình học tập và rèn luyện tại
trường Đại học dân lập Đông Đô, đồng thời em cũng xin cảm ơn TS.Ngô Tất Tố,
cô Trần Thị Vân, cô Nguyễn Kim Phượng luôn bên em dìu dắt chúng em trong quá
trình học tập tại trường.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến TS.Hoàng Phúc Lâm
người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em từ khi hình thành ý tưởng cho đến khi
hoàn thành khóa luận này.
Vì thời gian có hạn và phạm vi nghiên cứu rộng cho nên em không tránh khỏi
những thiếu sót trong khóa luận. Em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và
các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Thị Huyền Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Chữ viết tắt
1 CĐ Cao đẳng
2 CNH Công nghiệp hóa
3 ĐH Đại học
4 HĐH Hiện đại hóa
5 PTTH Phổ thông trung học
6 THCN Trung học chuyên nghiệp
7 THCS Trung học cơ sở
8 CMKT Chuyên môn kỹ thuật
9 VNĐ Việt Nam đồng
10 LĐ Lao động
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, đối với mọi quốc gia không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo thì
con người luôn là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành bại, phát triển
của quốc gia đó. Nguồn tài nguyên con người là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá,
vừa là nguồn vật chất vừa là nguồn tinh thần đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Bước vào thế kỉ XXI, khi mà khoa học công nghệ phát triển như vũ bão và
được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất kinh doanh thì việc đào tạo một đội ngũ có tri
thức, có năng lực phẩm chất đạo đức là vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia.
Từ xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO)vào ngày 7/11/2006. Gia nhập WTO
cơ hội đến với Việt Nam là rất nhiều nhưng thách thức cũng không phải là ít. Điều
đó cũng đòi hỏi Việt Nam phải có một đội ngũ nguồn nhân lực có chất lượng thích
ứng với hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Trước yêu cầu bức thiết của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong hội
nhập kinh tế quốc tế với Việt Nam, em đã chọn đề tài: Đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực trạng
và giải pháp.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Từ nghiên cứu tình hình đào tạo và phát triển nguồn lực con người trong hội
nhập kinh tế quốc tế để thấy được những thành tựu và hạn chế. Với mục đích nhằm
đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển nguồn lực ở Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập kinh tế.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình đào tạo và phát triển nguồn lực
con người ở nước ta trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm những vấn đề sau:
+ Nội dung phương pháp đào tạo nguồn lực con người trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế .
1

+ Kết quả và hạn chế trong đào tạo nguồn lực con người ở nước ta trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
4.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Là phương pháp thống kê đối chứng so
sánh, phương pháp chuyên gia và phân tích xử lý thông tin trên cơ sở kết hợp các
nguồn tư liệu cả trong nước và nước ngoài .
5.Giới hạn đề tài:
Đào tạo nguồn nhân lực trong đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và
trường nghề.
Thời gian: 2005-2010
6.Nội dung khóa luận
Nội dung khóa luận gồm 3 chương
Chương 1: Những lý luận về đào tạo và phát triền nguồn nhân lực ở
nước ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 2: Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế
2
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO
VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NƯỚC TA TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. CÁC KHÁI NIỆM
1.1.1.Nguồn nhân lực :
Nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng
tham gia lao động
*Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng:
- Số lượng: Được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng
trưởng nguồn nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực của một quốc gia là những người

trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của nhà nước và thời gian lao động
có thể huy động được từ họ.
Việc quy định độ tuổi của mỗi quốc gia là khác nhau tùy thuộc yêu cầu của
trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn ở Việt Nam, độ tuổi
lao động đối với nữ là 15 đến 55 tuổi, đối với nam là 15 đến 60 tuổi.
Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu qui mô và tốc
độ tăng dân số. Qui mô càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến qui mô
và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.
Chất lượng: Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố
bộ phận như trí tuệ sức khoẻ và trình độ, kiến thức, kỹ năng, sức khỏe và trình độ
lành nghề của người lao động. Trong các yếu trên thì yếu tố trí lực và thể lực là
hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét đánh giá chất lượng nguồn nhân lực .
Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện thông qua một hệ thống chỉ tiêu,
trong đó các chỉ tiêu chủ yếu sau:
+ Chỉ tiêu biểu hiện trạng thái sức khỏe của nguồn nhân lực: Sức khỏe là trạng
thái thoải mái về thể chất cũng như tinh thần của con người thông qua chuẩn mức
đo lường chiều cao, cân nặng, các giác quan nội khoa, ngoại khoa …Bên cạnh đó
3
việc đánh giá trạng thái sức khỏe của người lao động còn dựa trên các chỉ tiêu
chung của một quốc gia như tỉ lệ sinh, chết, tỉ lệ tử vong, suy dinh dưỡng của trẻ
em, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính, mức GDP/đầu người …Người lao động
có sức khoẻ tốt thể hiện ở khả năng tập trung, làm việc cao độ, năng suất cao.
Tỷ lệ người qua các cấp học như tiểu học, phổ thông cơ sở, trung học phổ
thông, cao đẳng, đại học, trên đại học …lao động có trình độ văn hóa cao tạo
khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng, những tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào thực tiễn .
+Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực: trình
độ chuyên môn kỹ thuật là trạng thái hiểu biết, kỹ năng thực hành về một số
chuyên môn nghề nghiệp nào đó được biểu hiện qua:
. Số lượng lao động đào tạo và chưa đào tạo

.Cơ cấu lao động được đào tạo
.Cơ cấu đào tạo (sơ cấp, trung cấp, cao cấp)
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh chất lượng nguồn nhân lực, thông
qua chỉ tiêu này cho thấy năng lực sản xuất của con người trong một doanh nghiệp
trong một ngành, trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, khả năng sử dụng khoa
học hiện đại vào sản xuất. Cũng giống như các loại nguồn lực khác, nguồn nhân
lực bao hàm số lượng đặc biệt là chất lượng đóng vai trò hết sức quan trọng trong
tạo ra của cải vật chất và văn hóa cho xã hội.
1.1.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
1.1.2.1.Khái niệm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Vốn được hiểu là giá trị mang lại lợi ích kinh tế, vốn được biểu hiện dưới
nhiều dạng khác nhau như vốn nhân lực là một trong những loại vốn quan
trọng nhất.
Vốn nhân lực là nguồn lực con người song không phải bất kỳ người nào cũng
có thể trở thành vốn nhân lực, cũng giống như các nguồn khác để đưa lại lợi ích
kinh tế cũng phải có giá trị, yếu tố con người muốn trở thành vốn nhân lực cũng
cần phải có giá trị, chính là giá trị sức lao động. Giá trị sức lao động cao hay thấp
phụ thuộc vào trình độ phát triển lành nghề của nhân lực, có ý nghĩa để người lao
4
động trở thành vốn nhân lực không thể có con đường nào khác ngoài công tác đào
tạo nghề cho họ.
Vốn nhân lực tự nó đòi hỏi con người phải có kiến thức chuyên môn, nghề
nghiệp và để có nguồn nhân lực ngày càng cao các nhà quản lý phải quan tâm tới
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Cùng với quá trình hội nhập, công nghệ tiên
tiến dẫn đến hàng loạt nghành công nghiệp truyền thống trở nên lạc hậu và nhiều
nghành công nghiệp mới ra đời. Vì vậy chất lượng đội ngũ nhân lực cần hướng vào
việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Như vậy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là tất cả những hoạt động để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mọi tổ chức và mục tiêu của tổ chức,
rèn luyện kỹ năng và xây dựng các phẩm chất nghề nghiệp cho người lao động,

giúp họ thực hiện tốt công việc của mình cả trong hiện tại và tương lai.
1.1.2.2. Mục tiêu và vai trò của đào tạo và phát triền nguồn nhân lực
Mục tiêu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là giúp cho người lao động tiếp
thu các kiến thức, học các kỹ năng mới và thay đổi các quan điểm hành vi cho phù
hợp với công việc, giúp họ thực hiện công việc hiệu quả hơn và giúp cho doanh
nghiệp khai thác được tối đa nguồn nhân lực của mình. Từ đó mà doanh nghiệp có
thể đạt được mục tiêu đề ra.
- Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các nội dung:
+ Đào tạo kiến thức phổ thông
+Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp
-Trang bị kiến thức đào tạo được chia ra:
Đào tạo mới: đã được áp dụng đối với những người chưa có nghề
Đào tạo lại: đào tạo những người đã có nghề song vì lý do nào đó nghề của họ
không còn phù hợp nữa.
Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề: nhằm bồi dưỡng nâng cao kiến thức và
kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận những công việc phức
tạp hơn.
Trình độ lành nghề của nguồn nhân lực thể hiện mặt chất lượng của đội ngũ
lao động. Để đạt tới trình độ nào đó trước hết phải đào tạo nghề cho nguồn nhân
5
lực. Nghề được hiểu là một tập hợp hay toàn bộ những công việc tương tự về nội
dung và có liên quan với nhau ở mức độ nhất định. Đòi hỏi người lao động phải có
những hiểu biết về chuyên môn và nghiệp vụ, đòi hỏi phải có kinh nghiệm, kỹ
năng để thực hiện công việc nào đó.
Đối với người lao động, đào tạo và phát triển giúp người lao động làm việc tốt
hơn, đồng thời mang lại cho họ sự thỏa mãn về nhu cầu thăng tiến và thành đạt.
Đào tạo và phát triển nâng cao năng lực của người lao động, vì thế giúp họ làm
việc tốt hơn và ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn do họ có được cách nhìn và
tư duy mới mẻ. Bên cạnh đó, phát triển nguồn nhân lực lại làm tăng khả năng thích
nghi của người lao động đối với những biến đổi của công việc trong tương lai, giúp

họ mở rộng tầm nhìn và mang lại cho họ sự tự tin, thỏa mãn, đồng thời giúp họ tiến
những bước dài trong nấc thang sự nghiệp của mình.
Việc đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho nguồn nhân lực thực sự cần
thiết vì hàng năm có nhiều thanh niên bước vào độ tuổi lao động nhưng chưa đào tạo
được nghề, một chuyên môn nào, ngoài trình độ văn hóa phổ thông. Cùng với nền
kinh tế nhiều thành phần, cơ cấu công nghệ thay đổi, sản xuất ngày càng phát triển
mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật, chuyên môn mới ra đời. Đội ngũ nhân lực cần
phải được đào tạo nâng cao thêm cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất. Không chỉ
đáp ứng được yêu cầu đội ngũ nhân lực trước mắt mà còn trong tương lai.
Đối với xã hội hoạt động đào tạo và phát triển giúp cho xã hội có được nguồn
năng lực chất lượng cao, thúc đẩy sự hợp tác và phát triển trong xã hội. Nguồn
nhân lực được đào tạo và phát triển sẽ có những năng lực, phẩm chất cần thiết, đáp
ứng yêu cầu công việc trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Đồng thời con
người được đào tạo và phát triển sẽ mang lại được những phẩm chất tốt, do có quá
trình làm việc nghiêm túc hiệu quả. Bên cạnh đó, nguồn năng lực được đào tạo và
phát triển sẽ làm việc tốt hơn, các doanh nghiệp do vậy cũng hoạt động có hiệu quả
hơn. Vì vậy xã hội – doanh nghiệp – người lao động tăng cường mối quan hệ hợp
tác với nhau, thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo và phát triển đều là công việc cung cấp kiến thức, rèn luyện các kỹ
năng phẩm chất nghề nghiệp cho người lao động, tuy nhiên đào tạo nhấn mạnh đến
6
việc huấn luyện trong hiện tại và chú trọng đến công việc trong hiện tại, còn phát
triển là chú trọng đến các công việc trong tương lai.Như vậy, đào tạo luôn gắn với
chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của doanh nghiệp. Đào tạo chỉ đáp ứng yêu
cầu của công việc hiện tại, còn phát triển giúp thỏa mãn nhu cầu thăng tiến và làm
tăng khả năng thích ứng của người lao động đối với những biển đổi của công việc
trong tương lai.
1.1.3. Vai trò của nguồn nhân lực ở nước ta trong hội nhập kinh tế quốc
tế

Trong quá trình toàn cầu hóa, nền kinh tế nào dựa nhiều vào tri thức sẽ tạo ra
nhiều cơ hội phát triển, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sử dụng hiệu
quả mọi nguồn lực, tạo nhiều công ăn việc làm, giải quyết tốt hơn các quan hệ xã
hội, cải thiện đời sống con người Trong điều kiện mới đó, sự phát triển của mỗi
quốc gia phụ thuộc vào nguồn nhân lực là chủ yếu, thay vì dựa vào nguồn tài
nguyên, vốn vật chất như trước đây. Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây
cũng chỉ ra rằng động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững
chính là yếu tố con người, nguồn nhân lực.
Trong điều kiện ngày nay, trí tuệ con người giữ vai trò quyết định sức mạnh
của mỗi quốc gia, nó là tài nguyên của mọi tài nguyên và trí tuệ hóa lao động đang
trở thành xu thế phổ biến. Vì vậy để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hơn lúc nào hết, chúng ta phải nhanh chóng nâng cao năng lực trí tuệ, vốn
văn hóa, kỹ năng và trình độ về chuyên môn nghề nghiệp cho người lao động,
đồng thời phải quan tâm đặc biệt đến đội ngũ lao động chất xám, khai thác tốt nhất
tiềm năng và sức mạnh trí tuệ của cả dân tộc và thời đại.
Đối với Việt Nam, một nước còn nhiều hạn chế về nguồn lực tài chính và
nguồn tài nguyên chưa được sử dụng hiệu quả thì nguồn lực con người đóng vai
trò quyết định. Đảng và nhà nước ta đã xác định đất nước ta cần phát huy nguồn
lực quan trọng nhất để tiến hành CNH, HĐH đất nước là nguồn nhân lực con
người. Do vậy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là biện pháp giúp chúng ta có
thể khai thác các nguồn lực trong một nước có hiệu quả. Trước hết, chúng ta cần
phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của công tác chuyển
giao công nghê. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã bước vào nền kinh tế hậu
7
công nghiệp – kinh tế tri thức, trong khi đó Việt Nam mới chỉ bắt đầu thời kỳ
CNH, HĐH hội nhập kinh tế quốc tế, khoảng cách lạc hậu về trình độ phát triển
kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới có nguy cơ ngày
càng xa. Vì vậy, nước ta phải tranh thủ các lợi thế của người đi sau để có thể học
tập kinh nghiệm của các nước đi trước để có thể rút ngắn được khoảng cách tụt hậu
đó. Theo tinh thần chỉ đạo của Đảng, chúng ta cần nhanh chóng phát triển công

nghệ theo hướng đi thẳng vào công nghệ hiện đại để có thể đi trước đón đầu,
nhanh chóng bắt kịp các nước trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho
CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện được mục tiêu đó một
cách có hiệu quả, đòi hỏi nước ta phải có một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành
nghề, đội ngũ cán bộ chuyên môn có trình độ cao để vừa có khả năng tiếp nhận
khoa học công nghệ, vừa có khả năng tiếp nhận nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài để khắc phục tình trạng thiếu vốn ở trong nước, đồng thời tổ chức quản lý và
sử dụng các nguồn vốn đó một cách hiệu quả trong CNH, HĐH và góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế.
So với nhiều nước trên thế giới Việt Nam có lợi thế dân số đông, tuy nhiên
nếu không được đào tạo một cách bài bản thì dân đông sẽ trở thành gánh nặng cho
toàn bộ xã hội, nếu được đào tạo, đó sẽ là nguồn nhân lực có tác động tích cực trực
tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, nguồn
nhân lực chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nhân tố quan trọng bậc nhất để đưa Việt
Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển, có sức hấp dấn đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
1.1.4. Nội dung và phương pháp đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta trong
hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.4.1. Nội dung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
- Đào tạo và phát triển chuyên môn – kỹ thuật
Đào tạo và phát triển chuyên môn – kỹ thuật là nội dung đào tạo căn bản nhất
vì không có chuyên môn thì người lao động không thể làm việc được . Đào tạo và
phát triển chuyên môn – kỹ thuật bao gồm đào tạo các tri thức nghề nghiệp, các kỹ
năng nghề nghiệp và các phẩm chất, kinh nghiệm nghề nghiệp.
8
- Đào tạo và phát triển kỹ năng cơ bản
Những kỹ năng cơ bản là những kỹ năng cần thiết đối với hầu hết người lao
động, bao gồm kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ngoại ngữ. Đào tạo và phát triển những
kỹ năng này giúp cho người lao động có thể hòa nhập dễ dàng với môi trường làm

việc và thực hiện công việc một cách tốt hơn.
- Đào tạo và nâng cao trình độ chính trị và lý luận
Đào tạo và nâng cao chính trị và lý luận là đào tạo để nâng cao phẩm chất
chính trị và trang bị lý luận cho người lao động. Nội dung đào tạo này thường thấy
ở các doanh nghiệp nhà nước. Đào tạo chính trị thường bao gồm các nghị quyết,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các văn bản pháp luật, đạo đức kinh
doanh, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Đào tạo về lý luận nhận thức bao
gồm các học thuyết kinh tế, các quy luật kinh tế, quy luật tự nhiên, quy luật xã hội .
- Đào tạo và phát triển phương pháp tác nghiệp giúp cho nhân viên nắm
được phương pháp làm việc khoa học và đúng đắn. Đào tạo và phát triển phưong
pháp tác nghiệp thường nằm dưới dạng các thủ tục và quy trình làm việc, nhân
viên được hướng dẫn các quy trình này để làm việc đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.4.2 Phương pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Có nhiều phương pháp để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Mỗi một
phương pháp có cách thức thực hiện, ưu nhược điểm riêng mà các tổ chức cần cân
nhắc để lựa chọn cho phù hợp với điều kiện công việc, đặc điểm về lao động và về
nguồn tài chính của mình. Sau đây, chúng ta nói tới các phương pháp đào tạo và
phát triển nhân lực chủ yếu đang được thực hiện ở các nước và ở nước ta hoặc có thể
áp dụng ở nước ta.
Đào tạo trong công việc:
Đào tạo trong công việc là phương pháp đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc,
trong đó người học sẽ học được những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc
thông qua thực tế thực hiện công việc và thường là dưới sự hướng dẫn của người
lao động lành nghề hơn.
Nhóm này bao gồm các phương pháp:
-Đào tạo theo kiểu chỉ dẫn công việc:
9
Đây là phương pháp phổ biến dùng để dạy các kỹ năng thực hiện công việc
cho hầu hết các công nhân sản xuất và kể cả một số công việc quản lý. Quá trình
đào tạo bắt đầu bằng sự giới thiệu và giải thích của người dạy về mục tiêu của

công việc và chỉ dẫn tỉ mỉ, theo từng bước về cách quan sát, trao đổi, học hỏi và
làm thử cho tới khi thành thạo dưới sự hướng dẫn và chỉ dẫn tỉ mỉ, theo từng bước
về cách quan sát, trao đổi, học hỏi và làm thử cho tới khi thành thạo dưới sự hướng
dẫn và chỉ dẫn chặt chẽ của người dạy.
- Đào tạo theo kiểu học nghề:
Trong phương pháp này, các chương trình đào tạo bắt đầu bằng việc học lý
thuyết ở trên lớp, sau đó các học viên được đưa đến nơi làm việc dưới sự hướng
dẫn của công nhân lành nghề trong một vài năm, được thực hiện các công việc
thuộc nghề cần học cho tới khi thành thạo tất cả các kỹ năng của nghề. Phương
pháp này dùng để dạy một nghề hoàn chỉnh cho công nhân.
Các phương pháp này thực chất chỉ là sự kèm cặp của công nhân lành nghề
đối với người học và là phương pháp thông dụng ở Việt Nam.
- Kèm cặp và chỉ bảo:
Phương pháp này thường dùng cho cán bộ quản lý và các nhân viên giám sát
có thể học được các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc trước mắt và công
việc tương lai thông qua sự kèm cặp, chỉ bảo của những người quản lý giỏi hơn.
Có ba cách để kèm cặp là:
- Kèm cặp bởi người lãnh đạo trực tiếp.
- Kèm cặp bởi một cố vấn.
- Kèm cặp bởi người quản lý có kinh nghiệm hơn.
- Luân chuyển và thuyên chuyển công việc:
Luân chuyển và thuyên chuyển công việc là phương pháp chuyển người quản
lý từ công việc này sang công việc khác để cung cấp cho họ những kinh nghiệm
làm việc ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong tổ chức. Những kinh nghiệm và kiến
thức thu được qua quá trình đó sẽ giúp cho họ có khả năng thực hiện được công
việc cao hơn trong tương lai. Có thể luân chuyên và thuyên chuyển công việc theo
ba cách:
10
Chuyển đối tượng đào tạo đến nhận cương vị quản lý ở một bộ phận khác
trong tổ chức nhưng vẫn với chức năng và quyền hạn như cũ.

Người quản lý được cử đến nhận cương vị công tác mới ngoài lĩnh vực
chuyên môn của họ.
Người quản lý được bố trí luân chuyển công việc trong phạm vi nội bộ một
nghề chuyên môn.
Những ưu điểm của đào tạo trong công việc:
- Đào tạo trong công việc thường không yêu cầu một không gian hay những
trang thiết bị riêng biệt đặc thù.
- Đào tạo trong công việc có ý nghĩa thiết thực vì học viên được làm việc và
có thu nhập trong khi học.
- Đào tạo trong công việc mang lại một sự chuyển biến gần như ngay tức thời
trong kiến thức và kỹ năng thực hành (mất ít thời gian đào tạo).
- Đào tạo trong công việc cho phép học viên thực hành những gì mà tổ chức
trông mong ở họ sau khi quá trình đào tạo kết thúc.
- Đào tạo trong công việc tạo điều kiện cho học viên được làm việc cùng với
những đồng nghiệp tương lai của họ và bắt chước những hành vi lao động của
những đồng nghiệp.
Những nhược điểm của các phương pháp đào tạo trong công việc:
- Lý thuyết được trang bị không có hệ thống.
- Học viên có thể bắt chước những kinh nghiệm, thao tác không tiên tiến của
người dạy.
- Các điều kiện để đào tạo trong công việc đạt hiệu quả là:
- Các giáo viên dạy nghề phải được lựa chọn cẩn thận và giải đáp ứng những
yêu cầu chương trình đào tạo về trình độ chuyên môn, mức độ thành thạo công
việc và khả năng truyền thụ.
- Quá trình (chương trình) đào tạo phải được tổ chức chặt chẽ và có kế hoạch.
Đào tạo ngoài công việc:
Đào tạo ngoài công việc là phương pháp đào tạo trong đó người học được tách
11
khỏi sự thực hiện công việc thực tế.
Các phương pháp bao gồm:

- Tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp:
Đối với những nghề tương đối phức tạp hoặc các công việc có tính đặc thù, thì
việc đào tạo bằng kèm cặp không đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất
lượng. Các doanh nghiệp có thể tổ chức các lớp đào tạo với các phương tiện và
thiết bị dành riêng cho học tập. Trong phương pháp này hướng trình đào tạo gồm 2
phần: lý thuyết và thực hành. Phần lý thuyết được giảng tập trung cho các kỹ sư,
cán bộ kỹ thuật phụ trách còn phần thực hành được tiến hành ở các xưởng thực tập
do các kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn. Phương pháp này giúp cho học
viên học tập có hệ thống hơn.
- Cử đi học ở các trường chính quy:
Các doanh nghiệp cũng có thể cử người lao động đến học tập ở các trường
dạy nghề hoặc quản lý do các Bộ, ngành hoặc do Trung ương tổ chức. Trong
phương pháp này, người học sẽ được trang bị tương đối đầy đủ cả kiến thức lý
thuyết lẫn kỹ năng thực hành. Tuy nhiên phương pháp này tốn nhiều thời gian và
kinh phí đào tạo.
- Các bài giảng, các hội nghị hoặc các hội thảo:
Các buổi giảng bài hay hội nghị có thể được tổ chức tại doanh nghiệp hoặc ở
một hội nghị bên ngoài, có thể được tổ chức riêng hoặc kết hợp với các chương
trình đào tạo khác. Trong các buổi thảo luận, học viên sẽ thảo luận theo từng chủ
đề dưới sự hướng dẫn của người lãnh đạo nhóm và qua đó họ học được các kiến
thức kinh nghiệm cần thiết.
Đào tạo theo kiểu chương trình hóa với sự trợ giúp của máy tính:
Đây là phương pháp đào tạo kỹ năng hiện đại ngày nay mà nhiều công ty ở
nhiều nước đang sử dụng rộng rãi. Trong phương pháp này, các chương trình đào
tạo được viết sẵn trên đĩa mềm của máy tính, người học chỉ việc thực hiện theo các
hướng dẫn của máy tính, phương pháp này có thể sử dụng để đào tạo rất nhiều kỹ
năng mà không cần có người dạy.
12
Đào tạo lại theo phương thức từ xa:
Đào tạo từ xa là phương thức đào tạo mà giữa người dạy và người học không

trực tiếp gặp nhau tại một điểm và cùng thời gian mà thông qua phương tiện nghe
nhìn trung gian. Phương tiện trung gian này có thể sách, tài liệu học tập, băng hình,
băng tiếng, đĩa CD và VCD, Internet (Video-Conferencing). Cùng với sự phát triển
của khoa học công nghệ thông tin các phương tiện trung gian ngày càng đa dạng.
Phương thức đào tạo này có ưu điểm nổi bật là người học có thể chủ động bố trí
thời gian học tập cho phù hợp với kế hoạch của cá nhân, người học ở các địa điểm xa
trung tâm đào tạo vẫn có thể tham gia được những khóa học, chương trình đào tạo có
chất lượng cao. Tuy nhiên, hình thức đào tạo này đòi hỏi các cở sở đào tạo phải có
tính chuyên môn hóa cao, chuẩn bị bài giảng và chương trình đào tạo phải có sự đầu
tư lớn.
Đào tạo theo kiểu phòng thí nghiệm:
Phương pháp này bao gồm các cuộc hội thảo học tập trong đó sử dụng các kỹ
thuật như: bài tập tình huống, diễn kịch, mô phỏng trên máy tính, trò chơi quản lý
hoặc các bài tập giải quyết vấn đề. Đây là cách đào tạo hiện đại ngày nay nhằm
giúp cho người học thực tập giải quyết các tình huống giống như thực tế.
Mô hình hóa hành vi
Đây cũng là các phương pháp diễn kịch nhưng các vở kịch được thiết kế sẵn
các mô hình hóa các hành vi hợp lý trong các tình huống đặc biệt.
Đào tạo kỹ năng xử lý công văn giấy tờ
Đây là một kiểu bài tập, trong đó người quản lý nhận được một loạt các tài
liệu, các bản ghi nhớ, các tường trình, báo cáo, lời dặn dò của cấp trên và các thông
tin khác mà một người quản lý có thể nhận được khi vừa tới nơi làm việc và họ có
trách nhiệm phải xử lý nhanh chóng và đúng đắn. Phương pháp này giúp cho người
quản lý học tập cách ra quyết định nhanh chóng trong công việc hàng ngày.
13
1.2. KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRONG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1.2.1. Nhật Bản
Sụ lớn mạnh vượt bậc của nền kinh tế Nhật Bản nhiều thập kỷ qua đã chứng

minh: coi trọng phát triển nguồn nhân lực là một trong những chìa khóa của sự
thành công. Để có được một đội ngũ lao động có chất lượng nhờ dựa vào một nền
giáo dục hiện đại và thành công. Không phải những thập kỷ gần đây, Nhật Bản
mới coi trọng giáo dục mà phát triển lĩnh vực này từ lâu được coi là một quốc sách.
Thực tế giáo dục phổ thông trước chiến tranh đã đạt mức gần như 100%. Sau chiến
tranh, việc mở rộng giáo dục đã tạo nên cái gọi là “Kỷ nguyên bùng nổ giáo
dục”.Giáo dục bắt buộc cấp trung học cơ sở đã tạo điều kiện cho các em từ độ tuổi
6-15 được học tập miễn phí… cùng với tỷ lệ cao học sinh gia nhập các trường cao
đẳng, đại học, sau đại học, đã đưa Nhật Bản trở thành một cường quốc về giáo dục
của thế giới. Ở Nhật Bản con người luôn được coi là yếu tố quyết định nhất trong
quá trình sản xuất. Nhận thức này, một mặt là kế thừa truyền thống coi trọng con
người đã có từ trước trong lịch sử phát triển của Nhật Bản, mặt khác đó còn là xuất
phát từ hoàn cảnh đặc thù của nước Nhật sau chiến tranh. Ngoài con người Nhật
Bản với bàn tay và khối óc, Nhật Bản không có gì khác cả về tài nguyên thiên
nhiên và nguồn vốn, là một nước quần đảo, luôn bị đe dọa nhấn chìm hoặc phá hủy
bởi những trận động đất và núi lửa thường xuyên xảy ra. Do vậy ngay từ bé, trẻ em
Nhật Bản đã được dạy dỗ, khắc sâu một điều là muốn tồn tại và phát triển, người
Nhật Bản không có cách nào khác là phải quyết tâm vươn lên học giỏi và làm việc
cật lực. Và ngay sau chiến tranh, không những Chính phủ, giới kinh doanh, nhà
trường, mà từng cá nhân người Nhật đã tỏ rõ quyết tâm của mình bằng cách phát
triển nhân tố con người.
Duy trì và phát triển nhân lực không đơn giản chỉ là việc rèn luyện sức khỏe,
cơ bắp mà quan trọng hơn là đào tạo rèn luyện năng lực trí tuệ cho người lao động
để tạo ra năng suất lao động ngày một cao. Trí lực con người không phải là cái
bẩm sinh, “nhất thành bất biến” mà phải được đào tạo, rèn luyện thường xuyên,
14
liên tục ngay từ khi còn ở tuổi mẫu giáo. Nhật Bản là nước đứng đầu thế giới trong
lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực “ từ xa” thông qua quá trình giáo dục từ tiền phổ
thông cho đến khi thạo nghề làm ra sản phẩm xã hội. Ở Nhật Bản, giáo dục tiểu
học và trung học cơ sở tuy được miễn phí nhưng là bắt buộc, ngay từ khi bước

chân vào trường tiểu học, học sinh đã được rèn luyện thói quen kỹ thuật, tinh thần
hợp tác trong sinh hoạt cũng như trong lao động. Năm 1972, Nhật Bản thực hiện
chế độ giáo dục bắt buộc với khẩu hiệu “Văn minh và khai hóa; làm giàu và bảo vệ
đất nước; học tập văn minh và kỹ thuật Âu-Mỹ, bảo vệ truyền thống văn hóa và
đạo đức Nhật Bản”. Sự phát triển vững chắc trong hệ thống giáo dục ở Nhật Bản
đã có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình tạo dựng một nguồn nhân lực có chất
lượng cao. Sự cần cù, lòng kiên trì, bền bỉ, kỷ luật lao động nghiêm, trung thành,
tận tụy với công việc và gắn bó sống còn với tổ chức mà họ đang làm việc…kết
hợp với trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật ngày càng được nâng lên
không ngừng là truyền thống quý báu đối với nhiều thế hệ người Nhật Bản. Đặc
biệt từ những năm 80 của thế kỷ XX, Nhật Bản đã bắt đầu triển khai một số
chương trình cơ cấu lại nền kinh tế với mục tiêu hình thành và phát triển một hệ
thống mạng lưới các tâm điểm kinh tế với trọng tâm là các khu công nghiệp trí
tuệ. Công nghiệp thông tin, mà đặc biệt là công nghiệp phần mềm được coi như
là một trong những mũi nhọn của nền kinh tế. Công nghệ phần mềm của Nhật
Bản hiện nay đứng vị trí thứ hai trên thế giới với tổng doanh thu năm 1995
(không kể dịch vụ phần mềm) lên đến 35 tỷ USD, chiếm 20% ngành công nghiệp
phần mềm thế giới.
Ở Nhật Bản luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - công ty – nhà
trường và xã hội trong việc phát huy và sử dụng nguồn nhân lực .Vì “con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội” nên việc hình thành và phát triển con người cả
về năng lực lẫn nhân cách, phải là kết quả của sự tác động qua lại giữa gia đình
(nơi họ sinh ra,được nuôi dưỡng và sinh sống), nhà trường (nơi họ được học tập và
đào tạo ) công ty (nơi họ làm việc và phát triển nghề nghiệp thậm chí nhân cách)
xã hội (nơi họ tồn tại và chịu tác động của nhiều nhân tố) nên các nhân tố này ở
Nhật Bản đều được khai thác và huy động vào việc phát huy, sử dụng nguồn nhân
15
lực. Tính nhân văn được đề cao trong việc sử dụng và phát huy nhân tố con người.
Phát huy và sử dụng nhân tố con người phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh
tế quốc gia cũng như chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp .

Ở Nhật Bản nhà nước có vai trò quan trọng như là người khởi xướng, vạch kế
hoạch và tổ chức trong việc phát huy và sử dụng nhân tố con người. Nhà nước là
người vạch ra những định hướng, mục tiêu kinh tế lớn trong tứng thời kỳ, nhờ đó
huy động và khai thác được hết nguồn lực lớn, nhất là nhân lực để phát triển kinh
tế. Nhà nước tạo ra một xã hội có trật tự và luật pháp, hình thành được một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp với từng thời kỳ. Bộ máy chính phủ của Nhật
Bản mặc dù gọn nhẹ nhất thế giới, nhưng là một bộ máy mạnh, hoạt động có hiệu
quả. Chính phủ Nhật Bản mạnh còn nhờ tập hợp được một đội ngũ công chức giỏi
và có trách nhiệm cao. Hầu hết họ đều tốt nghiệp từ trường đại học nên có năng lực
và rất được nể trọng.
Chính phủ Nhật Bản đã thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề con người đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội và biết tập trung mọi nguồn lực để đầu tư thích
đáng, có hiệu quả. Những kinh nghiệm của Nhật Bản trong lĩnh vực đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực đã để lại những bài học kinh nghiệm cho các nước, trong
đó có Việt Nam tham khảo và vận dụng.
1.2.2 Hàn Quốc
Hàn Quốc là một trong những nước có tỷ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục ở
mức cao hàng năm. Chính vì vậy, tỷ lệ học sinh đến trường của Hàn Quốc cũng rất
cao, bậc tiểu học 100%, trung học cơ sở 70% và trung học phổ thông là 60%.Như
vậy, có thể nói, trong suốt quá trình tiến hành công nghiệp hóa từ sau khi kết thúc
chiến tranh, đặc biệt là từ đầu thập kỷ 1960, Hàn Quốc đã rất chú trọng đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực đi đôi với các chính sách công nghiệp hóa hướng về xuất
khẩu. Các viện nghiên cứu được chú trọng đầu tư những trang thiết bị và phương
tiện hiện đại, có chế độ trả lương ưu đãi để lôi cuốn các nhà khoa học và các kỹ sư
tài năng của Hàn Quốc ở nước ngoài trở về góp sức vào công cuộc xây dựng đất
nước. Nhờ có chính sách phát triển nguồn nhân lực đồng bộ với chính sách phát
16
triển công nghệ và các biện pháp đẩy nhanh sự phát triển của các nghành công
nghiệp mới, nên chỉ sau một thời gian ngắn, Hàn Quốc đã thành công trong việc
sản xuất và xuất khẩu nhiều mặt hàng có hàm lượng khoa học công nghệ cao.

Sự thành công của Hàn Quốc còn là do chính phủ Hàn Quốc biết chia sẻ một
phần gánh nặng chi phí giáo dục – đào tạo công ty tư nhân, các tổ chức xã hội, các
tổ chức tình nguyện và các gia đình. Đồng thời sự gắn bó giữa giáo dục –khoa học
sản xuất đã được thực hiện một cách hữu cơ, được cụ thể hóa trong từng kế hoạch
5 năm. Người dân Hàn Quốc khao khát được giáo dục, có cơ hội tới trường ngang
nhau. Rất nhiều người Hàn Quốc có sự hy sinh to lớn cho giáo dục, không chỉ
giành cho con cái mà còn cho cả anh chị em họ.
Mặc dù là một đất nước nghèo nàn về tài nguyên, song Hàn Quốc có một
nguồn lực phong phú cả về số lượng lẫn chất lượng và những đặc tính riêng vốn có
của một dân tộc tương đối thuần nhất về chủng tộc, những ảnh hưởng sâu sắc của
văn hóa như lòng trung thành, tính hiếu học, tính tiết kiệm và tinh thần dân tộc cao
là những đặc trưng nổi bật của người Hàn Quốc .
Chính phủ Hàn Quốc đã có các chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực ngay từ khi đất nước giành độc lập với nhiều nội dung phong phú. Trong khi
xuất phát điểm chỉ là một quốc gia nghèo khó, đông dân thì tỷ lệ ngân sách cho
giáo dục theo kiểu “kim tự tháp ” ở Hàn Quốc là một kinh nghiệm tốt. Bằng việc
ưu tiên tới 89% ngân sách cho việc mở rộng nền móng ở các cấp tiểu học và trung
học cơ sở, Hàn Quốc đã kích thích được nhu cầu đối với giáo dục bậc cao và ở một
mức độ lớn đã khai thác được khu vực tư nhân để đáp ứng nhu cầu này. Ngoài việc
đào tạo giáo dục đại học ở trong và ngoài nước, Hàn Quốc còn khuyến khích đào
tạo nghề. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực này góp phần quan
trọng dẫn đến sự thành công của đường lối công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu
của Hàn Quốc. Các chính sách giáo dục và đào tạo, quản lý nguồn nhân lực của
Hàn Quốc luôn đi liền với chiến lược và chính sách phát triền kinh tế.
Thực tế do khi nhận thức được sự cần thiết và tính tất yếu khách quan của
việc cải cách hệ thống giáo dục – đào tạo, quản lý và sử dụng nguồn nhân lực phù
hợp với những yêu cầu của tình hình mới, chính phủ Hàn Quốc đã mạnh dạn tiến
17
hành các cuộc cải cách. Qua kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc cho thấy giáo
dục – đào tạo để tiếp tục nâng cao vai trò của nguồn nhân lực là rất quan trọng.

Đầu tư cho giáo dục là dạng đầu tư có lợi nhất.
1.2.3.Ấn Độ
Chính phủ Ấn Độ nhận thấy một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu để
cải thiện mức sống dân cư vùng nông thôn và phát triển nguồn nhân lực là xúc tiến
công nghiệp nhỏ ở vùng nông thôn trong chương trình công nghiệp hóa với một
đất nước có hơn 900 triệu dân, trong đó 75%dân sống bằng nghề nông. Các loại
hình công nghiệp có quy mô như ở Bangalore, Mysore, Auragabad và phổ biến ở
vùng ngoại ô thành phố Hyderbad… đã nói lên sự thành công của Chính phủ Ấn
Độ trong việc phát triển doanh nghiệp nhỏ nông thôn thông qua hệ thống tài chính
tín dụng, các tổ chức nghiên cứu, các dự án phát triển, các chương trình đào tạo, hỗ
trợ tiếp thị, áp dụng công nghệ mới…
Chủ trương có tính chiến lược của Ấn độ trong phát triển nguồn nhân lực là
đào tạo lao động làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Mục tiêu là phổ cập
công nghệ thông tin cho mọi người vào năm 2008, đẩy nhanh tốc độ thâm nhập
của máy vi tính trong nước từ mức trung bình 1PC cho 500 người hiện nay (năm
1998) lên tới 1PC cho 50 người với khả năng truy nhập phổ biến Internet/Intranet
vào năm 2008, với các ứng dụng phong phú về mọi mặt của đời sống kinh tế và xã
hội của đất nước. Cùng với mục tiêu công nghệ thông tin cho mọi người vào năm
2008, Chính phủ Ấn Độ sẽ đưa ra các chính sách nhằm tạo cơ sở để phát triển
nhanh chóng ý thức công nghệ thông tin, nối mạng trong chính phủ, công nghệ
thông tin phục vụ phát triển kinh tế, xâm nhập các ứng dụng công nghệ thông tin
vào nông thôn, huấn luyện người dân sử dụng công nghệ thông tin như: ngân hàng
từ xa, khám bệnh từ xa, trung tâm thông tin từ xa, thương mại điện tử…Huấn
luyện các chuyên gia công nghệ thông tin đạt trình độ thế giới cả về chất và lượng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG I:
Chương 1 đã tập trung đưa ra những phương hướng và một số biện pháp,
phương pháp về phát triển nguồn nhân lực. Thông qua cách đào tạo, quản lý và
18
phát triển nguồn nhân lực của một số nước tiêu biểu như Nhật Bản, Hàn Quốc…
Từ đó có những giải pháp và phương thức phát triển nguồn nhân lực phù hợp với

sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay Việt Nam cũng đã chuyên nghiệp
hơn trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đó cũng là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy nền kinh
tế phát triển.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC Ở NƯỚC TA TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
NƯỚC TA
- Ngân sách nhà nước cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Nhờ tình hình kinh tế được cải thiện, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục
cũng tăng lên có thêm sự đóng góp sâu rộng của nhân dân, nên chất lượng giáo dục
ngày càng được nâng cao. Theo Bộ Giáo dục – Đào tạo cho biết tổng dự toán chi
ngân sách cho giáo dục và đào tạo năm 2011 là 5.081,6 tỷ đồng, tăng 2,9% so với
năm 2010 (4937,5 tỷ đồng) trong đó, các khoản chi sẽ tăng là sự nghiệp khoa học
công nghệ tăng 8,1%, sự nghiệp bảo vệ môi trường tăng 5,3% Với ngân sách này
đã góp phần giải quyết kinh phí thực hiện các mục tiêu ưu tiên của nghành giáo
dục như: xây dựng cơ sở vật chất, cải cách sách giáo khoa …
- Hệ thống giáo dục đào tạo Việt Nam đã có những bước phát triển và chuyển
biến về mọi mặt cả về cơ cấu hệ thống mạng lưới loại hình trường, cơ sở vật chất,
quy mô đào tạo ở tất cả các bậc học và ngành đào tạo. Việt Nam bắt đầu giai đoạn
phổ cập THCS với mục tiêu đến năm 2010 đạt trình độ phổ cập THCS trên phạm
vi toàn quốc. Hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng và THCN đang từng bước củng
cố và phát triển là nguồn cung cấp nhân lực kỹ thuật chính cho nền kinh tế, cho thị
trường lao động ở các nghành, lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau.
Về cơ sở đào tạo
Bảng 2.1: Số trường, cơ sở đào tạo đại học-cao đẳng
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
Số trường 277 322 369 393 403

Công lập 243 275 305 322 326
Dân lập 34 47 64 71 77
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bảng 2.2: Về cơ sở đào tạo trung học chuyên nghiệp
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
20
Số trường 284 269 275 282 282
Công lập 227 205 203 203 198
Dân lập 57 64 72 79 84
Nguồn: Tổng cục thống kê
• Về quy mô giáo dục
Quy mô giáo dục đại học - cao đẳng và giáo dục nghề nghiệp tăng trong các
năm vừa qua và tiếp tục tăng trong những năm sắp tới để đáp ứng nhu cầu nhân lực
ngày càng tăng của các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Nâng dần quy mô tuyển sinh mới hàng năm của cả mạng lưới để đạt mục tiêu
tuyển khoảng 420.000 sinh viên trong năm 2010; gần 600.000 sinh viên trong năm
2015 và 1.200.000 sinh viên trong năm 2020.
Tổng quy mô đào tạo đại học, cao đẳng của cả mạng lưới đạt khoảng 1,8
triệu người vào năm 2010: 3,0 triệu người vào năm 2015 và 4,5 triệu người vào
năm 2020.
Quy mô đào tạo của các trường đại học
Quy mô đào tạo của các trường đại học, cao đẳng được xác định trên cơ sở
bảo đảm các điều kiện, yếu tố ảnh hưởng chất lượng như: số lượng, chất lượng
giảng viên, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, phòng học, phòng thí nghiệm, thực
hành, ký túc xá sinh viên, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác
đào tạo, quản lý nhà trường , đồng thời được cân đối phù hợp với đặc điểm của
các trường, ngành nghề đào tạo, bậc đào tạo và năng lực quản lý để bảo đảm chất
lượng đào tạo ngày càng được nâng cao. Định hướng quy mô đào tạo (số lượng
sinh viên đã quy đổi theo hình thức đào tạo chính quy) của các nhóm trường đại
học, cao đẳng như sau:

- Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh:
khoảng 42.000 sinh viên
- Các trường đại học trọng điểm khác: khoảng 35.000 sinh viên;
- Các trường đại học, học viện đào tạo các ngành nghề kỹ thuật - công nghệ,
kinh tế, luật, sư phạm và các lĩnh vực khác có gắn với kinh tế - kỹ thuật: khoảng
15.000 sinh viên quy đổi.
21

×