Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới ngày càng phát triển, khoảng cách về không gian giữa các quốc
gia càng thu hẹp, xu hướng toàn cầu hóa ngày càng được chú trọng. Hòa cùng
xu hướng thời đại, Việt Nam cũng đang từng bước hội nhập và liên kết kinh tế
khu vực. Từ khi đổi mới năm 1986, Việt Nam đã và đang thực hiện những bước
đi cần thiết để ngày càng hội nhập và liên kết kinh tế sâu rộng hơn bằng cách
tham gia ASEAN, APEC, WTO….
Để làm rõ được công cuộc thực hiện hội nhập và liên kết kinh tế khu vực
của Việt Nam từ khi đổi mới năm 1986 đến năm 2010 đồng thời kiến nghị một
số giải pháp để thúc đẩy hội nhập và liên kết kinh tế khu vực của Việt Nam, em
quyết định lựa chọn đề tài của mình là: “Hội nhập và liên kêt kinh tế khu vực ở
Việt Nam giai đoạn 1986 -2010”
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Chuyên đề này nhằm làm rõ công
cuộc thực hiện hội nhập và liên kết kinh tế khu vực của Việt Nam từ khi đổi mới
năm 1986 đến năm 2010 đồng thời kiến nghị một số giải pháp để thúc đẩy hội
nhập và liên kết kinh tế khu vực của Việt Nam
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Công cuộc thực hiện hội nhập và liên kết kinh tế
khu vực của Việt Nam từ khi đổi mới năm 1986 đến năm 2010
Phương pháp nghiên cứu: Để phân tích đề tài, bài viết này được thực hiện
thông qua việc sử dụng phép suy vật biện chứng cũng như những phương pháp
1
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
khoa học chung như: phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp tư duy logic…
4. Kết cấu đề án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bài viêt này bao
gồm 2 chương:
Chương 1: Lý luận chung về liên kết kinh tế khu vực
Chương 2: Thực trạng hội nhập kinh tế và liên kết kinh tế khu vực ở Việt
Nam giai đoạn 1986-2010 và giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế và liên kết
kinh tế khu vực tại Việt Nam
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC
1.1. LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC
1.1.1. Khái niệm và mục tiêu của liên kết kinh tế khu vực
1.1.1.1. Khái niệm liên kết kinh tế khu vực
Quá trình hợp tác của các quốc gia trong một khu vực địa lý nhằm giảm bớt
hay xóa bỏ các trở ngại đối với dòng vận động của hàng hóa, dịch vụ, lao động
và vốn giữa các quốc gia đố gọi là liên kết kinh tế khu vực. Liên kết kinh tế có
thể hoặc là mang tính thụ động nghĩa là các quốc gia thành viên chỉ đơn thuẩn
giảm bớt hay xóa bỏ những trở ngại trong quan hệ thương mại và đầu tư với
nhau (ví dụ như trường hợp khu vực mậu dịch tự do), hoặc mang tính chủ động,
tức là cùng với việc hạn chế hoặc xóa bỏ các trở ngại trong quan hệ lẫn nhau,
các quốc gia còn phối hợp thay đổi các chính sách và thể chế hiện hành, hoặc
cao hơn nữa, xây dựng những chính sách và thể chế mới nhằm làm cho thị
trường liên kết vận hành một cách suôn sẻ và có hiệu quả nhất (chẳng hạn như
2
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
đối với trường hợp thị trường chung hoặc liên minh kinh tế). Tuy nhiên, trên
hoạt động, sự phân biệt này chỉ là tương đối vì suy cho cùng, bất kì hình thức
liên kết nào muốn tồn tại được và hoạt động thành công đều phải chứa đựng
những yếu tố nhất định của liên kết chủ động.
1.1.1.2. Mục tiêu
Như đã chỉ ra ở chương bàn về thương mại quốc tế, chuyên môn hóa và
thương mại tự do mang lại cho các quốc gia nhiều lợi ích. Điều đó thể hiện ở
lượng tiêu dùng và cơ hội lựa chọn lớn hơn, giá cả thấp hơn, năng suất cao hơn,
và suy cho cùng là mức sống của người dẫn mỗi nước được cải thiện và nâng
cao. Các khối liên kết kinh tế khu vực được hình thành nhằm giúp các quốc gia
đạt được những mục tiêu này. Ngoài ra, quá trình liên kết còn hướng tới nhiều
mục tiêu khác nữa như vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ môi trường và
thậm chí cả việc thiết lập các liên minh chính trị.
1.1.2. Các cấp độ liên kết kinh tế khu vực
Việc phân biệt các cấp độ liên kết kinh tế khu vực tùy thuộc vào mức độ
phối hợp chính sách giữa các quốc gia thành viên. Có khối liên kết chỉ phối hợp
chính sách chung trong lĩnh vực thương mại, trong khi có khối lại thực hiện sự
phân biệt đối xử giữa các thành viên với các quốc gia ngoài khối ở hầu hết các
lĩnh vực, và do đó, gần như trở thành một quốc gia thống nhất. Về mặt lý thuyết,
có thể phân biệt 4 cấp độ liên kết kinh tế khác nhau có thể được áp dụng trong
một khối thương mại khu vực. Các cấp độ liên kết được giới thiệu dưới đây lần
lượt theo thứ tự từ thấp đến cao.
1.1.2.1. Khu vực mậu dịch tự do
Khu vực mậu dịch tự do là hính thức liên kết kinh tế theo đó tất cả các trở
ngại đối với quan hệ thương mại giữa các nước thành viên được xóa bỏ, nhưng
mỗi nước thành viên vẫn có quyền áp dụng chính sách thương mại riêng của
3
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
mình đối với các nước nằm ngoài khối. Khu vực mậu dịch tự do là cấp độ liên
kết kinh tế thấp nhất có thể có giữa hai hay nhiều quốc gia. Các quốc gia thành
viên của một khu vực mậu dịch tự do có nghĩa vụ xóa bỏ tất cả các mức thuế
quan và các trở ngại phi thuế quan như hạn ngạch và trợ cấp đối với thương mại
hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có thể duy trì bất cứ chính sách
nào mà quốc gia đo cho là phù hợp trong quan hệ với các nước nằm ngoài khối,
và vì vậy, những chính sách đó có thể rất khác nhau giữa các quốc gia. Các quốc
gia thành viên trong một khu vực mậu dịch tự do thường thỏa thuận thiết lập
một cơ chế giải quyết các tranh chấp thương mại có thể phát sinh.
1.1.2.2. Liên minh thuế quan
Liên minh thuế quan là hình thức liên kết kinh tế theo đó các quốc gia thành
viên xóa bỏ tất cả các trở ngại đối với quan hệ thương mại trong nội bộ khối,
đồng thời xây dựng chính sách thương mại chung đối với các quốc gia không
phải là thành viên. Như vậy, về thực chất, liên minh thuế quan cũng là một khu
vực mậu dịch tự do nhưng sự khác biệt cơ bản giữa chúng là ở chỗ các thành
viên của liên minh thuế quan phải thống nhất chính sách thương mại đối với các
quốc gia ngoài khối. Ngoài ra, các quốc gia thuộc liên minh thuế quan được
phép tiến hành đàm phán với các tổ chức siêu quốc gia như WTO với tư cách là
một chủ thể duy nhất.
1.1.2.3. Thị trường chung
Thị trường chung là hình thức liên kết kinh tế trong đó các quốc gia thực
hiện xóa bỏ tất cả các trở ngại đối với thương mại và dòng vận động của lao
động và vốn trong nội bộ khối, nhưng áp dụng một chính sách thương mại
chung đối với các quốc gia không phải là thành viên. Như vậy, thị trường chung
bao gồm những nhân tố của khu vực mậu dịch tự do và liên minh thuế quan,
ngoài ra còn bổ sung thêm di chuyển tự do của các yếu tố sản xuất quan trọng
4
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
là lao động và vốn. Do thị trương chung đòi hỏi phải có một sự hợp tác nhất
định về chính sách kinh tế và lao động nên việc đạt được cấp độ liên kết này là
rất khó khăn. Hơn nữa, lợi ích mà các quốc gia được hưởng có thể không đồng
đều do lao động có tay nghề thì di chuyển tới những quốc gia có mức lương cao
hơn, và vốn đầu tư sẽ chảy đến những nơi có mức lợi nhuận lớn hơn.
1.1.2.4. Liên minh kinh tế
Liên minh kinh tế là hình thức liên kết kinh tế theo đó, các quốc gia xóa bỏ
tất cả các trở ngại đối với dòng vận động của lao động và vốn trong nội bộ khối;
áp dụng chính sách thương mại chung đối với các quốc gia không phải là thành
viên; thống nhất các thể chế kinh tế và phối hợp các chính sách kinh tế. Liên
minh kinh tế cao hơn thị trường chung ở chỗ, ngoài việc đòi hỏi các quốc gia
thành viên phải kết hợp hài hòa các chính sách thuế, chính sách tiền tề và tài
khóa, nó còn dẫn tới hình thành những thể chế mang tính siêu quốc gia – nơi
đưa ra những quyết định có tính chất bắt buộc đối với cá quốc gia thành viên.
Khi một liên minh kinh tế sử dụng đồng một tiền chung thì nó được gọi là một
liên minh tiền tệ. Liên minh kinh tế đòi hỏi các quốc gia thành viên phải chấp
nhận hy sinh một phần đáng kể chủ quyền quốc gia của mình.
Quá trình tiến tới liên minh kinh tế đòi hỏi phải có sự phối hợp có hiệu quả
bộ máy quản lý và điều hành ở các quốc gia thành viên. Thực tế cho thấy những
mục tiêu liên kết về mặt kinh tế khó có thể đạt được một cách đầy đủ nếu thiếu
sự phối hợp về lĩnh vực chính trị và chính sách đối ngoại giữa các quốc gia
thành viên. Vì vậy, liên minh kinh tế có xu hướng dẫn đến sự hình thành liên
minh chính trị - quá trình phối hợp tất cả các lĩnh vực của hệ thống kinh tế và
chính trị của các quốc gia thành viên. Một liên minh chính trị đòi hỏi các quốc
gia thành viên phải thống nhất các chính sách về kinh tế, chính trị và đối ngoại
với các quốc gia ngoài khối. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó thì các
nước thành viên vẫn có quyền hoạch định các chính sách về kinh tế và chính trị
5
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
trong phạm vi quốc gia mình. Các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu (EU) hiện
đang trong quá trình liên kết theo hướng này.
1.2. TÁC ĐỘNG CỦA LIÊN KẾT KINH TẾ KHU VỰC
Liên kết kinh tế là một trong số những đề tài gây nhiều tranh cãi trong kinh
doanh quốc tế. Chủ đề được quan tâm là việc hình thành cá khối thương mại khu
vực sẽ có tác động như thế nào đến các vấn đề như công ăn việc làm, hoạt động
của các doanh nghiệp, văn hóa và mức sống ở các quốc gia. Một số ý kiến tập
trung vào những tác động tích cực của liên minh kinh tế, còn những ý kiến khác
thì lại nhấn mạnh đến những mặt trái của quá trình liên kết.
1.2.1. Lợi ích của liên kết kinh tế khu vực
Chương 5 đã chỉ ra rằng sở dĩ các nước tham gia vào quá trình chuyên môn
hóa và thương mại là vì điều đó mang lại nhiều lợi ích. Sự gia tăng mức độ
chuyên môn hóa, tính hiệu quả, khối lượng tiêu dùng và mức sống của người
dân ở các quốc gia trên thế giới là kết quả tất yếu của việc mở rộng hoạt động
thương mại quốc tế.
1.2.1.1. Tạo lập mậu dịch
Quá trình liên kết kinh tế dẫn đến việc xóa bỏ các trở ngại đối với thương
mại và/ hoặc đầu tư giữa cá quốc gia thành viên trong một khối thương mại. Sự
gia tăng quy mô thương mại giữa các quốc gia bắt nguồn từ quá trình liên kết
kinh tế khu vực được gọi là tác động tạo lập mậu dịch (trade creation). Tạo lập
mậu dịch mang lại cho người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở các quốc gia
thành viên cơ hội lựa chọn lớn hơn đối với các loại hàng hóa và dịch vụ. Một kết
quả khác của tạo lập mậu dịch là người tiêu dùng có thể mua được hàng hóa và
dịch vụ với chi phí thấp hơn, do có sự giảm bớt các trở ngại đối với thương mại.
Hơn nữa, mức giá thấp hơn đối với mỗi mặt hàng sẽ làm tăng mức cầu đối với
6
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
các mặt hàng khác vì người tiêu dùng có thể tiết kiệm được nhiều tiền hơn cho
việc mua sắm những mặt hàng đó.
1.2.1.2. Sự nhất trí cao hơn
Hoạt động của các định chế quốc tế như GATT và WTO có mục tiêu giảm
bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư trên quy mô toàn cầu. Những nỗ
lực liên kết kinh tế khu vực thường có sự tham gia của một vài cho tới hàng
chục quốc gia. Một lợi ích khác của quá trình liên kết kinh tế khu vực là việc đạt
tới sự nhất trí giữa một số lượng nhỏ các nước thành viên sẽ dễ dàng hơn so với
trường hợp có nhiều quốc gia liên quan (chẳng hạn như việc đạt được sự nhất trí
giữa 151 thành viên của QQTO là rất khó khăn)
1.2.1.3. Hợp tác chính trị
Liên kết kinh tế khu vực có thể mang lại nhiều lợi ích về mặt chính trị. Một
nhóm quốc gia có thể có tiếng nói chính trị có trọng lượng hơn trên trường quốc
tế so với tùng quốc gia riêng rẽ. Vì vậy, các quốc gia sẽ có được vị thế mạnh
hơn khi đàm phán với các quốc gia khác tại các diễn dàn như WTO hoặc Liên
hợp quốc. Quá trình liên kết gắn liền với sự hợp tác về chính trị có thể làm giảm
khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa các quốc gia thành viên. Trên thực tế thì
hòa bình đã được coi là mục tiêu trọng tâm của những nỗ lực liên kết ở châu Âu
trong những năm 50 của thế kỉ 20. Hậu quả tàn khốc của hai cuộc chiến tranh
thế giới trong nửa đầu thế kỷ 20 đã buộc châu Âu phải coi liên kết như là một
cách thức để ngăn ngừa các cuộc xung đột vũ trang.
1.2.1.4. Các lợi ích khác
Ngoài những tác động tích cực nêu trên, liên kết kinh tế khu vực còn mang
lị cho các nước thành viên nhiều lợi ích tĩnh và động khác như tiết kiệm được
chi phí quản lý, cải thiện điều kiện thương mại của cả khối với phần còn lại của
7
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
thế giới, gia tăng cạnh tranh và giảm mức độ độc quyền trên thị trường liên kết,
khai thác tính kinh tế theo quy mô, kích thích đầu tư từ các nguồn trong và ngoài
nước, gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất,… Tuy nhiên, những lợi ích
này chỉ có thể được khai thác triệt để nếu như các nước thành viên phối hợp với
nhau trong việc xây dựng những thể chế và chính sách kinh tế chung thích hợp.
Nói một cách khác, quá trình liên kết phải được diễn ra dựa trên cách tiếp cận
chủ động.
1.2.2. Những mặt hạn chế của liên kết kinh tế khu vực
1.2.2.1. Chuyển hướng mậu dịch
Ngược với tạo lập mậu dịch là tác động chuyển hương mậu dịch (trade
diversion) – hiện tượng thương mại được chuyển từ những quốc gia nằm ngoài
khối liên kết tới các quốc gia là thành viên của khối liên kết. Chuyển hướng mậu
dịch có thể xảy ra khi quá trình liên kết dẫn tới việc giảm bớt hoặc thủ tiêu các
mức thuế quan giữa các quốc gia thành viên. Như vậy chuyển hướng mậu dịch
có thể làm giảm quy mô thương mại giữa một nước thành viên với những quốc
gia khác có hiệu quả sản xuất cao hơn nhưng nằm ngoài khối liên kết và gia tăng
quan hệ thương mại của nước đó với các nước thành viên khác có hiệu quả sản
xuất kém hơn. Xét theo giác độ này thì liên kết kinh tế mang lại lợi ích cho
những nước thành viên sản xuất kém hiệu quả hơn nhưng trong khối liên kết.
Nếu như trong khối liên kết không có sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất hàng
hóa và dịch vụ thì người mua sẽ phải trả giá cao hơn khi chuyển hướng mậu
dịch diễn ra.
1.2.2.2. Chuyển dịch việc làm
Như đã chỉ ra ở trên, liên kết kinh tế khu vực mang lại nhiều lợi ích cho các
quốc gia thành viên, thế nhưng một số tầng lớp nhất định trong từng quốc gia có
thể phải gánh chịu những tác động tiêu cực. Cụ thể là những ngành công nghiệp
sử dụng nhiều lao động giản đơn ở những nước có mức lương cao sẽ có xu
8
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
hướng được chuyển tới những quốc gia thành viên khác có giá nhân công rẻ
hơn, từ đó dẫn tới tình trạng mất việc làm của nhiều công nhân trong các ngành
đó. Chẳng hạn, kể từ năm 1994, khi Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) có hiệu lực, nhiều doanh nghiệp dệt may của Mỹ và Canada đã
chuyển hoạt động sản xuất tới Mêhicô. Một số tính toán cho thấy đến cuối năm
1997, nước Mỹ đã bị mất khoảng từ 32.000 đến 100.000 việc làm trong các
ngành sản xuất công nghiệp do tác động trực tiếp của Hiệp định thương mại tự
do giữa Canada, Mêhicô và Mỹ.
Tuy nhiên, tác động tới việc làm có lẽ là chủ đề gây tranh cãi nhiều nhất khi
bàn tới liên kết kinh tế khu vực. Có nhiều ý kiến cho rằng, đối với mỗi quốc gia
thì liên kết có thể tác động tiêu cực đến một số ngành công nghiệp, nhưng nếu là
những ngành hoạt động kém hiệu quả và không có khả năng cạnh tranh quốc tế
thì việc thu hẹp quy mô của chúng là cần thiết. Hơn nữa, quá trình liên kết sẽ
thúc đẩy sự phát triển những ngành có ưu thế cạnh tranh, từ đó tạo ra những việc
làm mới. Số liệ thống kê cho thấy cho đến cuối năm 1997, việc gia tăng xuất
khẩu sang Mêhicô đã giúp tạo ra từ 90.000 đến 160.000 việc làm mới ở Mỹ.
Nhìn chung, các hiệp định thương mại khu vực có xu hướng dẫn đến sự chuyên
dịch trên thị trường lao đông – việc làm trong một số ngành có thể bị giảm,
nhưng nhiều việc làm mới lại được tao ra cho những ngành khác.
1.2.2.3. Hy sinh chủ quyền quốc gia
Quá trình liên kết kinh tế đồi hỏi các quốc gia thành viên phải có sự hy sinh
một phần chủ quyền quốc gia. Mức độ hy sinh chủ quyền là thấp nhất trong khu
vực mậu dịch tự do. Các quốc gia thành viên vẫn có quyền dựng nên những rào
cản thương mại mà họ cho là phù hợp với tất cả các quốc gia không phải là
thành viên. Mức độ hy sinh chủ quyền tăng dần nếu liên kết đạt tới các cấp độ
cao hơn. Mức độ hy sinh chủ quyền là lớn nhất khi các quốc gia hình thành một
liên minh kinh tế, đồng thời có xu hướng liên minh chặt chẽ hơn về mặt chính
9
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
trị. Khi đó, các quốc gia thành viên phải chấp nhận áp dụng chính sách đối ngoại
chung với các quốc gia không phải là thành viên, và thậm chí các chính sách
kinh tế, chính trị trong từng quốc gia, trong chừng mực nào đó, cũng có thể bị
chi phối bởi chính sách chung của cả khối. Đây là lý do giải thích tại sao việc
hình thành liên minh chính trị là rất khó khăn. Do có tình trành một số quốc gia
thành viên không có quan hệ thân thiện đối với những nước ngoài khối liên kết,
nhưng những quốc gia thành viên khác lại có quan hệ chặt chẽ với những nước
này nên việc hoạch định một chính sách đối ngoại chung là hết sức phức tạp.
Tuy nhiên, bất chấp những mặt hạn chế nói trên của các hiệp định thương
mại khu vực, quá trình liên kết kinh tế vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách mạnh
mẽ trên thế giới. Nội dung của phần tiếp theo sẽ đề cập đến những nỗ lực liên
kết ở các khu vực khác nhau trên thế giới.
1.3. LIÊN KẾT KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1. Liên kết kinh tế ở châu Âu
Có thể nói rằng châu Âu là nơi đang diễn ra quá trình liên kết khu vực sâu
rộng và thành công nhất. Những nỗ lực liên kết ở châu Âu đó được bắt đầu
ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc với sự tham gia của một
nhóm nhỏ các quốc gia và chỉ liên quan đến một vài ngành công nghiệp
được lựa chọn, và đến nay thì đã hầu như bao trùm toàn bộ Tây Âu và tất cả
các ngành công nghiệp. Hiện tại ở châu Âu có hai khối thương mại là Liên
minh châu  u (EU) và Hiệp hội thương mại tự do châu  u (EFTA), trong
đó EU đứng vai trò quan trọng không chỉ xétt về số thành viên, mà cả về
mức độ ảnh hưởng của khối liên kết này đối với nền kinh tế thế giới. EU
được đánh giá như là một siêu cường về kinh tế và chính trị đang nổi lên bên
cạnh Mỹ và Nhật bản. Vì vậy, nội dung bàn về liên kết kinh tế ở châu Âu, ta
sẽ đề cập sâu hơn đến quá trình hình thành và phát triển của EU.
10
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
1.3.1.1. Liên minh châu Âu (Europe Union – EU)
Quá trình hình thành Liên minh châu Âu có thể chia thành một số giai đoạn
sau :
Giai đoạn 1951-1956
Vào thời kỳ sau chiến tranh, để thực hiện tái thiết châu Âu, loại trừ
nguy cơ bùng nổ các cuộc xung đột vũ trang, và có được khả năng cạnh
tranh với nước Mỹ đang ngày càng trở nờn hựng mạnh, các nước châu Âu
đó bắt đầu đi những bước đầu tiên của quá trình liên kết kinh tế. Vào năm
1951, sáu quốc gia là Bỉ, Pháp, Tây Đức, Italia, Lucxămbua và Hà Lan đó
ký vào hiệp định thành lập Cộng đồng than và thép Châu Âu (European
Coal and Steel Community) theo đó tất cả các trở ngại đối với việc buôn bán
các mặt hàng than, sắt, thép giữa các quốc gia thành viên sẽ được dỡ bỏ. Tổ
chức này được coi là tiền thân của Liên minh châu Âu ngày nay.
Giai đoạn 1957-1986
Năm 1957, các thành viên của Cộng đồng than và thép Châu Âu đó ký
Hiệp ước Roma và hình thành Cộng đồng kinh tế Châu Âu (European
Economic Community - EEC). Hiệp ước Roma là một bước tiến quan trọng
trong quá trình hình thành một thị trường chung tương lai cho các quốc gia
này. Và vậy, hiệp ước này không chỉ quy định việc loại bỏ hàng rào thuế
quan giữa các quốc gia thành viên và thiết lập một biểu thuế chung đối với
các quốc gia khác, mà còn kêu gọi thực hiện di chuyển tự do hàng hóa, dịch
vụ, lao động và vốn trong nội bộ khối. Năm 1967, phạm vi của EEC được
mở rộng với việc bổ sung thêm một số ngành cũng nghiệp, trong đó đáng
chú ý nhất là ngành năng lượng nguyên tử, và khối liên kết này được đổi tờn
thành Cộng đồng Châu Âu (European Community - EC). Quy mô của EC
được mở rộng với sự gia nhập của các nước thành viên mới là Anh, Ai Len
và Đan Mạch (1973), Hy Lạp (1981), Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (1986).
11
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
Giai đoạn 1987-1992
Cho đến đầu những năm 80, các quốc gia thành viên EC cảm thấy thất
vọng và quá trình liên kết không đạt được những gỡ mà họ mong đợi.
Những mục tiêu quan trọng hàng đầu như việc dỡ bỏ các trở ngại đối với
dũng vận động của hàng hóa và vốn đầu tư giữa các nước thành viên, thiết
lập hệ thống tiêu chuẩn thống nhất đối với sản phẩm, quy định pháp lý và
thuế đó không thực hiện được. “Luật chơi” giữa các nước thành viên còn có
sự khác biệt lớn, gây trở ngại cho việc hình thành một thị trường thống nhất.
Tình trạng bảo hộ vẫn còn phổ biến ở các quốc gia thành viên dưới nhiều
hình thức khác nhau.
Để giải quyết tình trạng đáng thất vọng này, một ủy ban đặc biệt với tên
gọi là Uỷ ban Delors (lấy tên của Bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp lúc đó là
Jacques Delors) đó được thành lập để nghiên cứu những biện pháp cần thiết
nhằm đưa quá trình liên kết trở lại đúng hướng. Uỷ ban này đó đưa ra kế
hoạch xóa bỏ mọi chướng ngại vật còn tồn tại trên con đường tiến tới một
thị trường chung vào cuối năm 1992. Kế hoạch này được biết đến với tên
gọi là Đạo luật Châu Âu thống nhất (Single European Act - SEA). Mục tiêu
của SEA là nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh của các công ty châu Âu với
các công ty Nhật Bản và Bắc Mỹ. SEA đó được các quốc gia thành viên
thông qua và trở thành luật vào năm 1987. SEA có những mục tiêu sau đây:
- Xóa bỏ mọi hình thức kiểm soát thương mại trên biên giới giữa các
nước EC.
- Áp dụng nguyên tắc “thừa nhận lẫn nhau” đối với tiêu chuẩn sản
phẩm. Nếu tiêu chuẩn sản phẩm ở một nước thành viên đáp ứng được
các yêu cầu cơ bản thì sẽ được chấp nhận ở các nước thành viên khác.
- Cho phép các nhà cung cấp cạnh tranh với nhau trong lĩnh vực mua
sắm cũng trong phạm vi toàn khối.
12
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
- Xóa bỏ mọi hạn chế đối với các giao dịch ngoại hối và cho phép cạnh
tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính trong phạm vi toàn khối.
- Xóa bỏ các hạn chế đối với quyền của các công ty trong việc phân
phối hàng hóa ở các quốc gia thành viên.
Sự ra đời của SEA đó tạo ra những ảnh hưởng nhất định đến giới doanh
nghiệp châu Âu. Trong suốt những năm 80, do dự đoán trước được về sự
hình thành của một thị trường "liên Châu Âu" nên các công ty châu Âu đó
thay đổi chiến thuật và chiến lược thị trường, củng cố vị thế của mình để
khai thác các cơ hội do SEA mang lại. Kết quả là giữa các công ty châu Âu
đó dấy lên làn sóng sáp nhập và thôn tính lẫn nhau.
Nhìn chung, SEA được đánh giá là mang lại lợi ích nhiều nhất cho các
công ty lớn của châu Âu. Lý do là vì các công ty này có khả năng kết hợp
những hiểu biết đặc biệt của mình về nhu cầu và các đặc trưng văn hóa của
người dân châu Âu với khả năng sản xuất quy mô lớn nhằm phục vụ cho tất
cả các thị trường của các quốc gia ở châu Âu, và do đó cắt giảm được chi
phí. Tuy nhiên, các công ty vừa và nhỏ cũng có lợi từ SEA nhờ việc thông
qua các định chế của khối liên kết để hòa nhập vào mạng lưới kinh doanh
trong châu lục.
Việc thông qua SEA cũng tác động tới các doanh nghiệp ngoài châu Âu.
Mặc dự việc tiêu chuẩn hóa sản phẩm đó được thực hiện theo quy định của Đạo
luật, song nhiều vấn đề vẫn phát sinh đối với các công ty ngoài châu Âu. Chẳng
hạn, điều khoản quy định các quốc gia riêng rẽ vẫn có thể cấm nhập khẩu những
mặt hàng được coi là có hại cho an ninh xã hội sẽ khiến cho việc thâm nhập vào
thị trường châu Âu trở nên rất khó khăn. Vấn đề này phát sinh do các quốc gia
có toàn quyền trong việc xác định những gì được coi là nguy hiểm đối với an
ninh công cộng. Rất nhiều các công ty xuất khẩu nhỏ trên toàn thế giới phải đối
mặt với vấn đề là làm thế nào để xác định được tiêu chuẩn thống thất của châu
13
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
Âu đối với các sản phẩm của mình. Các quan chức thương mại Mỹ ước tính
rằng trong tổng số 112 tỷ USD hàng hóa xuất khẩu của Mỹ sang châu Âu, có ít
nhất một lượng hàng hóa trị giá 300 triệu USD trước đây từng được nhập khẩu
tự do vào châu Âu, nhưng nay lại phải cần tới sự chấp thuận của mỗi quốc gia.
Một tác động khác của SEA đối với các công ty ngoài châu Âu là việc
các công ty này phải tính đến khả năng tổ chức sản xuất trên thị trường châu
Âu. Đối với nhiều công ty thì vấn đề đặt ra không phải là liệu có nên sản
xuất trong phạm vi EC hay không, mà là ở chỗ nếu các công ty đó muốn tiêu
thụ được sản phẩm của mình trên thị trường EC thì giải pháp duy nhất là
phải thiết lập hoạt động sản xuất ngay tại thị trường đó.
Giai đoạn 1993 – nay
Trong thời gian trước khi SEA hết hiệu lực, một số thành viên EC đó
bày tỏ quan điểm muốn đưa quá trình liên kết châu Âu tiến xa hơn nữa. Vào
năm 1991, các nước thành viên EC đó tổ chức hội nghị thượng đỉnh tại
Maastricht, Hà Lan, để bàn về kế hoạch cho những giai đoạn liên kết cao
hơn. Kết quả là Hiệp ước Maastricht (Maastricht Treaty) đó được các nước
thành viên EC ký kết vào cuối năm 1993, dẫn tới sự ra đời của Liên minh
châu Âu (European Union - EU) kể từ năm 1994. Các cuộc trưng cầu dân ý
ở một số nước châu Âu đó dẫn tới việc có thêm 3 nước là Áo, Thụy Điển và
Phần Lan gia nhập EU vào năm 1995. Tiếp theo đó, năm 2004, EU kết nạp
thêm 10 thành viên là Séc, Hungari, Ba Lan, Slovakia, Slovenia, Litva,
Latvia, Estonia, Malta, Cộng hòa Síp nâng tổng số thành viên lên 25 thành
viên. Đầu năm 2007, con số này được tăng lên thành 27 với sự gia nhập của
Romania và Bungari.
Hiệp ước Maastricht đó tạo ra một bước tiến dài đối với quá trình liên
kết ở châu Âu. Trong khuôn khổ hiệp ước Maastricht, các quốc gia thành
viên đó đạt được thỏa thuận về những vấn đề sau:
14
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
Thứ nhất, hiệp ước đạt được thỏa thuận về việc sử dụng một đồng tiền
chung (đồng Euro) kể từ ngày 1/1/1999 trong hệ thống ngân hàng, và đưa
tiền xu và tiền giấy vào lưu thông từ ngày 1/1/2002. Một đồng tiền chung rõ
ràng là có lợi cho các công ty kinh doanh ở EU. Các công ty không phải mất
khoản chi phí phát sinh từ việc chuyển đổi từ một đồng tiền này sang một
đồng tiền khác và tránh được rủi ro biến động tỷ giá giữa các đồng tiền
trong khối, từ đó tiết kiệm được nguồn vốn dành cho đầu tư.
Thứ hai, hiệp ước đặt ra các mục tiêu đối với chính sách tiền tệ và tài
khoá mà các quốc gia muốn gia nhập liên minh tiền tệ phải đạt được. Cụ thể
là mức thâm hụt ngân sách của chính phủ phải thấp hơn 3% GDP, nợ chính
phủ phải thấp hơn 60% GDP, tỉ lệ lạm phát và lãi suất dao động trong giới
hạn tương ứng là 1,5% và 2% so với mức của 3 quốc gia thành viên được
coi là có nền kinh tế phát triển lành mạnh nhất. Cho đến nay trong số 27
nước thành viên của EU chỉ có Anh và 12 nước thành viên mới gia nhập
chưa đủ điều kiện là không tham gia vào liên minh tiền tệ.
Thứ ba, hiệp ước kêu gọi hình thành một liên minh chính trị giữa các
quốc gia thành viên - bao gồm việc thiết lập chính sách đối ngoại và quốc
phòng chung và quyền công dân thống nhất. Tuy nhiên, tiến bộ trong lĩnh
vực liên kết chính trị còn phụ thuộc vào việc liệu các giai đoạn cuối cùng
của liên minh kinh tế và tiền tệ có diễn ra một cách suôn sẻ hay không.
Việc ký kết Hiệp ước Maastricht có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh
tế, chính trị và xã hội ở các nước châu Âu. Kế hoạch sử dụng đồng tiền
chung đó gây ra những xao động chính trị - xã hội ở nhiều quốc gia. Người
dân Bỉ đó phản đối việc chính phủ cắt giảm chi tiêu cũng cộng nhằm đáp
ứng các tiêu chuẩn tham gia vào liên minh tiền tệ. Việc chính phủ Anh
không theo đuổi chính sách tham gia đồng tiền chung đó gặp phải sự phản
đối của nhiều đảng phải và giới doanh nghiệp. Nhiều công ty ngoài châu Âu,
15
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
chẳng hạn như hãng Toyota, đó tỏ thái độ rằng nếu nước Anh tiếp tục nằm
ngoài liên minh tiền tệ thì họ sẽ có thể phải cân nhắc lại việc đầu tư vào
quốc gia này.
Sau hiệp ước Maastrich, các nước thành viên EU còn kí kết 4 hiệp ước
khác là Hiệp ước Amsterdam, Hiệp ước Schengen, Hiệp ước Nice và gần
đây nhất là hiệp ước Lisbon.
Hiệp ước Amsterdam (còn gọi là Hiệp ước Maastricht sửa đổi - ký ngày
2/10/1997 tại Amsterdam - Hà Lan) đã có một số sửa đổi và bổ sung trong một
số lĩnh vực chính như: 1. Những quyền cơ bản, không phân biệt đối xử; 2. Tư
pháp và đối nội; 3. Chính sách xã hội và việc làm; 4. Chính sách đối ngoại và an
ninh chung.
Hiệp ước Schengen: Ngày 19/6/1990, Hiệp ước Schengen được thoả thuận
xong. Đến 27/11/1990, 6 nước : Pháp, Đức, Luxembourg, Bỉ, Hà Lan, Italia
chính thức ký Hiệp ước Schengen. Hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ký
ngày 25/6/1991. Ngày 26/3/1995, Hiệp ước này mới có hiệu lực tại 7 nước thành
viên. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của công dân các nước thành viên.
Đối với công dân nước ngoài chỉ cần có visa của 1 trong 9 nước trên là được
phép đi lại trong toàn bộ khu vực Schengen. Hiện nay, hầu như các nước thành
viên EU đã tham gia khu vực Schengen.
Hiệp ước Nice (7-11/12/2000): tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón
nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của Nghị viện châu Âu,
thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF).
Hiệp ước Lisbon: Hiệp ước này chính thức có hiệu lực từ ngày
01/12/2009 với những hoàn thiện và sửa đổi về nội dung của các hiệp ước
trước đó. Hiệp ước không chỉ qui định những quyền lợi mới của công dân
16
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
EU cũng như hoàn thiện các qui định về thể chế và chức vụ lãnh đạo… mà
còn có một số thay đổi liên quan đến thương mại. Đó là thẩm quyền của EU
được tăng cường và xác định rõ hơn, Nghị viện châu Âu có vai trò lớn hơn
và hợp nhất các chính sách thương mại đầu tư, đối ngoại, an ninh môi
trường, phát triển và trợ giúp nhân đạo.
Có thể nói rằng Liên minh châu Âu – EU là một khu vực có liên kết
kinh tế phát triển nhất trong các liên kết kinh tế khu vực trên thế giới. Tuy
nhiên, EU vẫn đang trong quá trình hoàn thiện thể chế cũng như các qui chế
của mình để có thể đưa ra khuôn khổ hoạt động tốt nhất, đem lại lợi ích lớn
cho các thành viên.
1.3.1.2. Hiệp hội thương mại tự do châu Âu (Europe Free Trade
Association – EFTA)
Hiệp hội thương mại tự do châu Âu (European Free Trade Association –
EFTE) được thành lập ngày 03/05/1960 tại Stockholm với 7 nước thành viên là
Áo, Đan Mạch, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và vương quốc Anh
(được gọi là 7 nước bên ngoài đối lập với 6 nước bên trong của Cộng đồng kinh
tế châu Âu lúc đó). Năm 1961, Phần Lan trở thành thành viên hợp tác của EFTA
và Iceland gia nhập năm 1970. Ngày nay, chỉ còn Na Uy, Iceland, Thụy Sỹ và
Liechtenstein vẫn là thành viên của EFTA. Hiệp ước Stockholm ban đầu được
thay thế bằng Hiệp ước Vaduz.
Hiệp ước này cho phép tự do hóa việc buôn bán của các nước hội viên. Đối
với thương mại với các nước ngoài khối, ba nước hội viên EFTA – Na Uy,
Iceland, Liechtenstein là thành phẩn của Thị trường chung Liên minh châu Âu
thông qua Thỏa ước về khu vực kinh tế châu Âu (EEA) có hiệu lực từ năm
1994. Nước hội viên thứ tư của EFTA – Thụy Sỹ chọn ký kết một thỏa ước song
phương với Liên minh châu Âu vào năm 1999. Ngoài ra, các nước EFTA cũng
ký chung các thỏa hiệp mậu dịch tự do với nhiều nước khác.
17
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
Các thảo hiệp song phương với Liên minh châu Âu trong nhiều lĩnh vực
trong đó có thỏa thuận về sự hủy bỏ các hàng rào cản trở buôn bán giữa đôi bên
tạo điều kiện thúc đẩy các nước thành viên EFTA hiện đại hóa Hiệp ước của
mình để bảo đảm tiếp tục tạo ra một khuôn khổ cho việc mở rộng và tự do hóa
việc buôn bán giữa các nước hội viên và thế giới.
1.3.2. Liên kết kinh tế ở châu Mỹ
Những thành công mà Châu Âu đạt được trong quá trình liên kết kinh tế đó
khiến cho các khu vực khác phải quan tâm đến việc hình thành các khối thương
mại mới. Các nước Mỹ La tinh đó bắt đầu hình thành các hiệp định thương mại
khu vực từ những năm đầu của thập kỷ 60, song phải đến những năm 80 và 90
mới đạt được những tiến bộ đáng kể. Bắc Mỹ thì chỉ mới thực hiện những bước
đi chủ yếu trong quá trình liên kết kinh tế vào cuối những năm 80, tức chậm hơn
châu Âu khoảng 3 thập kỷ.
1.3.2.1. Hiệp định thương mại tự do Mỹ - Canada
Thương mại giữa hai nước Mỹ và Canađa có quy mô rất lớn, và mỗi nước
là bạn hàng thương mại lớn nhất của nước kia. Mỹ và Canađa đó từng ký kết các
hiệp định thương mại trong một số lĩnh vực cũng nghiệp, trong đó có ngành sản
xuất ô tô. Nhưng mói đến năm 1987 thì ý tưởng về việc ký kết một hiệp định
thương mại tự do toàn diện giữa hai quốc gia mới được đề xướng. Vào thỏng
1/1989 Hiệp định thương mại tự do giữa Mỹ - Canađa bắt đầu có hiệu lực. Mục
tiêu của hiệp định này là xóa bỏ tất cả các mức thuế quan trong quan hệ thương
mại song phương giữa hai nước vào năm 1998. Một tũa ỏn quốc tế được thiết
lập để giải quyết bất cứ tranh chấp thương mại nào phát sinh. Trong bối cảnh
liên kết ở Châu Âu đạt được những bước tiến mới vào cuối những năm 80 và
đầu những năm 90, vấn đề hình thành một khối thương mại tự do Bắc Mỹ bao
gồm cả Mêhicô trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, và kết quả là Hiệp định
18
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
thương mại tự do Bắc Mỹ đó được ra đời.
1.3.2.2. Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (North America Free Trade
Agreement – NAFTA)
Mêhicô và Mỹ bắt đầu thảo luận về khả năng liên kết vào đầu năm 1991,
sau đó thì các cuộc đàm phán giữa Canađa, Mêhicô và Mỹ được tiến hành vào
cuối năm đó. Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) bắt đầu có hiệu lực
từ thỏng 1/1994, đánh dấu sự ra đời một thị trường rộng lớn với dân số 360 triệu
người và GDP đạt khoảng 6,5 nghìn tỷ USD.
Mục tiêu của NAFTA là dỡ bỏ phần lớn hàng rào thuế quan và phi thuế
quan đối với hầu hết hàng hoỏ được sản xuất trong khu vực Bắc Mỹ vào năm
2008. Hiệp định còn đưa ra các quy định mang tính tự do đối với hoạt động mua
sắm của chính phủ, thực hiện trợ cấp, và việc áp dụng thuế trợ giá. Các điều
khoản khác của hiệp định liên quan đến các vấn đề như thương mại dịch vụ,
quyền sở hữu trí tuệ, và các tiêu chuẩn về sức khỏe, an toàn và môi trường.
Yêu cầu về nội địa hóa (Local Content Requirements) và quy định về xuất xứ
(Rules of Origin)
Có thể nói NAFTA có tác dụng thúc đẩy thương mại tự do giữa Canađa,
Mêhicô và Mỹ, nhưng hoạt động thương mại đó mang tính chất rất phức tạp, đặc
biệt đối với những yêu cầu về nội địa hóa và quy định về xuất xứ. Những quy
định này gây nhiều rắc rối cho các nhà sản xuất và các nhà phân phối. Mặc dự
không thể biết chính xác nguồn gốc của từng linh kiện hay bộ phận của thiết bị
cũng nghiệp, nhưng họ phải chịu trách nhiệm trong việc xác định sản phẩm đó
có đáp ứng đủ yêu cầu của Bắc Mỹ về nội địa hóa hay không để được xếp vào
diện miễn thuế. Các nhà sản xuất hoặc phân phối phải cung cấp giấy chứng nhận
xuất xứ của NAFTA cho người nhập khẩu để được miễn thuế. Bốn tiêu chuẩn
sau đây là cơ sở để xác định liệu một mặt hàng nào đó có đáp ứng đủ các quy
19
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
định về xuất xứ của NAFTA hay không:
- Những mặt hàng được sản xuất hoàn toàn trong khu vực NAFTA.
- Những mặt hàng có sử dụng các đầu vào không có xuất xứ Bắc Mỹ nhưng
thỏa món các quy định về xuất xứ trong phụ lục Annex 401.
- Những mặt hàng được sản xuất trong khu vực NAFTA hoàn toàn từ
những nguyên liệu nội địa.
- Những mặt hàng chưa được lắp ráp và những mặt hàng được xếp cùng
chủng loại có thành phần không đáp ứng được quy định về xuất xứ trong
phụ lục Annex 401 nhưng lại đáp ứng được yêu cầu của Bắc Mỹ về nội
địa hóa.
Tác động của NAFTA
Từ năm 1993 đến 1996, thương mại giữa các quốc gia Bắc Mỹ tăng từ 290
tỷ USD lên đến 420 tỷ USD, tức tăng khoảng 43%. Năm 1997, kim ngạch xuất
khẩu của Mỹ sang Canađa tăng 13% so với năm 1996, còn xuất khẩu sang
Mêhicô tăng 26%. Mêhicô lần đầu tiên đó trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ
hai của Mỹ. Năm 1998, thương mại song phương giữa Mỹ và Mêhicô đạt mức
kỷ lục là 174 tỷ USD. Canađa vẫn là thị trường số một của Mỹ, với giá trị
thương mại hai chiều trong năm 1998 đạt khoảng 360 tỷ USD. Trong khi đó,
Nhật Bản đó bị đẩy xuống vị trớ thứ ba sau Mêhicô, mặc dự quy mô nền kinh tế
Mêhicô chỉ bằng 1/12 quy mô nền kinh tế Nhật Bản.
Trước khi NAFTA ra đời, thương mại giữa Canađa và Mêhicô có quy mô rất
nhỏ. Tuy nhiên, từ năm 1991 đến 1997, kim ngạch xuất khẩu của Canađa sang
châu Mỹ La tinh và vùng Caribê đó tăng hơn gấp đôi, từ gần 3 tỷ USD lên tới
6,5 tỷ USD. Hiện nay xuất khẩu của Canađa sang khu vực này còn lớn hơn cả
sang Đức và Pháp cộng lại. Rừ ràng là NAFTA đó đưa đến, một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp, sự gia tăng thương mại một cách nhanh chúng này.
20
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
Ngay sau khi NAFTA có hiệu lực, các công ty của Mỹ đó bắt đầu hướng
hoạt động tới khu vực biên giới với Mêhicô. Ví dụ điển hình là một công ty Mỹ
- Delphi Automotive Systems, đó đầu tư vào Mêhicô và trở thành công ty lớn
nhất ở Mêhicô với 70 nghìn nhân công làm việc ở 40 nhà máy, trong số đó một
nửa được phân bố dọc theo đường biên giới với Mỹ. Delphi sản xuất các loại
đèn, thiết bị điện và bộ phận lái cho 27 công ty sản xuất ô tô trên toàn thế giới.
Vấn đề mở rộng NAFTA.
Chilê là nước đầu tiên ở Nam Mỹ muốn được gia nhập NAFTA. Quốc gia
này đó đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế vào cuối
những năm 80 và đầu những năm 90. Tuy chỉ có 14 triệu dân và không phải là
một cường quốc kinh tế, nhưng Chilê có thể được coi là một mô hình về cải
cách kinh tế đáng để các quốc gia Nam Mỹ khác học tập. Tuy nhiên, việc kết
nạp Chilê vào NAFTA đó bị cản trở do việc Quốc hội Mỹ từ chối trao quyền
"thương lượng nhanh"cho chính phủ Mỹ.
1.3.2.3. Cộng đồng Andean (Andean Community)
Những nỗ lực liên kết đầu tiên giữa các nước Mỹ La tinh diễn ra không
thuận lợi. Năm 1961, Hiệp hội thương mại tự do Mỹ La tinh (LAFTA) được
thành lập với mục tiêu hình thành một khu vực mậu dịch tự do, trước tiên được
ấn định vào năm 1971, nhưng sau đó hoón lại đến năm 1980. Nhưng do khủng
hoảng nợ trầm trọng ở Nam Mỹ và sự miễn cưỡng của các quốc gia thành viên
trong việc từ bỏ chế độ bảo hộ mậu dịch nên thỏa thuận này không tồn tại được
bao lâu. Thất bại của LAFTA đó dẫn đến việc hình thành 2 khối thương mại khu
vực khác là Cộng đồng Andean và Hiệp hội liên kết Mỹ La tinh.
Cộng đồng Andean (lúc đầu được gọi là Công ước Andean) được thành lập
vào năm 1969 với năm quốc gia thành viên là Bôlivia, Chilê, Côlômbia, Êcuađo
và Pêru. Vênêzuêla gia nhập Công ước năm 1973, nhưng Chilê lại rời bỏ vào
21
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
năm 1976. Hiện nay, Cộng đồng này tạo thành một thị trường gồm 100 triệu
người tiêu dùng và có tổng GDP trên 480 tỷ USD. Các mục tiêu chính của Cũng
ước là cắt giảm thuế quan trong quan hệ thương mại giữa các nước thành viên,
thiết lập một biểu thuế chung đối với các quốc gia ngoài khối và chính sách
chung trong lĩnh vực vận tải và một số lĩnh vực khác. Tuy nhiên, các mục tiêu
này rất khó đạt được do hệ tư tưởng chính trị của các quốc gia thành viên tỏ ra
xung khắc với Khái niệm về thị trường tự do và có thiên hướng ủng hộ sự can
thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh doanh.
Cộng đồng Andean hoạt động trở lại vào năm 1990 khi các nước thành viên
cam kết thành lập khu vực mậu dịch tự do vào năm 1992, liên minh thuế quan
vào năm 1994, và thị trường chung vào năm 1995. Trên thực tế thì mục tiêu
thành lập khu vực mậu dịch tự do đó đạt được, còn kế hoạch hình thành liên
minh thuế quan, và đặc biệt là thị trường chung, chưa có tiến triển. Việc hình
thành một thị trường chung trong phạm vi cộng đồng Andean là rất khó khăn do
mỗi nước vẫn có quyền tự chủ cao trong việc quyết định các vấn đề liên quan
đến quan hệ thương mại với các nước ngoài khối.
1.3.2.4. Thị trường chung Nam Mỹ (Southern Common Market –
MERCOSUR)
Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) được thành lập vào năm 1988 với
số thành viên ban đầu chỉ gồm hai nước là Áchentina và Braxin. Đến năm 1991,
có thêm hai nước khác là Paraguay và Uruguay gia nhập khối. Năm 2006,
Vênêzuêla kí hiệp định tham gia MERCOSUR, tuy nhiên, trước khi trở thành
thành viên chính thức của khối, việc gia nhập của Vênêzuêla cần phải được
Paraguay thông qua. Ngoài 4 thành viên chính thức và 1 thành viên đang trong
quá trình gia nhập, MERCOSUR có 4 thành viên hợp tác là Boolivia, Chilê,
Côlômbia và Peru và 1 quan sát viên là Mêhicô
Hiện nay MERCOSUR hoạt động như một liên minh thuế quan, với thị
22
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
trường gồm trên 365,6 triệu dân (tính cả các thành viên liên kết) và với tổng sản
phàm nội địa (theo PPP) năm 2007 ước tính hơn 3,07 nghìn tỉ đô la Mỹ. Hoạt
động của MERCOSUR trong những năm đầu rất thành công - thương mại giữa
các quốc gia thành viên tăng gần gấp bốn lần trong thập kỷ 90. MERCOSUR
tiếp tục đạt được những tiến bộ về tự do hóa thương mại và đầu tư và đang nổi
lên như một khối thương mại hùng mạnh nhất ở châu Mỹ La tinh. Nếu như mọi
việc đều suôn sẻ thì mục tiêu của khối này là hợp nhất tất cả các nước Nam Mỹ
vào Hiệp định thương mại tự do Nam Mỹ (South American Free Trade
Agreement) vào năm 2005, và khi đó khối sẽ liên kết với NAFTA để hình thành
Khu vực mậu dịch tự do Châu Mỹ. Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến nay, mục
tiêu này của MERCOSUR vẫn chưa được thực hiện.
Quá trình liên kết kinh tế ở Mỹ La tinh đó thu hút sự chú ý của các doanh
nghiệp châu Âu. Các công ty châu Âu đó giành được những hợp đồng béo bở
trong lĩnh vực xây dựng lại cơ sở hạ tầng của châu Mỹ La tinh khi các quốc gia
trong khu vực này thực hiện những cải cách theo hướng thị trường tự do và tư
nhân hóa các ngành dịch vụ cũng cộng. Chẳng hạn như công ty Telefónica de
Espana của Tây Ban Nha đã trả 5 tỷ USD để mua các công ty điện thoại ở
Áchentina, Braxin, Chilê và Pêru. Bảy trong số mười công ty tư nhân lớn nhất ở
Braxin là các công ty châu Âu, so với con số hai công ty là của Mỹ. Trong khi
các công ty Châu Âu không ngừng thâm nhập thị trường Mỹ La tinh thì các
công ty Mỹ đang gây áp lực với chính phủ nhằm nhanh chúng kết nạp Chilê vào
NAFTA và đẩy nhanh quá trình hình thành Khu vực mậu dịch tự do Châu Mỹ.
Châu Mỹ La tinh tỏ ra hấp dẫn đối với Liên minh châu Âu và Mỹ không chỉ ở
chỗ đây là một thị trường tiêu thụ rộng lớn, mà còn là một địa điểm thích hợp để
sản xuất hàng xuất khẩu cho toàn thế giới với chi phí thấp.
1.3.2.4. Trung Mỹ và vùng Caribê
Thị trường chung và Cộng đồng Caribê (Caribbean Community and
23
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
Common Market – CARICOM)
Thị trường chung và Cộng đồng Caribê (CARICOM) được thành lập năm
1973. Tổng sản phẩm quốc nội của toàn khối là vào khoảng 28,6 tỷ USD và dân
số khoảng 5,8 triệu người. Mục tiêu của khối thương mại này tự do hóa hoạt
động du lịch, và cho phép di chuyển tự do các yếu tố sản xuất, kể cả cũng nhân
có tay nghề cao và chuyên gia trong phạm vi khối. Ngoài việc thiết lập được một
biểu thuế chung đối với các nước ngoài khối thì CARICOM không đạt được sự
tiến bộ đáng kể nào khác. Khó khăn chính mà CARICOM đang và sẽ tiếp tục
phải đối mặt là việc phần lớn các nước trong khối buụn bán chủ yếu với các
nước ngoài khối, chứ không phải với các thành viên khác, đơn giản chỉ và các
nước thành viên không có nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của nhau.
Thị trường chung Trung Mỹ (Central American Common Market)
Thị trường chung Trung Mỹ (CACM) được thành lập vào năm 1961 nhằm
tạo ra một thị trường chung giữa Costa Rica, Ensanvađo, Goatờmala, Honđurat
và Nicaragoa. Các thành viên của CACM tạo thành một thị trường gồm 28 triệu
dân và có tổng sản phẩm quốc nội vào khoảng 85 tỷ USD. Tuy nhiên, mục tiêu
nói trên chưa bao giờ trở thành hiện thực do cuộc chiến đẫm máu kéo dài giữa
Ensanvađo và Honđurat và các cuộc nội chiến trong khu vực. Nhưng cho đến
nay việc lập lại hũa bình trong khu vực đang tạo ra sự tin tưởng và lạc quan của
giới kinh doanh. Kết quả là tốc độ tăng trưởng thương mại giữa các quốc gia
thành viên đó đạt khoảng 25% mỗi năm. Sau khi được điều chỉnh lại vào năm
1991, CACM đó quyết định không chỉ chú trọng vào thương mại mà còn tập
trung vào việc xóa bỏ sự kiểm soát chặt chẽ đối với các ngành cũng nghiệp,
đồng bộ hóa các luật thuế và cải thiện cơ sở hạ tầng.
1.3.2.5. Khu vực mậu dịch tự do châu Mỹ (Free Trade Area of the
America – FTAA)
24
Chuyên đề thực tập PGS.TS. Nguyễn Thị
Hường
Khu vực mậu dịch tự do Châu Mỹ (FTAA) dự kiến được hình thành sớm
nhất là vào năm 2005. Mục tiêu của FTAA là tạo ra một khối thương mại bao
trùm toàn bộ châu Mỹ. FTAA sẽ trở thành thị trường lớn nhất thế giới với 34
quốc gia, 800 triệu dân và tổng sản phẩm quốc nội vào khoảng 10 nghìn tỷ USD.
Chỉ có một quốc gia ở Tây Bán cầu không tham gia FTAA là Cuba. FTAA sẽ
cùng tồn tại song song với các khối thương mại khác như NAFTA,
MERCOSUR, Cộng đồng Andean, và CACM. Bắt đầu từ năm 2005, FTAA sẽ
dỡ bỏ tất cả các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các quốc gia thành
viên trong một khoảng thời gian chưa được xác định cụ thể.
1.3.2.6. Tổ chức hợp tác kinh tế xuyên Đại Tây Dương (Transatlantic
Economic Partnership)
Ý tưởng thành lập Tổ chức hợp tác kinh tế xuyên Đại Tây Dương (TEP)
giữa Mỹ và Liên minh châu Âu được đưa ra vào tháng 5/1998 ở Hội nghị
thượng đỉnh EU-Mỹ. Hiệp hội này sẽ tạo ra một thị trường với 650 triệu người
tiêu dựng và sản lượng hàng năm đạt khoảng 16 nghỡn tỷ USD. Mỹ và EU
chiếm khoảng 20% giá trị thương mại hàng hóa, và hơn 38% giá trị thương mại
dịch vụ của nhau. Các công ty EU chiếm gần 60% tổng đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Mỹ, trong khi các công ty Mỹ chiếm khoảng 44% đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở EU. Các công ty Châu Âu là các nhà đầu tư số một ở 41 trong tổng số
50 bang của Mỹ, và chiếm vị trớ thứ hai trong các bang còn lại.
1.3.3. Liên kết kinh tế ở châu Á
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra trên toàn thế giới, các
quốc gia khu vực châu Á cũng hình thành nên các liên kết khu vực trong đó, có
2 liên kết khu vực lớn nhất là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và
25