Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
HoàngThu Trang - LTĐH5D
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007 – 2008, nền kinh tế Việt Nam
đang có những dấu hiệu phục hồi và phát triển. Trong sự phát triển đó của nền
kinh tế, không thể không nhắc tới đóng góp của các doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo
ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hoạt động của doanh nghiệp phát triển
góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực
vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng
trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải
quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo
Vốn là một trong những điều kiện tối thiểu, cần phải có để một doanh
nghiệp có thể hoạt động và phát triển. Thiếu vốn hoạt động sẽ làm ảnh hưởng
đến các kế hoạch sản xuất kinh doanh, gây ra những rủi ro cho sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có vốn hoạt động dồi dào
thường chủ động hơn trong các kế hoạch hoạt động của mình, từ đó đem lại
lợi ích rất lớn. Vì những lẽ trên mà công tác huy động vốn trong doanh nghiệp
luôn trở thành mối quan tâm của các nhà quản trị tài chính. Phải huy động
như thế nào để sao cho lượng vốn huy động được đáp ứng đủ yêu cầu, cơ cấu
nguồn vốn huy động được phải phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp hay chính là điều kiện, đặc điểm hoạt động của từng doanh
nghiệp, đồng thời, phải đảm bảo được chi phí huy động vốn là thấp nhất có
thể.
Việc nghiên cứu về vốn và công tác huy động vốn của các doanh
nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây có một ý nghĩa hết sức quan
trọng. Nó chỉ rõ về vốn trong doanh nghiệp, các kênh doanh nghiệp có thể
huy động vốn và những kênh huy động vốn tỏ ra hiệu quả hơn trong bối cảnh
hiện tại của nền kinh tế, thực trạng những điểm còn yếu kém làm giảm khả
năng huy động vốn của doanh nghiệp. Từ đó, đưa ra những giải pháp với hy
HoàngThu Trang - LTĐH5D
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
vọng sẽ góp một phần nào đó làm tăng hiệu quả huy động vốn của doanh
nghiệp, đóng góp vào sự ổn định, phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, do những hạn chế về mặt thời gian, tầm hiểu biết, khả năng
cập nhật thông tin mà bài chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất hi vọng nhận được ý kiến chỉ bảo của các thầy cô giáo cho đề tài
nghiên cứu này.
Em xin chân thành cám ơn!
HoàngThu Trang - LTĐH5D
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN VÀ CÁC KÊNH HUY
ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP.
1.1. Lý luận chung về vốn của doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm.
Muốn tiến hành sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp nào cũng cần
phải có vốn. Vốn là điều kiện cần thiết, cơ bản với mỗi khâu của quá trình sản
xuất kinh doanh.
Vốn kinh doanh là lượng tiền vốn nhất định cần thiết ban đầu, nhằm
đảm bảo cho các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh (mua sắm
nguyên vật liệu, trang bị tài sản cố định, trả tiền công cho người lao động…)
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản
hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh
lời. Trong nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh được coi là một quỹ tiền tệ
đặc biệt không thể thiếu của doanh nghiệp.
Tiền được gọi là vốn khi nó thoả mãn đồng thời các điều kiện:
+ Tiền đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định hay nói cách khác
tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực.
+ Tiền phải được tích tụ và tập trung một lượng nhất định, đủ để tiến
hành kinh doanh.
+ Tiền phải được vận động với mục đích sinh lời.
Từ cách định nghĩa này có thể thấy điều kiện một và hai được coi là
điều kiện ràng buộc để tiền trở thành vốn. Điều kiện ba được coi là đặc trưng
cơ bản nhất của vốn. Thử hình dùng chúng ta có tiền nhưng lượng tiền đó chỉ
nằm một chỗ, không được đưa ra vận động, quay vòng, sinh lợi thì đó chỉ là
những đồng tiền “chết”.
HoàngThu Trang - LTĐH5D
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
Một lượng tiền nhất định trở thành vốn chỉ khi nó được vận động và
nhằm mục đích sinh lời. Các Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn thông qua
phạm trù tư bản: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư” định nghĩa như
vậy tức là đã bao hàm đồng thời bản chất và tác dụng của vốn.
1.1.2. Vai trò của vốn kinh doanh.
Vốn là một nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò quan trọng
trong sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như đối với doanh nghiệp.
Nhờ có vốn ta mới có thể kết hợp các nhân tố khác như lao động, đất
đai, công nghệ, quản lý… trong hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản
phẩm, dịch vụ cung cấp cho xã hội.
Vốn có vai trò quan trọng trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công
nghệ, đào tạo tay nghề cho công nhân, nâng cao trình độ quản lý cho chủ
doanh nghiệp, không chỉ vậy vốn còn có vai trò mở rộng sản xuất, mở rộng
quy mô của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một
lượng vốn nhất định đủ lớn như là một tiền đề quyết định cho sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp khi không có vốn thì sẽ không
có bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Sự cạnh tranh trên thị
trường và sự tiến bộ trong khoa học công nghệ là những nhân tố ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp. Sản phẩm mà
doanh nghiệp cung cấp phải có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu
người tiêu dùng và giá cả phải chăng so với doanh nghiệp khác trên thị
trường. Trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển chỉ bằng cách là
không ngừng tự cải tiến và hoàn thiện mình. Doanh nghiệp rất cần vốn để
thực hiện mục tiêu đề ra. Vai trò của vốn chỉ được phát huy trên cơ sở thực
hành tiết kiệm và hiệu quả. Do đó, doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý vốn để
tăng vòng quay vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
HoàngThu Trang - LTĐH5D
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
1.1.3. Những đặc trưng của vốn kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là yếu tố số một của mọi doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp mang các đặc trưng sau:
+ Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản: Điều đó có nghĩa là vốn
được biểu hiện bằng những giá trị tài sản như: Nhà xưởng, đất đai, máy móc,
thiết bị…
+ Vốn được vận động nhằm mục đích sinh lời: Để biến thành vốn thì
đồng tiền đó phải được vận động, quay vòng và sinh lời. Trong quá trình vận
động, đồng vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và
điểm kết thúc của vòng tuần hoàn phải là giá trị - tiền; Đồng tiền phải quay về
điểm xuất phát với giá trị lớn hơn (T – T’, T’>T).
Trường hợp tiền có vận động nhưng bị thất tán, quay về vạch xuất phát
nhưng với giá trị nhỏ hơn ban đầu (T’<T) thì đồng vốn không được đảm bảo.
Chu kỳ vận động tiếp theo của nó bị ảnh hưởng.
+ Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có
thể phát huy được tác dụng. Do đó, các doanh nghiệp phải tìm cách thu hút
nguồn vốn như góp vốn, hùn vốn, phát hành cổ phiếu…
+ Vốn có giá trị về mặt thời gian: Điều này cũng có nghĩa là phải xem
xét yếu tố thời gian của đồng vốn bởi vì: “Đồng tiền có giá trị về mặt thời
gian, đồng tiền của ngày hôm nay khác với đồng tiền của ngày mai”.
+ Vốn phải gắn với chủ sở hữu: Mỗi một đồng vốn phải được gắn liền
với một chủ sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường không thể có
những đồng vốn vô chủ. Cũng cần phân biệt quyền sử dụng và quyền sở hữu
vốn. Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người sở hữu vốn có thể đồng nhất với
người sử dụng vốn hoặc người sở hữu vốn không đồng nhất là người sử dụng
vốn.
HoàngThu Trang - LTĐH5D
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
+ Vốn phải được quan niệm là hàng hoá đặc biệt: Những người dư thừa
vốn có thể đầu tư vốn vào thị trường. Những người cần vốn tới thị trường vay
nghĩa là đã có sự sử dụng vốn của người chủ nợ. Quyền sở hữu vốn không di
chuyển nhưng quyền sử dụng vốn được chuyển nhượng qua sự vay nợ. Người
vay được quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định và phải trả cho
chủ sở hữu một khoản chi phí nhất định đó là lãi vay.
+ Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền hình thành lên những tài sản hữu
hình mà còn được biểu hiện bằng những tài sản vô hình như: Bản quyền phát
minh sang chế, bí quyết công nghệ, thương hiệu… Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, những tài sản vô
hình ngày càng giữ vai trò quan trọng, tạo khả năng sinh lời to lớn của doanh
nghiệp.
1.1.4. Phân loại vốn kinh doanh.
Căn cứ vào mục đích và tính chất sử dụng vốn mà vốn kinh doanh
trong doanh nghiệp được chia thành nhiều loại:
1.1.4.1. Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn
Vốn kinh doanh được chia làm hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn
đầu tư ứng ra để hình thành tài sản cố định của doanh nghiệp (TSCĐ). Là một
khoản đầu tư ứng trước để mua sắm TSCĐ có hình thái vật chất.
TSCĐ không có hình thái vật chất nên quy mô của vốn cố định sẽ
quyết định đến quy mô của TSCĐ. Đặc điểm vận động của TSCĐ lại quyết
định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Từ mối quan hệ
đó ta có thể khái quát sự vận động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh
như sau:
+ Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, có đặc điểm này là
do TSCĐ tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp và phát huy tác dụng trong nhiều
HoàngThu Trang - LTĐH5D
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
chu kỳ sản xuất. Vì thế, vốn cố định với hình thái biểu hiện bằng tiền TSCĐ
cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
+ Vốn cố định được luân chuyển giá trị dần dần, từng phần: Khi tham
gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu
nhưng tính năng và công suất giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự
giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng giảm đi. Theo đó, vốn cố
định được tách làm hai phần:
+ Một phần tương ứng với giá trị hao mòn được chuyển vào giá trị của
sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao và được tích luỹ lại thành quỹ khấu
hao sao khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ.
+ Phần còn lại của vốn cố định được ngày càng giảm đi thì phần vốn
luân chuyển lại càng tăng lên tương ứng với sự suy giảm dần giá trị sử dụng
TSCĐ. Kết thúc quá trình vận động đó cũng là lúc TSCĐ hết thời hạn sử dụng
và vốn cố định đó cũng hoàn thành một vòng luân chuyển.
Vốn cố định là một bộ phận quan trọng và chiếm tỉ trọng lớn trong toàn
bộ vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc điểm luân chuyển của nó
lại tuân theo quy luật riêng. Do đó, việc quản lý và sử dụng vốn cố định có
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn lưu động: Vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn doanh nghiệp
ứng ra để hình thành lên tài sản lưu động, đảm bảo cho quá trình sản xuất và
tái sản xuất của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục. Nói
cách khác, vốn lưu động chính là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản lưu
động của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn lưu động tham gia quá trình sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình
thức khác nhau. Đó là: Tài sản lưu động sản xuất (nguyên, nhiên, vật liệu, bán
thành phẩm, sản phẩm dở dang ) và tài sản lưu động lưu thông (thành phẩm
chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán).
HoàngThu Trang - LTĐH5D
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
Đặc điểm luân chuyển vốn lưu động là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản
xuất và toàn bộ giá trị sẽ chuyển dịch vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Vốn
lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ kinh doanh.
Đặc điểm luân chuyển vốn lưu động đòi hỏi công tác tổ chức, quản lý,
sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp phải thực sự có hiệu quả. Phải luôn
chú trọng nâng cao hiệu suất sử dụng vốn lưu động, sử dụng vốn tiết kiệm
nhằm bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.4.2. Căn cứ vào hình thái biểu hiện của vốn
Nếu căn cứ vào hình thái biểu hiện của vốn, người ta chia vốn kinh
doanh thành hai loại: vốn bằng tiền và vốn hiện vật
Vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ,
tiền gửi ngân hàng, vốn trong thanh toán và các khoản đầu tư ngắn hạn. Ngoài
ra, vốn bằng tiền của doanh nghiệp còn bao gồm cả những giấy tờ có giá trị
để thanh toán.
Vốn hiện vật: Là các khoản vốn có hình thái biểu hiện cụ thể bằng hiện
vật như tài sản cố định, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng
hoá.
1.1.5. Phân loại nguồn vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh của một doanh nghiệp thường được hình thành từ các
nguồn khác nhau tuỳ thuộc vào loại hình, điều kiện và mục đích kinh doanh
của từng doanh nghiệp. Dựa vào những tiêu thức nhất định ta có thể chia
nguồn vốn của doanh nghiệp thành nhiều loại. Ở đây, em xin đưa ra một số
phương pháp phân loại chủ yếu đã sưu tầm được:
1.1.5.1. Căn cứ vào quan hệ sở hữu vốn.
Theo cách phân loại này, nguồn vốn kinh doanh có thể chia làm hai loại
vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
HoàngThu Trang - LTĐH5D
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
Vốn chủ sở hữu: Bao gồm vốn điều lệ do chủ sở hữu đầu tư, vốn tự bổ
sung từ lợi nhuận sau thuế và từ các quỹ của doanh nghiệp; Ngoài ra còn có
phần vốn được tài trợ bởi Nhà Nước (nếu có)
Nợ phải trả: Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh,
doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán cho các chủ thể kinh tế khác
như tiền vay ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, tiền chi trả lãi trái
phiếu, các khoản phải trả cho người bán…
Để đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh bình thường, doanh nghiệp
phải phối hợp giữa hai nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay một cách hợp lý.
Để sao cho có thể phát huy cao nhất hiệu quả của một đồng vốn mà lại giữ
cho doanh nghiệp đảm bảo tính thanh khoản.
1.1.5.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn.
Theo cách phân loại này có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp
thành hai loại: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
Nguồn vốn thường xuyên: Là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn
định và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn thường xuyên
bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn. Vốn được xác định bằng
cách:
Vốn thường xuyên = Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn tạm thời: Là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1
năm), nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh
trong sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các khoản nợ ngắn hạn.
Vốn tạm thời = Tổng trị giá tài sản - Vốn thường xuyên.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các
nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng của các yếu tố trong quá trình kinh
doanh.
HoàngThu Trang - LTĐH5D
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
1.1.5.3. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn kinh doanh.
Theo cách phân loại này, vốn kinh doanh có thể chia làm hai nguồn:
Nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
Nguồn vốn bên trong: Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của
bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại
và các khoản dự trữ, dự phòng, các khoản thu từ nhượng giá, thanh lý tài sản
cố định.
Nguồn vốn bên ngoài: Là nguồn vốn có thể huy động như vay vốn của
ngân hàng và các tổ chức kinh doanh khác, phát hành trái phiếu nợ người
cung cấp và các khoản nợ khác.
Cách phân loại này chủ yếu giúp cho việc xem xét huy động nguồn vốn
cho doanh nghiệp đang hoạt động. Doanh nghiệp cần chủ động tích cực huy
động vốn, duy trì nguồn vốn cũ, tìm kiếm thêm nguồn vốn mới, có biện pháp
hữu hiệu để khai thác được các lợi thế từ bên ngoài và tận dụng khả năng sẵn
có của bản thân doanh nghiệp.
1.2. Các kênh huy động vốn trong doanh nghiệp
Hoạt đông sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể liên tục và
nhịp nhàng được chính là nhờ có vốn. Doanh nghiệp có thể huy động vốn từ
nhiều nguồn khác nhau.
Hiện nay, do những biến động thất thường của nền kinh tế, tình trạng
các doanh nghiệp đóng cửa, phá sản hay sa thải công nhân… diễn ra ngày
càng nhiều. Trong một nền kinh tế thị trường năng động, khắc nghiệt các chủ
doanh nghiệp gặp phải vô vàn khó khăn. Một trong những vấn đề chủ yếu,
quan trọng nhất, quyết định đến tính sống còn của doanh nghiệp là vấn đề về
vốn kinh doanh cho doanh nghiệp hoạt động. Hầu hết các doanh nghiệp, đặc
biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng.
Không đảm bảo cho nhu cầu đầu tư, tái sản xuất, đổi mới trang thiết bị công
HoàngThu Trang - LTĐH5D
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
nghệ khiến cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp giảm; hơn hết, nó làm năng
lực hoạt động, phát triển của các doanh nghiệp bị hạn chế.
Có hai nguyên nhân chính để lý giải cho hiện tượng thiếu vốn của các
doanh nghiệp. Đó là: Thứ nhất do điều kiện khách quan bởi tác động của
khủng hoảng kinh tế thế giới và mục tiêu kiềm chế lạm phát của chính phủ
làm cho việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp tại các kênh truyền thống như tín
dụng ngân hàng, thông qua thị trường chứng khoán gặp nhiều khó khăn. Thứ
hai, do nguyên nhân chủ quan từ phía các doanh nghiệp. Doanh nghiệp Việt
Nam chưa thực sự nhạy bén trong việc tìm ra những kênh huy động vốn khác.
Việc áp dụng các kênh huy động vốn truyền thống cũng có phần hạn chế.
Năng lực quản trị dòng tiền chưa cao nên đôi khi tự bản thân doanh nghiệp đã
để lỡ mất những nguồn vốn quan trọng.
Việc nghiên cứu các kênh huy động vốn của doanh nghiệp có một ý
nghĩa hết sức to lớn. Với việc nhận diện rõ doanh nghiệp có thể tận dụng vốn
từ kênh nào, ưu và nhược điểm của các kênh ra sao, doanh nghiệp hoàn toàn
có thể lựa chọn cho mình một cách huy động vốn phù hợp nhất với doanh
nghiệp trong những thời điểm khác nhau. Từ đó, đảm bảo cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình, nâng cao năng lực quản trị tài chính của doanh
nghiệp.
1.2.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp.
Bao gồm tất cả những nguồn vốn có thể huy động được từ nội bộ doanh
nghiệp, đó là các nguồn lợi nhuận để lại, quỹ khấu hao và một số quỹ dự
trữ…
+ Lợi nhuận giữ lại: Đây là nguồn giữ vị trí và vai trò quan trọng trong
các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi
phí mà doanh nghiệp đó bỏ ra trong một khoảng thời gian nhất định. Số lợi
HoàngThu Trang - LTĐH5D
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
nhuận được để lại là số lợi nhuận còn lại sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp cho Nhà Nước. Phần lợi nhậu để lại này được doanh nghiệp sử dụng
vào để bù đắp và bảo toàn vốn trích lập các quỹ: Quỹ dự phòng tài chính, quỹ
dự phòng thất nghiệp, quỹ đầu tư phát triển… Phần lợi nhuận để lại được
trích cho quỹ đầu tư phát triển là một nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp
có thể huy động để phục vụ cho các mục tiêu phát triển của mình.
+ Quỹ khấu hao cơ bản: Giá trị hao mòn được tính chuyển vào giá trị
sản phẩm tiêu thụ, số tiền này được trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao tài
sản cố định. Quỹ này phục vụ cho mục đích tái sản xuất giản đơn tài sản cố
định của doanh nghiệp được gọi là quỹ khấu hao cơ bản.
+ Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể khai thác nguồn vốn do thanh lý,
nhượng bán tài sản cố định. Số tài sản đã bị hư hỏng nhiều, không sử dụng
được chờ thanh lý và tài sản cố định không sử dụng đến không những không
góp phần vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn gây khó khăn
thêm bởi doanh nghiệp phải bảo quản, sửa chữa từ đó làm phát sinh thêm chi
phí cho doanh nghiệp.
Ý thức được vấn đề này, việc thanh lý, chuyển nhượng các tài sản cố
định chưa cần dùng và không cần dùng cũng góp phần tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp nhằm tăng thêm vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh cho
doanh nghiệp.
Nguồn vốn bên trong là nguồn vốn vô cùng quan trọng trong việc huy
động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và đáp ứng nhu cầu vốn về đầu tư. Nó
giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại của các doanh nghiêp. Khi sử dụng
nguồn vốn này, các doanh nghiệp sẽ không phải lo lắng việc trả chi phí sử
dụng vốn như đối với các nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
Nguồn vốn bên ngoài cũng là một nguồn vốn có vai trò hết sức quan
trọng. Nếu nguồn vốn bên trong doanh nghiệp bị hạn chế trực tiếp bởi kết quả
HoàngThu Trang - LTĐH5D
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp, thì với nguồn vốn bên ngoài doanh
nghiệp có thể chủ động hơn, quy mô vốn huy động được có thể lớn hơn rất
nhiều so với nguồn vốn huy động được từ bên trong doanh nghiệp. Với việc
huy động vốn từ bên ngoài, các doanh nghiệp có thể sử dụng các kênh sau:
1.2.2. Huy động vốn thông qua ngân hàng.
Đây là nguồn vốn quan trọng của doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng là
loại hình tín dụng chủ yếu và phổ biến nhất trong nền kinh tế thị trường. Từ
các đặc điểm của tín dụng ngân hàng có thể thấy được tầm quan trọng của nó
trong nền kinh tế quốc dân. Có thể thấy thời hạn cho các khoản vay ngân
hàng là rất linh hoạt, có thể ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Công cụ được sử
dụng trong tín dụng ngân hàng cũng rất đa dạng, phong phú, phù hợp với
nhiều đối tượng như kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, các hợp đồng tín dụng…
Ưu điểm của hình thức này là: Do là nguồn vốn huy động của xã hội
với khối lượng và thời hạn khác nhau, nó có thể thoả mãn các nhu cầu vốn đa
dạng về khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. Nó không chỉ
đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải các chi phí
sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây
dựng cơ bản; Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu
cầu kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì những doanh nghiệp này
chưa có đủ điều kiện để tham gia vào thị trường vốn trực tiếp.
Tuy nhiên, với hình thức tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính
khác, doanh nghiệp vấp phải một vấn đề về thủ tục cấp vốn vay chậm, rườm
rà, mất nhiều thời gian và công sức của doanh nghiệp đi vay. Mặt khác, khi
doanh nghiệp đi vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, doanh
nghiệp phải trả lãi cho khoản vốn này. Đây chính là chi phí sử dụng vốn vay
của doanh nghiệp.
HoàngThu Trang - LTĐH5D
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
1.2.3. Huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có thể huy động vốn trung
và dài hạn từ việc phát hành chứng khoán. Hai loại trái chứng khoán thường
được doanh nghiệp sử dụng nhất là trái phiếu và cổ phiếu.
Trái phiếu doanh nghiệp: là chứng chỉ vay nợ có kỳ hạn và lãi suất do
doanh nghiệp phát hành. Trên mỗi tờ trái phiếu có ghi số vốn vay nhất định,
kỳ trả lãi và thanh toán nợ. Trái phiếu doanh nghiệp có thể mua bán, chuyển
nhượng, làm thẻ thế chấp, cầm cố.
Cổ phiếu: Là giấy chứng nhận góp cổ phần để tạo lập vốn của công ty
cổ phần. Người nắm giữ cổ phần được nhận thu nhập từ doanh nghiệp.
Với việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán, doanh
nghiệp sẽ có được một số thuận lợi như: quy mô khoản vốn có thể huy động
được là tương đối lớn đặc biệt là trong thời kỳ thị trường chứng khoán phát
triển mạnh mẽ, không phải lo lắng về các điều kiện về tài sản thế chấp như
trong tín dụng ngân hàng.
Nhược điểm của kênh huy động vốn này là không phải bất cứ doanh
nghiệp nào cũng dễ dàng đạt được lượng vốn mong muốn khi tham gia huy
động vốn trên thị trường này. Bởi lẽ thị trường chứng khoán là thị trường của
niềm tin, một khi các doanh nghiệp nhỏ, chưa xây dựng được lòng tin của các
nhà đầu tư với mình thì việc huy động vốn trở lên khó khăn hơn. Mặt khác,
với việc phát hành các chứng khoán, doanh nghiệp sẽ phải chia sẻ quyền sở
hữu công ty với các cổ đông khác (nếu là phát hành cổ phiếu) và sẽ phải thanh
toán tiền lãi định kỳ trái phiếu (nếu là phát hành trái phiếu)
1.2.4. Huy động vốn thông qua kênh thuê tài chính.
Thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua
việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản
khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê cam
HoàngThu Trang - LTĐH5D
15
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo
yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên
thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã
thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại
tài sản hoặc tiếp tục thuê.
Với việc đi thuê tài chính, doanh nghiệp có thể sử dụng linh hoạt đồng
vốn của mình vào mục đích khác,nhằm mang lại lợi ích nhiều hơn thay vì
phải đầu tư vốn để mua sắm tài sản cố định, giúp doanh nghiệp tận dụng được
cơ hội kinh doanh. Việc sử dụng thuê tài chính cũng không làm ảnh hưởng
đến hạn mức tín dụng của doanh nghiệp khi doanh nghiệp đi vay vốn ngân
hàng. Với phương thức này, doanh nghiệp có thể có được phương thức thanh
toán tiền thuê linh hoạt, phù hợp với chu chuyển vốn của doanh nghiêp.
Bên cạnh những ưu điểm của kênh thuê tài chính, doanh nghiệp cũng
vấp phải những khó khăn khi sử dụng kênh này để huy động vốn. Cụ thể là:
lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài
chính còn phải tính thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm… của bên
cho thuê phải bỏ ra; Hành lang pháp lý cho hoạt động thuê tài chính tại Việt
Nam chưa thực sự hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định về sở hữu, tổ chức,
hoạt động trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn.
1.2.5. Nguồn vốn trong thanh toán.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, đương nhiên sẽ nảy sinh các quan
hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với Nhà Nước, giữa các doanh nghiệp với
nhau và giữa doanh nghiệp với các bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Với Nhà nước là quan hệ cấp phát vốn, hỗ trợ khuyến khích của Nhà Nước
cho các doanh nghiệp theo chế độ tài chính hiện hành và việc thực hiện nghĩa
vụ của doanh nghiệp đối với Nhà Nước trong đó chủ yếu là nộp thuế, bảo
hiểm xã hội. Giữa các doanh nghiệp với nhau là việc thanh toán công nợ. Với
HoàngThu Trang - LTĐH5D
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
cán bộ công nhân viên là việc thanh toán lương, bảo hiểm xã hội và các khoản
tạm ứng khác. Trong đó, việc thanh toán công nợ giữa các doanh nghiệp với
nhau được coi là một kênh huy động vốn tương đối quan trọng của doanh
nghiệp. Hình thức này được gọi là tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với
nhau, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Để thanh toán hoặc
đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ như hối
phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hay séc Những loại giấy tờ này, nếu còn giá
trị, đều có thể chuyển nhượng lại. Mua bán chịu hàng hoá là một hình thức tín
dụng. Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy
nợ. Giấy nợ trong quan hệ tín dụng thương mại được gọi là kỳ phiếu thương
mại (thương phiếu). Ưu điểm của hình thức này là một mặt đáp ứng nhu cầu
vốn của những doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, một mặt giúp doanh
nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Đồng thời, tín dụng thương mại giữa
những doanh nghiệp quen biết, uy tín nên thủ tục tương đối nhanh gọn, đáp
ứng kịp thời nhu cầu vốn. Tuy nhiên, hình thức này cũng chứa đựng những
hạn chế nhất định. Đó là: quy mô vốn chiếm dụng được không lớn do bị giới
hạn bởi khả năng vốn của các doanh nghiệp. Mặt khác, đối tượng có thể tham
gia hình thức này cũng không nhiều, do tín dụng thương mại chỉ xảy ra với
những doanh nghiệp có quen biết, uy tín và có mối quan hệ kinh doanh với
nhau. Ngoài ra, tín dụng thương mại là loại tín dụng không có đảm bảo nên
rất dễ phát sinh rủi ro.
1.2.6. Huy động vốn thông qua liên doanh, liên kết.
Để có vốn sử dụng trong đầu tư phát triển thì góp vốn liên doanh cũng
là một hướng để thu hút vốn. Khi doanh nghiệp thực hiện một dự án kinh
doanh có tính chất dài hạn nhưng không đủ vốn đầu tư, doanh nghiệp có thể
mời các đơn vị kinh tế và các cá nhân khác trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư
HoàngThu Trang - LTĐH5D
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
theo một thoả thuận nhất định. Và cùng hưởng những khoản lợi nhuận do việc
đầu tư để lại. Các bên có thể góp vốn bằng nhìêu cách: Nhà cửa đất đai, bằng
phát minh sáng chế, thiết bị máy móc công nghệ, tiền…
Với việc huy động vốn thông qua liên doanh liên kết, doanh nghiệp gặp
phải vấn đề về quyền sở hữu doanh nghiệp. Qua đó, quyền sở hữu doanh
nghiệp bị chia ra cho các bên góp vốn.
1.2.7. Huy động vốn vay từ người lao động trong doanh nghiệp.
Muốn có một đội ngũ cán bộ công nhân viên gắn bó lâu dài với doanh
nghiệp tất nhiên sẽ có nhiều biện pháp. Song một công cụ rất quan trọng vừa
làm tăng sức mạnh của doanh nghiệp vừa tạo khả năng gắn kết chặt chẽ của
người lao động với doanh nghiệp đó là việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong cán bộ công nhân viên và người lao động trong doanh nghiệp.
HoàngThu Trang - LTĐH5D
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VỐN VÀ CÁC KÊNH HUY
ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1. Khái quát bối cảnh nền kinh tế.
Trong bối cảnh hậu khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước phục hồi và tăng trưởng với tốc độ
khá nhanh. Sau khi đạt mức tăng trưởng GDP thực 5.3% trong năm 2009, nền
kinh tế Việt Nam đã đạt khoảng 1.98 triệu tỉ đồng (tương đương với 104.6 tỷ
USD), tương ứng với mức tăng trưởng 6.78% trong năm 2010 (so sánh theo
kỳ gốc 1994), cao hơn mức 6,5% so với kế hoạch đề ra. Cụ thể tăng trưởng
GDP trong quý 4 năm 2010 đều có tốc độ tăng cao hơn so với quý trước, lần
lượt tăng ở mức 5,84% trong quý I, 6,44% trong quý II, 7,18% trong quý III
và ước tăng 7,34% trong quý IV. Đặc biệt cả ba khu vực kinh tế công nghiệp,
nông nghiệp và dịch vụ đều tăng trưởng với tốc độ tăng dần, trong đó giá trị
gia tăng ngành công nghiệp tăng 7,7%, ngành dịch vụ tăng 7.25% và ngành
nông lâm thuỷ sản tăng 2,78% so với cùng kỳ năm trước.
Về sản xuất công nghiệp: Ngành sản xuất công nghiệp tiếp tục khẳng
định được đà tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng trong tháng 12 đạt 16,2% so
với cùng kỳ năm trước. Tính chung tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp cả năm tăng 14% , giá trị sản xuất công nghiệp đạt gần 800.000 tỷ
đồng (xem bảng). Các doanh nghiệp ngoài nhà nước và các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục là đối tượng có đóng góp lớn nhất vào
hoạt động sản xuất công nghiệp với tốc độ tăng trưởng cả năm lần lượt là
17,25% và 19,77%. Về sản lượng sản xuất, các nhóm ngành có những bước
tăng trưởng ấn tượng trong quý IV bao gồm nhóm ngành sơn hoá học, đồ điện
như máy giặt, tỉ lạnh, tủ đá và giấy bìa. Ngược lại, các nhóm ngành giảm sút
về sản lượng gồm có giấy dép, lốp ô tô và máy kéo…
HoàngThu Trang - LTĐH5D
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
Nguồn: Công ty chứng khoán VNDirect
Hình 2.1: Biểu đồ giá trị sản xuất công nghiệp 2000 – 2010 .
Về dịch vụ: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
12 tháng tăng 24,5% so với năm trước. Ngay cả khi đã loại trừ yếu tố tăng
giá, tổng mức bán lẻ năm 2010 vẫn tăng 14% so với cùng kỳ năm 2009. Năm
2010 mức bán lẻ của nước ta đã cao hơn mức bán lẻ của năm 2006 và 2007,
những năm trước khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Có được những thành quả trên đây, không thể không ghi nhận những
nỗ lực vượt trội của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh. Bởi lẽ, bước vào năm 2010, các doanh nghiệp Việt Nam
đứng trước hàng loạt những khó khăn, thách thức.
Trong năm 2010, chính sách tiền tệ và tài khoá đã không có sư phối
hợp nhịp nhàng và dấu ấn rõ nét nhất là chính sách tài khoá đã tạo ra hiện
tượng chèn lấn khu vực tư nhân. Trong quý I, NHNN thắt chặt chính sách tiền
tệ trong khi Bộ Tài Chính lại tăng cường phát hành trái phiếu đã khiến dòng
vốn ngân hàng đổ vào trái phiếu chính phủ làm cho các doanh nghiệp khó tiếp
cận nguồn vốn vay ngân hàng nói riêng và các nguồn vốn khác với mức lãi
suất hợp lý. Trước áp lực giải quyết khó khăn của doanh nghiệp trong việc
HoàngThu Trang - LTĐH5D
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
tiếp cận nguồn vốn, chính sách tiền tệ của NHNN cũng buộc phải điều chỉnh
theo hướng nới lỏng hơn vào giữa năm khi áp lực lạm phát có dấu hiệu giảm
bớt vào các tháng giữa năm (mặc dù đây là thời điểm thấp điểm của lạm phát
theo chu kỳ các năm). Tuy nhiên, với mức lạm phát hàng tháng trong quý
4/2010 tăng cao trên 1% và khả năng mức lạm phát mục tiêu khó có thể đạt
được và áp lực tỉ giá tăng cao, nên ngày 5/11/2010, NHNN đã chính thức
nâng mức lãi suất cơ bản tăng thêm 1%, mặc dù trước đó vào ngày
27/10/2010, NHNN vẫn quyết định giữ mức lãi suất này là 8%/năm trong
tháng 11. Theo đó mức lãi suất cơ bản bằng VNĐ sẽ là 9% thay vì 8% như
trước đây, và lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn của NHNN cũng được điều
chỉnh tăng 1% lên mức 7%/năm và 9%/năm. Việc điều hành thiếu nhất quán
và ổn định trong chính sách đã khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
hơn trong việc hoạch định kế hoạch và phương án kinh doanh cũng như giảm
hiệu quả của chính sách.
Dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng của các ngành sản xuất, dịch vụ trong
nền kinh tế cho thấy một triển vọng phát triển cho các doanh nghiệp Việt
Nam trong thời kỳ tới. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng, khó khăn
mà các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang đương đầu là không nhỏ. Đặc biệt
là trong hoạt động huy động vốn. Thực trang tình hình huy động vốn của các
doanh nghiệp trong thời gian qua đã thể hiện rất rõ nét điều này.
2.2. Thực trạng tình hình huy động vốn của các doanh nghiệp Việt Nam.
2.2.1. Huy động vốn thông qua kênh tín dụng ngân hàng
Tìm vốn thông qua ngân hàng được coi là kênh truyền thống và rất
quen thuộc đối với hầu hết các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, khi mà những ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt, những vấn đề trong nội tại nền
kinh tế Việt Nam và những chính sách kinh tế vĩ mô của Chính Phủ đã mang
HoàngThu Trang - LTĐH5D
21
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
lại rất nhiều khó khăn cho hoạt động huy động vốn từ ngân hàng, đặc biệt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ghi nhận từ thực tế, có đến 75% doanh nghiệp
vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn vay từ ngân hàng nhưng đến nay chỉ có 1/3
trong số này tiếp cận được nguồn vốn này.
Nguồn: Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam.
Hình 2.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng 2007 – 2010
Nhìn vào biểu đồ thể hiện mức tăng trưởng tín dụng của toàn ngành
ngân hàng giai đoạn 2007 – 2010 ta có thể thấy: Mức tăng trưởng tín dụng
cao nhất, đạt kỷ lục là vào năm 2007 đạt mức 83,80% ứng với thời điểm mà
tác động của khủng hoảng tài chính rất ít, hầu như là không có đối với nền
kinh tế. Sang năm 2008, mức tăng trưởng tín dụng đột ngột giảm xuống còn
20,40%, đây là mức thấp nhất trong giai đoạn này. Do tác động kích cầu từ
phía chính phủ mà cụ thể ở đây là 2 gói hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp, tăng
trưởng tín dụng tăng và đạt 37,73%. Bước sang năm 2010, chỉ tiêu này diễn
biến giảm xuống chỉ còn 27,65%. Có thể thấy số lượng các doanh nghiệp thì
gia tăng qua các năm mà tốc độ tăng trưởng tín dụng lại giảm, điều này chứng
tỏ, kênh huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua ngân hàng trong giai
đoạn này không thực sự phát huy hiệu quả. Chưa đáp ứng được nhu cầu về
vốn của các doanh nghiệp.
HoàngThu Trang - LTĐH5D
22
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
Nguồn: Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
Hình 2.3: Tăng trưởng tín dụng của năm 2010
Nhìn vào biểu đồ thể hiện đường tăng trưởng tín dụng qua các tháng
trong năm 2010, ta thấy những tháng đầu năm 2010 đường tăng trưởng tín
dụng rất thoải điều này thể hiện một tốc độ tăng trưởng tín dụng không cao.
Đặc biệt là vào tháng tám, đường biểu diễn có phần thoải hơn so với các
tháng trước đó, điều này cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng trong tháng tám
đã giảm. Phải đến đầu tháng mười cho đến hết năm, độ dốc của đường này
mới tăng lên. Nó cho thấy tốc độ tăng trưởng tín dụng của những tháng cuối
năm là cao hơn so với những tháng đầu năm. Xét trong cả năm 2010 khi mà
hoạt động tín dụng diễn ra “ảm đạm” trong cả chín tháng đầu năm và chỉ
“khởi sắc” trong ba tháng cuối năm đã cho thấy phần nào khó khăn của doanh
nghiệp trong công tác huy động vốn nói riêng và hoạt động của doanh nghiệp
nói chung.
Tình hình về lãi suất cho vay:
Dưới đây là bảng thống kê lãi suất cho vay ở khu vực sản xuất kinh
doanh 2008 -2010. Có thể thấy lãi suất vay vốn ngân hàng biến động tương
HoàngThu Trang - LTĐH5D
23
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
đối thất thường. Đầu năm 2008, do chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ
nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát, khiến các ngân hàng thương mại điều
chỉnh giảm dư nợ tín dụng và lãi suất cho vay tăng cao. Mức lãi suất cho vay
đối với khu vực sản xuất kinh doanh là 13 – 15%/năm. Tuy nhiên, sang năm
2009, khi mà chính phủ thực hiện các gói kích cầu nhằm vực dậy nền kinh tế,
trong đó có động thái hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện để
các doanh nghiệp có cơ hội đứng vững và phát triển trong khủng hoảng. Điều
này là một trong các nguyên nhân làm lãi suất vay vốn ngân hàng giảm hơn
so với năm 2008 và ở mức 9 – 12%/năm. Sang đến năm 2010, một lần nữa,
cơn sốt lãi suất tiếp tục tăng cao (đã có lúc lên đến 20%/ năm), gây ra những
căng thẳng trên thị trường huy động vốn thông qua ngân hàng nói riêng và
hoạt động huy động vốn nói chung của các doanh nghiệp.
Chỉ tiêu 2008 2009 2010
Lãi suất cho
vay/năm
13 – 15% 9 – 12% 18 – 20%
Nguồn: Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
Bảng 2.1: Diễn biến lãi suất vay vốn ngân hàng 2008 – 2010.
Năm 2010, lãi suất cho vay diễn biến khá phức tạp và tăng cao đã gây
không ít khó khăn cho cả những doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với nguồn
vốn từ ngân hàng. Nhìn vào bảng thống kê mức lãi suất theo từng lĩnh vực
qua các tháng có thể thấy: Mức lãi suất cho vay của các ngân hàng biến động
khá mạnh, từ 10,5% đến 18% (chưa tính mức lãi suất cho vay đối với các nhu
cầu khác). Việc lãi suất tín dụng ngân hàng biến động mạnh gây ra cho doanh
nghiệp không ít rắc rối trong việc lập kế hoạch tài chính, ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
HoàngThu Trang - LTĐH5D
24
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Tài Chính - Học Viện Ngân Hàng
Chỉ tiêu
LS cho vay với
các lĩnh vực ưu
tiên
Ls cho vay với
các lĩnh vực sx -
kd
Ls cho vay với
các nhu cầu khác
Tháng 1 - 12% 15 – 17%
Tháng 4 13 - 13,5% 14 – 17% -
Tháng 7 12 – 12,5% 13 – 15% -
Tháng 8 12,5 - 13,5% 13 – 15% 16 %
Tháng 11 10,5 – 12,3% 12,5 – 15,5% 16 – 18%
Tháng 12 12 – 14% 15 – 18% -
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sinh viên tổng hợp.
Bảng 2.2: Thống kê lãi suất tín dụng ngân hàng năm 2010
Thực tế, hiện nay có thể thấy, biến động lãi suất 6 tháng đầu năm 2011
cũng vô cùng lớn, mức lãi suất cho vay có khi đã lên đến 24 – 25%/năm. Điều
này cho thấy bài toán khó của doanh nghiệp khi huy động vốn qua kênh tín
dụng ngân hàng dường như ngày càng trở nên khó khăn, bởi lẽ để tìm được
vốn qua ngân hàng đã khó, chịu được mức lãi suất cao như hiện nay lại là một
điều càng khó đối với hầu hết các doanh nghiệp. Trong bối cảnh mà những
bất ổn của nền kinh tế ngày càng biểu hiện rõ nét, giá nguyên nhiên vật liệu
đầu vào liên tục tăng, lạm phát tăng, tỷ giá biến động mạnh (đặc biệt ảnh
hưởng đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu) việc giá của một đồng vốn đi
vay tăng mạnh như trong thời gian qua, thực sự khiến cho doanh nghiệp về
lâu dài khó có thể đứng vững.
2.2.2. Huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là một kênh huy động
vốn tương đối hiệu quả với các doanh nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn nền
kinh tế ổn định và tăng trưởng, thị trường chứng khoán phát triển một cách
sôi động. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền
HoàngThu Trang - LTĐH5D
25