Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
MỤC LỤC
Sau đây gọi tắt là Bên A 82
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHXD – LĐ: Bảo hiểm xây dựng - lắp đặt
BH: Bảo hiểm
BHKT: Bảo hiểm kỹ thuật
DNBH: Doanh nghiệp bảo hiểm
HĐBH: Hợp đồng bảo hiểm
CNH – HĐH: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
GTBH: Giá trị bảo hiểm
STBH: Số tiền bảo hiểm
GĐBT: Giám định bồi thường
TNDS: Trách nhiệm dân sự
HHBH: Hiệp hội bảo hiểm
BTC: Bộ tài chính
TBH: Tái bảo hiểm
GCNBH: Giấy chứng nhận bảo hiểm
PVI: Công ty bảo hiểm Dầu khí Việt Nam
NSNN: Ngân sách nhà nước
HĐ: Hợp đồng
CBCNV: Cán bộ công nhân viên
CTCP: Công ty cổ phần
QĐBH&ĐT: Quản lý bảo hiểm và đào tạo
KDBH: Kinh doanh bảo hiểm
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sau đây gọi tắt là Bên A 82
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam phát triển rất nhanh chóng. Cơ
sở hạ tầng được mở rộng, nâng cấp liên tục. Rất nhiều các dự án, công trình xây
dựng được đầu tư và triển khai ở khắp các quốc gia. Vai trò của bảo hiểm kỹ thuật
ngày càng được nâng cao. Bảo hiểm kỹ thuật đã có mặt trong hầu hết các lĩnh vực
của hoạt động kinh tế - xã hội trên toàn thế giới. Bảo hiểm xây dựng - lắp đặt là
một loại hình quan trọng của bảo hiểm kỹ thuật, nó mang lại lợi ích to lớn cho
doanh nghiệp bảo hiểm, cho người được bảo hiểm và cho toàn xã hội. Mỗi năm, cả
nước có thêm hàng ngàn công trình xây dựng mới, dịch vụ bảo hiểm các công trình
xây dựng- lắp đặt cũng vì thế mà phát triển mạnh hơn.
Bảo hiểm là ngành đang phát triển và rất có tiềm năng trên thị trường Việt
Nam. Các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng gia tăng về số lượng cũng như chất
lượng. Loại hình bảo hiểm xây dựng- lắp đặt đã đem lại lợi nhuận khá cao cho các
công ty bảo hiểm. Vì vậy, hiện nay các công ty đang cạnh tranh quyết liệt để tìm
kiếm hợp đồng bảo hiểm xây dựng- lắp đặt nhằm giữ vững và nâng cao vị thế của
mình trên thị trường.
Khai thác là khâu đầu tiên của quá trình triển khai bảo hiểm mà bất kỳ một
doanh nghiệp bảo hiểm nào cũng phải trải qua. Hoạt động khai thác bảo hiểm rất
quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như
hiện nay. Để giữ vững được vị trí của mình trên thị trường mỗi doanh nghiệp cần
phải chú trọng đến hoạt động khai thác bảo hiểm. Và các doanh nghiệp bảo hiểm
cần phải làm gì để nâng cao hiệu quả khai thác bảo hiểm xây dựng- lắp đặt trong
bối cảnh hiện nay.
Trong thời gian thực tập tại Công ty bảo hiểm Dầu khí Đông Đô (PVI Đông
Đô), được ban lãnh đạo công ty tạo điều kiện thuận lợi để em tìm hiểu về nghiệp vụ
bảo hiểm xây dựng- lắp đặt , một nghiệp vụ mạnh của công ty, được sự giúp đỡ của
các anh chị trong công ty, và đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng
dẫn, em càng thấy được ý nghĩa to lớn của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng- lắp đặt
trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn. Nhưng trong một môi trường cạnh tranh khốc
liệt như hiện nay, cộng với những khó khăn từ bản thân công ty, khâu khai thác
nghiệp vụ này của công ty còn nhiều khó khăn, hạn chế.Vì vậy, em chọn đề tài
“Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng -
lắp đặt tại công ty PVI Đông Đô” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của
mình.Chuyên đề gồm 3 chương chính:
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng- lắp đặt và các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng - lắp đặt
Chương II: Thực trạng công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng- lắp
đặt tại PVI Đông Đô giai đoạn 2007-2009
Chương III : Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo
hiểm xây dựng - lắp đặt tại PVI Đông Đô trong thời gian tới
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo- TS. Nguyễn Thị Chính, các cô chú, anh
chị trong công ty bảo hiểm Dầu khí Đông Đô và các anh chị phòng Kinh doanh
khu vực Thanh Xuân đã hết lòng giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Do thời
gian và trình độ kiến thức còn hạn chế, bài viết của em không thể tránh khỏi những
thiếu sót, vì vậy em mong các thầy cô giáo đóng góp ý kiến để chuyên đề của em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÂY DỰNG - LẮP ĐẶT
VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KHAI THÁC NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM XÂY DỰNG - LẮP ĐẶT
1.1 Khái quát về bảo hiểm xây dựng- lắp đặt
1.1.1Sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng- lắp đặt
Ngày nay, nhu cầu xây dựng và lắp đặt là một nhu cầu thiết yếu đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia. Với sự lớn mạnh và vượt trội không ngừng trong lĩnh
vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, giá trị và quy mô của các công trình không
ngừng tăng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sự phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó
cũng tồn tại những nguy cơ tiềm ẩn:
- Quá trình CNH - HĐH khiến cho các nền kinh tế phát triển với tốc độ cao,
kéo theo đó là sự ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ tới khí
hậu trái đất. Không ít những thảm hoạ do thiên nhiên gây ra như sóng thần, động
đất, lũ lụt… gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của
con người. Với đặc trưng là tất cả các công việc đều thực hiện ngoài trời và trong
thời gian dài thì ngành xây dựng là một trong những ngành chịu ảnh hưởng lớn
của các rủi ro này.
- Các công trình xây dựng sử dụng nhiều công nghệ hiện đại, tự động hoá…
tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro bất ngờ hơn như các vụ nổ vật lý, hoá học. Không
những thế, các rủi ro còn có nguyên nhân từ các yếu tố con người như lỗi do thiết kế,
khuyết tật nguyên vật liệu, hành động phá hoại của con người…Tất cả các rủi ro này
có thể gây hậu quả nghiêm trọng nếu xảy ra. Do vậy cần phải có một hình thức bảo
hiểm phù hợp để có thể khắc phục phần nào hậu quả do các rủi ro này gây ra.
- Mỗi công trình xây lắp là một quy hoạch tổng thể có liên quan đến rất nhiều
lĩnh vực khác nhau và thường được đầu tư với số tiền lớn của các chủ đầu tư, các nhà
đầu tư tài chính,các chủ thầu xây lắp…Do vậy để đảm bảo cho dự án có thể tiến
hành được thì việc đảm bảo an toàn vốn cho các chủ đầu tư là vô cùng quan trọng.
- Trong cơ chế thị trường hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều phải tự chủ về tài
chính và chủ động kinh doanh với cơ sở vật chất sẵn có của mình, vì vậy họ phải
tính toán sao cho đạt được hiệu quả cao nhất. Do vậy nhất thiết phải tham gia bảo
hiểm để có thể giải quyết ngay những khó khăn về tài chính khi có tổn thất xảy ra,
đồng thời khi tham gia bảo hiểm thì doanh nghiệp có thể nhận được sự phối hợp
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
của công ty bảo hiểm để góp phần đề phòng, hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra tổn thất
Từ những lý do như trên cho thấy sự ra đời của BHXD- LĐ là một tất yếu
khách quan và không thể thiếu được trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng-
lắp đặt
BHXD – LĐ là bộ phận của BHKT. Trong suốt quá trình phát triển của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật luôn gắn liền với sự phát triển của BHKT. So với các
loại hình bảo hiểm khác, như bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hỏa hoạn thì BHKT ra
đời muộn hơn rất nhiều. Bảo hiểm hàng hải ra đời năm 1547, Bảo hiểm hoả hoạn ra
đời năm 1667, trong khi đó đơn BHKT đầu tiên trên thế giới là đơn bảo hiểm đổ vỡ
máy móc được cấp năm 1859 . Nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới
lần thứ hai và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và kỹ thuật là
động lực thúc đẩy BHKT phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và đồng thời nó cũng
trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng không thể thiếu đối với
sự phát triển của bất cứ nền kinh tế nào
BHKT hiện nay đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh tế - xã
hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo hiểm các máy móc trong hoạt động sản xuất, các
thiết bị dụng cụ tinh vi trong y tế, trong phòng thí nghiệm cho tới việc bảo hiểm
cho các công trình xây lắp khổng lồ như bến cảng, sân bay hay lắp đặt các tàu
biển cỡ lớn các giàn khoan trên biển, và cho cả những con tàu vũ trụ. MunichRe
cho đến nay vẫn đứng trong những công ty TBH hàng đầu thế giới và được coi là
một trong những công ty đã sáng lập và phổ biến rộng rãi loại hình BHKT. Ngày
nay, hầu hết các công ty Bảo hiểm trên thế giới thực hiện nghiệp vụ này đều áp
dụng quy tắc Bảo hiểm của Munich Re.
Đơn bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng hay đơn bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu
đầu tiên được cấp vào năm 1929 để đảm bảo cho việc xây dựng cầu Lamberth bắc
qua sông Thames, không lâu sau đó đã xuất hiện đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt.
Tuy nhiên, cả hai đơn bảo hiểm này chỉ giành được vị trí quan trọng trong giai
đoạn xây dựng sau chiến tranh thế giới năm 1945 và công cuộc phát triển sau chiến
tranh thế giới Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại và công nghệ ngày càng
thúc đẩy việc đưa ra các phạm vi bảo hiểm mới hơn, phức tạp hơn. Và cho đến nay
BHKT đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, bao gồm các loại hình chính sau:
- Bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu
- Bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
- Bảo hiểm đổ vỡ máy móc
- Bảo hiểm thiết bị điện tử
- Bảo hiểm mất thu nhập do máy móc ngừng hoạt động
- Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí
Như vậy, BHXD - LĐ là một bộ phận của BHKT. Sự ra đời của nó đã đảm
bảo an toàn cho các công trình xây dựng và lắp đặt hạn chế những rủi ro có thể do
thiên tai đem lại như : mưa bão, động đất, núi lửa hoặc những sự cố do con
người gây ra như sai lầm trong thiết kế, sai lầm của người trực tiếp thi công, khuyết
tật của nguyên vật liệu Trên thực tế, BHXD- LĐ là những mắt xích không thể
thiếu được trong BHKT. Nó đảm bảo cho khâu xây dựng và lắp đặt của một công
trình xây dựng. BHXD- LĐ là những loại hình có sự phát triển mạnh mẽ cả về
quy mô cũng như chất lượng nghiệp vụ do nhu cầu xây dựng và lắp đặt của các
nước trên thế giới ngày càng có xu hướng phát triển ngay cả trong thời kỳ kinh tế
khó khăn.
Ở Việt Nam, trước những năm 1970, chính quyền Sài Gòn cũ đã thực hiện
nghiệp vụ BHXD - LĐ. Thời kỳ này, thị trường bảo hiểm Sài Gòn chịu ảnh hưởng
lớn của thị trường bảo hiểm Mỹ. Các công trình XD- LĐ được Bảo hiểm lúc bấy
giờ chủ yếu là nhà tư nhân của một số tướng tá cấp cao trong quân đội Mỹ và
chính quyền tay sai. Bởi vì không đảm bảo được nguyên tắc “số đông bù số ít ” nên
nghiệp vụ này chưa phát triển. Đến năm 1980, nghiệp vụ này bắt đầu được chú ý ở
miền Bắc. Bảo Việt đã cử một số người sang Đức để học tập và nâng cao trình độ
nghiệp vụ. Tuy nhiên, nghiệp vụ này vẫn chưa được đưa vào thực tế vì cho đến
năm 1986, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp. Các công trình XD- LĐ có quy mô lớn chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước,
được Ngân sách Nhà nước bao cấp. Nếu như chẳng may rủi r o xảy ra gây thiệt hại
thì đã có Nhà nước gánh chịu. Hơn nữa, giai đoạn này đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam còn quá ít nên loại hình BHXD- LĐ cũng như các loại bảo hiểm khác vẫn
chưa được quan tâm tới. Chỉ đến sau đại hội VI (1986), khi nước ta bước vào công
cuộc đổi mới toàn diện thì BHXD - LĐ mới thực sự được quan tâm, phát triển. Sự
ra đời của Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 1987 là cột mốc đầu tiên
đánh dấu tiềm năng to lớn của BHXD - LĐ tại Việt Nam .
Bảo Việt là Công ty bảo hiểm đầu tiên của Việt Nam triển khai nghiệp vụ
bảo hiểm này. Khi BTC ban hành quyết định số 253/TCQĐ-91 cho phép tiến hành
nghiệp vụ BHXD- LĐ thì Bảo Việt và các công ty Bảo hiểm địa phương của nó bắt
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
đầu triển khai. Theo sau đó là hàng loạt các Thông tư, Quyết định của BTC được
ban hành nhằm bổ sung hoàn thiện cho việc triển khai nghiệp vụ BHXD- LĐ tại
Việt Nam.
Đơn BHKT đầu tiên được cấp ở Việt Nam là đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp
đặt cho trạm thu phát vệ tinh mặt đất Láng Trung. Kể từ đó, nghiệp vụ BHXD - LĐ
ngày càng phát triển và trở thành một trong những loại hình Bảo hiểm mũi nhọn
của các Công ty Bảo hiểm trong toàn quốc. Tuy nhiên, ban đầu kết quả đạt được
chưa cao, hầu như chỉ có các công trình xây dựng có vốn đầu tư nước ngoài tham
gia Bảo hiểm, còn các công trình của Nhà nước do Nhà nước quản lý, chủ công
trình chưa có ý thức tham gia Bảo hiểm. Chỉ đến khi có Nghị định số 177/ CP ra
ngày 20 -10 -1994 và Thông tư số 105/TC/ĐT được ban hành, tại Mục 1, Điều 52
quy định : “ Chủ đầu tư phải mua Bảo hiểm cho công trình” thì nghiệp vụ này mới
thực sự có đà phát triển.
1.1.3. Nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng- lắp đặt
1.1.3.1 Nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng
a. Người được bảo hiểm
Nhà đầu tư: Là người bỏ tiền vốn, đất đai ra để xây dựng công trình, là
nhân vật trung tâm trong những NĐBH. Quyền lợi của họ gắn liền với chính bản
thân công trình.
Nhà thầu chính: Là người được chủ đầu tư uỷ quyền chịu trách nhiệm toàn
bộ việc xây dựng công trình thông qua một hợp đồng xây dựng được ký kết giữa
các bên.
Tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng: Là các kiến trúc sư, kỹ sư, cố vấn
chuyên môn thay mặt chủ đầu tư trên công trường, theo dõi, kiểm tra giám sát
việc thi công của từng hạng mục công trình trên cơ sở bản vẽ thiết kế.
Các Nhà thầu phụ: Là người ký kết hợp đồng làm thuê cho nhà thầu
chính nhằm thực hiện một phần công việc hoặc công việc được hoàn thành trong
thời gian ngắn.
Do có nhiều bên được bảo hiểm nên sẽ nảy sinh vấn đề đơn bảo hiểm sẽ ghi
ai là người được ghi tên đầu tiên. Thông thường người đứng ra ký kết hợp đồng
bảo hiểm và đóng phí sẽ là người đại diện của các bên trong hợp đồng bảo hiểm.
Họ có thể là chủ đầu tư, chủ thầu chính hay thầu phụ. Nếu do nhà thầu phụ đứng ra
ký kết hợp đồng thì giá trị pháp lý sẽ không thể bằng chủ đầu tư hay chủ thầu
chính. Vì vậy, trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng sẽ ghi tên người đứng ra đại diện
kèm theo danh sách những người có quyền lợi liên quan đến công trình.
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Sơ đồ 1: Những người có quyền lợi liên quan đến công trình
Nhà tài trợ
Chủ đầu tư Tư vấn
Chủ thầu A Chủ thầu B
Các chủ thầu phụ Các chủ thầu phụ
Nguồn: Giáo trình Bảo hiểm trang 222 - NXB Đại học Kinh tế quốc dân
b. Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng của BHXD là tất cả các công trình xây dựng dân dụng, công trình
công nghiệp… hay là bao gồm tất cả các công trình xây dựng mà có kết cấu của nó
có sử dụng xi măng và bê tông cốt thép, bao gồm:
- Nhà ở, trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc …
- Nhà máy, xí nghiệp và các công trình phục vụ sản xuất
- Đường xá (cả đường bộ và đường sắt), đường băng sân bay
- Cầu cống, đê đập, công trình thoát nước, cảng…
Mỗi công trình xây dựng được chia thành nhiều hạng mục riêng biệt để thuận
tiện cho việc tính phí bảo hiểm cũng như việc giải quyết khiếu nại trong trường hợp
có tổn thất xảy ra. Mỗi hạng mục công trình được xác định và dự tính thông qua
sơ đồ tổng thể, bản vẽ và thiết kế cùng máy móc trang thiết bị cần thiết phục vụ
cho việc xây dựng cũng như các công việc có liên quan, nó bao gồm :
Cấu trúc chủ yếu của công trình xây dựng: Đây là hạng mục chiếm phần
lớn giá trị công trình, bao gồm tất các các công việc thực hiện bởi bên B (chủ thầu
chính) và các nhà thầu phụ của bên này như: Công tác chuẩn bị, dọn dẹp mặt
bằng xây dựng, xây dựng công trình tạm thời phục vụ cho thi công, đóng cọc, làm
móng và xây dựng cấu trúc chính của công trình.
Trang thiết bị xây dựng : Bao gồm rất nhiều thiết bị cố định phục vụ thi
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
công như các công trình phụ trợ (lán trại, trụ sở tạm thời, nhà xưởng, giàn giáo, hệ
thống băng tải…) . Do vậy khi yêu cầu bảo hiểm cần phải có danh sách kèm theo
đơn bảo hiểm.
Máy móc xây dựng : Bao gồm các máy móc có động cơ tự hành hoặc không
tự hành phục vụ công tác thi công (máy xúc, máy ủi, cần cẩu…) và các máy móc
này chỉ được bảo hiểm trong thời gian sử dụng trên khu vực thi công và phải có
danh sách kèm theo đơn bảo hiểm.
Các tài sản có sẵn trên và xung quanh khu vực công trường thuộc quyền sở
hữu, quản lý, trông nom của NĐBH. Thông thường trong trường hợp này giá trị
của các tài sản này không thuộc phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm xây dựng,
nhưng nếu NĐBH có yêu cầu thì người bảo hiểm có thể xem xét và mở rộng
phạm vi bảo hiểm theo điều khoản bổ sung.
Chi phí dọn dẹp hiện trường: Là các chi phí phát sinh do việc thu dọn và di
chuyển mảnh vụn, đất đá do các rủi ro được bảo hiểm xảy ra trên phạm vi công
trường.
TNDS của NĐBH đối với bên thứ ba: Là các trách nhiệm pháp lý do thiệt
hại về tài sản, thương tật thân thể của bên thứ ba phát sinh trong quá trình thi công
hoặc xung quanh khu vực công trường.
Mặc dù BHXD là bảo hiểm tài sản nhưng để hấp dẫn người tham gia bảo
hiểm, mở rộng phạm vi kinh doanh thì các đơn bảo hiểm thường bao gồm hai
phần là bảo hiểm cho các thiệt hại về tài sản và bảo hiểm TNDS của NĐBH đối
với người thứ ba.
c. Phạm vi bảo hiểm
Rủi ro được bảo hiểm:
Các đơn bảo hiểm xây dựng do công ty bảo hiểm cung cấp thường là đơn
bảo hiểm mọi rủi ro nên phạm vi bảo hiểm thường rất rộng , chỉ trừ các rủi ro loại
trừ được nêu ra trong đơn còn hầu hết các rủi ro bất ngờ và không lường trước
được đều được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng.
Cụ thể, trách nhiệm của công ty bảo hiểm đối với NĐBH phát sinh khi tổn
thất xảy ra cho các đối tượng được bảo hiểm cho các rủi ro chính sau:
- Cháy, sét đánh, nước chữa cháy hay phương tiện chữa cháy
- Lũ lụt, mưa, tuyết rơi, tuyết lở, sóng thần
- Các loại bão
- Động đất, sụt lở đất đá
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
- Trộm cắp
- Thiếu kinh nghiệm, bất cẩn, hành động ác ý hay lỗi của con người
Ngoài ra tùy vào từng công trình xây dựng mà mỗi đơn cấp còn có điều
khoản bổ sung thêm đối với các rủi ro phụ để phù hợp với nội dung công việc.
Rủi ro loại trừ:
+ Những rủi ro loại trừ chung cho cả phần vật chất và trách nhiệm:
- Chiến tranh hay những hoạt động tương tự , đình công, nổi loạn, ngừng trên
công việc, yêu cầu của bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào
- Hành động cố ý hay sự cẩu thả cố ý của NĐBH hay đại diện của họ
- Phản ứng hạt nhân, phóng xạ hay ô nhiễm phóng xạ
+ Các rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại vật chất bao gồm:
- Bất kỳ loại tổn thất nào có tính chất hậu quả
- Hỏng hóc cơ khí điện hay sự trục trặc của máy móc trang thiết bị xây dựng
- Lỗi thiết kế
- Chi phí thay thế, sửa chữa hay khắc phục các khuyết tật của nguyên vật
liệu hoặc do tay nghề ( các tổn thất do hư hại thì được bảo hiểm).
+ Các loại trừ đối với phần bảo hiểm trách nhiệm:
- Khiếu nại tổn thất liên quan đến tai nạn được bảo hiểm hay có thể được bảo
hiểm trong phạm vi của phần bảo hiểm vật chất của đơn bảo hiểm xây dựng
- Khiếu nại phát sinh do dịch chuyển, rung động hay suy yếu của cột chống
d. Thời hạn bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm được ghi rõ trong đơn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm
thường là thời gian thi công công trình được tính từ khi bắt đầu khởi công công
trình ( sau khi đã bốc dỡ vật tư máy móc xuống công trường ) đến khi hoàn thiện
hay chuyển giao hoặc đưa vào hoạt động.
Trên thực tế, thời gian thi công không nhất thiết phải trùng với thời hạn ghi
trong hợp đồng. Nếu công trình hoàn thành trước thời hạn thì hiệu lực của hợp
đồng cũng chấm dứt ngay sau khi công trình được bàn giao đưa vào sử dụng.
Trong trường hợp thời gian thi công kéo dài vượt quá thời hạn quy định thì NĐBH
phải yêu cầu gia hạn thêm đối với HĐBH và phải thanh toán thêm phí bảo hiểm cho
thời gian vượt quá này.
Thông thường thời hạn bảo hiểm bao gồm thời gian:
- Lưu kho (vật liệu) trước khi xây dựng ( tối đa là ba tháng)
- Giai đoạn xây dựng
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
- Kiểm nghiệm, chạy thử (nếu có máy móc)
- Bảo hành
e. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm
Xác định được giá trị bảo hiểm (GTBH) trong bảo hiểm xây dựng là vấn đề
quan trọng và rất phức tạp, nó bao gồm các phần giá trị sau :
GTBH của phần công tác xây dựng : Thường là giá trị ước tính và có thể là
một trong những giá trị sau :
- Tổng giá trị khôi phục lại công trình trong trường hợp có tổn thất toàn bộ và
phải tiến hành xây dựng lại.
- Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng.
- Giá trị tổn thất nhỏ nhất hoặc lớn nhất trong trường hợp sự cố xảy ra.
Tuy nhiên, việc xác định cụ thể giá trị của phần công tác xây dựng theo giá trị
dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng là hợp lý nhất. Khi công trình hoàn
thành, giá trị này được điều chỉnh lại theo giá trị thực tế và phí bảo hiểm cũng
được điều chỉnh lại cho phù hợp.
Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng thường bao gồm chi phí
lập công trình, giá trị các nguyên vật liệu do nhà thầu cung cấp, chi phí nhân công
của chủ thầu, chi phí liên quan đến việc sử dụng máy móc thi công xây dựng,
nhà xưởng thiết bị và các công trình tạm thời, kỹ thuật và giám sát, chi phí hành
chính.
GTBH của máy móc và trang thiết bị xây dựng: Được xác định theo giá trị
thay thể tương đương của máy móc, thiết bị đó mua tại thời điểm thi công công
trình và bao gồm cả các chi phí vận chuyển, lắp ráp.
Trong trường hợp xảy ra tổn thất bộ phận của máy móc thiết bị NĐBH sẽ
nhận được số tiền sửa chữa hoặc thay thế các bộ phận thiệt hại mà không được
khấu trừ đi khoản khấu hao của các bộ phận đó.
GTBH của phần chi phí dọn dẹp: Giá trị này do NĐBH căn cứ vào việc dự
kiến nếu xảy ra tổn thất thì chi phí cần thiết ước tính để có thể tiến hành dọn dẹp
mảnh vỡ, đất đá … là bao nhiêu. Thông thường các công ty Bảo hiểm xác định giá
trị này bằng 5 - 10% giá trị hợp đồng xây dựng.
GTBH cho các công trình hoặc tài sản có sẵn trong hoặc xung quanh khu
vực thi công thuộc quyền sở hữu, trông nom hoặc coi sóc của NĐBH : Được xác
định theo giá trị thực tế của các tài sản đó tại thời điểm yêu cầu bảo hiểm trong
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
hợp đồng.
Mức trách nhiệm bảo hiểm cho TNDS của NĐBH đối với bên thứ ba do việc
thi công công trình: Mức trách nhiệm này thường được xác định trên cơ sở giá trị
tổn thất tối đa có thể. Đây là giới hạn thoả thuận cho mỗi tai nạn nhưng không
giới hạn trong suốt thời gian bảo hiểm.
Thông thường công ty bảo hiểm thường thuyết phục NĐBH tham gia bảo
hiểm ngang giá trị. Trong trường hợp NĐBH tham gia bảo hiểm dưới giá trị thì sẽ
áp dụng phương pháp bảo hiểm theo tỉ lệ đối với các thiệt hại xảy ra.
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm (STBH) là khoản tiền ghi trong đơn bảo hiểm để xác
định giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm đối với công trình xây dựng - lắp đặt.
STBH được xác định dựa trên cơ sở GTBH và sự thoả thuận của hai bên. Thông
thường STBH trong BHXD- LĐ bằng GTBH
Đối với phần Bảo hiểm TNDS của NĐBH đối với bên thứ ba thì STBH hoàn
toàn dựa trên sự thoả thuận giữa hai bên.
Nếu giá trị lắp đặt lớn hơn 50% tổng STBH thì công ty bảo hiểm cấp đơn bảo
hiểm lắp đặt. Còn nếu giá trị xây dựng lớn hơn 50% tổng STBH thì cấp đơn bảo
hiểm xây dựng. trên thực tế thì tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể sẽ có các sửa đổi bổ
sung phù hợp với từng đơn cấp ra.
f. Phí bảo hiểm
Phí của một công trình xây dựng bao gồm hai phần chính: Phí bảo hiểm tiêu
chuẩn và phụ phí mở rộng.
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn là phí tính cho các rủi ro tiêu chuẩn (các rủi ro tiêu
chuẩn theo đơn bảo hiểm của Munich Re đang được áp dụng tại Việt Nam ) bao
gồm các rủi ro thiên tai, các rủi ro bất ngờ và các rủi ro khác như tay nghề kém,
thiếu kinh nghiệm…
Phí bảo hiểm tiêu chuẩn có 3 phần chính:
Phí cơ bản tối thiểu: Là mức phí tối thiểu cho 1 công trình xây dựng, tính
bằng tỷ lệ phần nghìn của số tiền bảo hiểm.
Phụ phí rủi ro động đất: Là mức phụ phí được tính cho từng loại công trình,
phụ thuộc vào độ nhạy cảm của công trình đối với rủi ro động đất. Trong kỹ thuật
mức độ nhạy cảm của công trình được chia làm năm loại C, D, E, F và G ( công
trình loại C là có độ nhạy cảm với rủi ro động đất thấp nhất). Tỷ lệ phí động đất
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
được tính bằng phần nghìn/năm. Nếu công trình xây dựng có thời gian xây dựng
trên hoặc dưới một năm được tính như sau:
Phụ phí động đất = Phí cho * Thời hạn bảo hiểm (tháng)/12 tháng
(trong thời gian xây dựng) 1 năm
Phụ phí rủi ro lũ lụt: Mức phụ phí này được tính cho 1 năm căn cứ vào tính
chất của từng loại công trình chịu tác động của rủi ro lũ lụt. Tỷ lệ phí xác định bằng
phần nghìn trên số tiền bảo hiểm.
Phụ phí mở rộng
Đây là phần phí bảo hiểm xác định cho phần trang thiết bị xây dựng, máy
móc xây dựng, tài sản có sẵn trên và xung quanh khu vực công trường , chi phí dọn
dẹp hiện trường, trách nhiệm pháp lý đối với bên thứ ba.
1.1.3.2 Nội dung cơ bản của bảo hiểm lắp đặt
a. Người được bảo hiểm
- Nhà đầu tư : Là người chịu trách nhiệm mua sắm máy móc thiết bị, lắp đặt
và đưa vào sử dụng với chi phí của mình.
- Nhà thầu chính : Là người làm thuê cho chủ đầu tư tiến hành công việc lắp
đặt, vận hành thử, sửa chữa và bảo hành.
- Nhà thầu phụ : Là người làm thuê từng phần việc cho nhà thầu chính.
- Các kiến trúc sư, nhà thiết kế, kỹ sư tư vấn : Họ là những người hoạt động
liên quan đến công trình lắp đặt.
- Nhà cung cấp máy móc thiết bị cho toàn bộ công trình lắp đặt
Ngoài ra, các tổ chức cho vay ( như các ngân hàng) cũng là những người được
bảo vệ một cách gián tiếp bởi hợp đồng này.
Chú ý là khi có bất cứ một sai sót hay hành động cố ý nào của NĐBH dẫn
đến tổn thất đều không được bảo hiểm theo đơn BHXD- LĐ .
b . Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng của BHLĐ được hiểu là các máy móc lắp đặt, các trang thiết bị
phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc, hạng mục có liên quan tới công
tác lắp đặt. Do vậy đối tượng được bảo hiểm được phân loại như sau:
- Các máy móc, dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong khi tiến
hành lắp đặt các máy móc thiết bị đó
- Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp đặt
- Các phần việc xây dựng phục vụ cho công tác lắp đặt
- TNDS đối với bên thứ ba
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
- Chi phí dọn dẹp vệ sinh
c. Phạm vi bảo hiểm
Rủi ro được bảo hiểm.
Loại 1: Các rủi ro thiên tai gồm động đất, động biển gây sóng thần, gió
mạnh (do bão, gió xoáy, cuồng phong), mưa lớn, lũ lụt, ngập lụt, sét đánh, cháy do
sét đánh hay do hoạt động của núi lửa đất đá lún, sụt lở.
Loại 2: Các hiểm hoạ tổn thất gây ra bởi hoạt động của con người trên
công trường như thiếu kinh nghiệm, kỹ năng, bất cẩn, trộm cắp, hành động ác ý
hay phá hoại, vận chuyển, khuân vác nguyên vật liệu, lỗi thiết kế…
Loại 3: Các rủi ro kỹ thuật, vận hành như áp suất ép quá lớn (nổ vật lý),
chân không (nổ bên trong), lực ly tâm, lỗi nguyên, vật liệu, mất kiểm soát phản
ứng hoá học…
Các rủi ro loại trừ.
Loại trừ chung được áp dụng cho cả bảo hiểm thiệt hại vật chất và bảo
hiểm trách nhiệm gồm:
- Chiến tranh, những rủi ro hạt nhân
- Các hành vi có tính vi phạm của NĐBH
- Gián đoạn công việc
Loại trừ đặc biệt áp dụng cho phần thiệt hại vật chất:
- Các điều khoản miễn thường
- Mọi tổn thất hậu quả
- Lỗi thiết kế, khuyết tật nguyên vật liệu
- Hao mòn, xé rách
- Tổn thất về hồ sơ, bản vẽ, tài liệu…
- Tổn thất phát hiện vào thời điểm kiểm kê như mất cắp, mất tích
Loại trừ áp dụng cho phần thiệt hại về trách nhiệm:
- Các khoản miễn thường
- Những chi tiêu hay chi phí sửa chữa có liên quan đến sửa chữa những thiệt
hại được bảo hiểm trong phần trên.
- Trách nhiệm đối với thương tật của con người, công nhân tham gia và
quá trình thi công công việc
- Tổn thất, thiệt hại đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay chăm sóc, quản
lý của bất cứ NĐBH nào
- Tổn thất gây ra bởi xe cơ giới, tàu, máy bay
- Bất cứ khoản bồi thường nào vượt quá phạm vi bảo vệ quy định trong
HĐBH.
d. Thời hạn bảo hiểm
Tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên mà thời hạn bảo hiểm được ghi rõ
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
trong đơn bảo hiểm và có thể bao gồm một phần hoặc toàn bộ các thời gian:
- Lưu kho trước khi lắp đặt
- Giai đoạn lắp đặt
- Chạy thử ( không tải và có tải )
- Giai đoạn bảo hành
e. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm.
- GTBH đối với thiết bị được lắp đặt : Tính bằng giá trị thay thế mới của
bất kỳ một máy móc, thiết bị mới tương đương gồm giá mua, chi phí kỹ thuật,
cước phí vận chuyển, thuế hải quan…
- GTBH của các máy móc trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt
- GTBH đối với chi phí dọn dẹp vệ sinh
- GTBH của các tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường lắp đặt
thuộc quyền quản lý, sở hữu của NĐBH
Số tiền bảo hiểm.
STBH được xác định dựa và giá trị của các hạng mục nêu trên và sự thoả
thuận giữa hai bên, và nó thường tính bằng GTBH.
Đối với bảo hiểm TNDS của NĐBH đối với người thứ ba thì STBH hoàn toàn
dựa vào sự thoả thuận giữa hai bên.
Với các công trình xây dựng dân dụng và lắp đặt hỗn hợp, nếu giá trị lắp đặt
lớn hơn 50% tổng STBH thì công ty bảo hiểm cấp đơn BHLĐ ( Erection All Risks
- CAR). Trong trường hợp này thì thường là các công trình xây dựng công nghiệp
như: nhà máy xi măng, nhiệt điện, nhà máy xí nghiệp… Còn nếu giá trị xây dựng
lớn hơn 50% tổng STBH thì cấp đơn BHXD ( Contractor’s All Risks - CAR) và
các công trình thường là công trình thi công cầu đường, bến cảng, sân bay, bệnh
viện, trường học, nhà cửa…
f. Phí bảo hiểm
Trong công trình lắp đặt có thể có một phần công việc xây dựng và phần
công việc này có thể bảo hiểm luôn bằng đơn bảo hiểm lắp đặt. Khi đó cần lưu ý
cách tính phí như sau:
- Nếu giá trị của phần xây dựng nhỏ hơn 20% tổng giá trị của công trình thì
mức phí tính như tỷ lệ phí của BHLĐ
- Nếu giá trị của phần công việc xây dựng từ 20 - 50% giá trị của công trình
thì phí bảo hiểm cho phần công việc này được tính riêng theo biểu phí trong BHXD.
- Nếu giá trị công việc xây dựng lớn hơn 50% giá trị công trình thì áp dụng
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
đơn BHXD để bảo hiểm cho công việc này.
Về cơ bản, phương pháp tính phí bảo hiểm lắp đặt cũng giống như phương
pháp tính phí BHXD.
Tổng phí = Phí tiêu chuẩn + Phụ phí mở rộng tiêu chuẩn
Nhưng có một số điểm khác với Bảo hiểm xây dựng là:
+ Phí tối thiểu trong Bảo hiểm là 300 USD hoặc tương đương bằng các lợi
tiền khác
+ Việc xác định phụ phí rủi ro lũ lụt phụ thuộc vào sức chịu đựng của công
trình đối với khu vực rủi ro nơi tiến hành công trình và sức chịu đựng của công
trình đối với tác động của gió, bão, lũ lụt.Hiện người ta chia công trình ra làm 3 loại
có sức chịu đựng khác nhau là loại I, II và III.
1.1.3.3 Hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng - lắp đặt
Hợp đồng bảo hiểm là bản cam kết trách nhiệm giữa bên mua bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm. Theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm,
DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm thường ghi
rõ những điểm mà hai bên thoả thuận, cùng với những văn bản pháp lý trong thực
hiện hợp đồng.
a. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm xây dựng - lắp đặt
Nội dung của HĐBH thể hiện mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các
bên tham gia và được quy định dưới hình thức điều khoản hợp đồng. Sau khi thu xếp
xong một hợp đồng xây dựng - lắp đặt. Người bảo hiểm cấp đơn bảo hiểm cho người
tham gia bảo hiểm. Hợp đồng BHXD- LĐ bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Đối tượng tham gia bảo hiểm và DNBH
- Đối tượng bảo hiểm
- Số tiền bảo hiểm và Giá trị bảo hiểm
- Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm
- Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
- Thời hạn bảo hiểm
- Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm
- Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường
- Các quy định giải quyết tranh chấp
- Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
- Quy tắc của bảo hiểm XDLĐ
- Các điều khoản thỏa thuận ( về phạm vi bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, số tiền
bảo hiểm, mức miễn thường có khấu trừ, phí bảo hiểm và phương thức thanh toán,
điều kiện bảo hiểm và điều khoản bổ sung kèm theo, trách nhiệm của các bên, cam
kết chung)
- Đại diện của các bên tham gia bảo hiểm ký tên.
b . Các chủ thể trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng- lắp đặt
Các chủ thể trong HĐBH gồm 2 bên:
Bên mua bảo hiểm (gọi tắt là bên A) :Là các tổ chức,cá nhân giao kết
HĐBH với DNBH và đóng phí bảo hiểm.Bên mua bảo hiểm có thể có liên quan đến
3 người:
- Người tham gia bảo hiểm là tổ chức, cá nhân đứng ra giao kết hợp đồng với
DNBH và đóng phí bảo hiểm.Người tham gia bảo hiểm phải có đầy đủ năng lực
hành vi pháp lý và họ có thể đồng thời là NĐBH hoặc hoặc người thụ hưởng quyền
lợi bảo hiểm.
- NĐBH là các tổ chức, cá hân có tài sản, TNDS ,tính mạng được bảo hiểm
theo HĐBH.NĐBH có thể đồng thời là người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.
- Người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được người tham
gia bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm.Trong
BHXD- LĐ ít khi xuất hiện đối tượng này.
Bên DNBH (gọi tắt là bên B) : DNBH cam kết trả tiền bảo hiểm hoặc bồi
thường cho NĐBH khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra.Đổi lại DNBH sẽ nhận được
phí bảo hiểm.Sự kiện bảo hiểm là những sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận
hoặc pháp luật quy định.
Hai bên cùng nhau thoả thuận ký kết Hợp đồng theo những điều khoản được
quy định trong HĐBH.
c. Trách nhiệm các bên trong hợp đồng hợp đồng bảo hiểm xây dựng- lắp đặt
Trách nhiệm của Bên A:
− Kê khai trung thực các thông tin bảo hiểm liên quan được Bên B yêu cầu.
−Thực hiện các trách nhiệm và nghĩa vụ qui định trong Đơn bảo hiểm (thông
báo tổn thất, đề phòng và hạn chế tổn thất ).
−Thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn.
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
−Thu thập chứng từ cùng các giấy tờ liên quan để hoàn tất hồ sơ yêu cầu bồi
thường khi xảy ra tổn thất.
− Khi được yêu cầu, Bên A có trách nhiệm cung cấp cho Bên B toàn bộ hồ
sơ, chứng từ tài liệu có liên quan tới tài sản được bảo hiểm.
Trách nhiệm của Bên B:
− Hướng dẫn Bên A kê khai Bản câu hỏi và Giấy đề nghị bảo hiểm.
− Giải thích các thuật ngữ và các vấn đề khác liên quan trong Đơn bảo hiểm
− Hướng dẫn Bên A thu thập các chứng từ cần thiết để hoàn tất hồ sơ yêu cầu
bồi thường khi xảy ra tổn thất.
− Thực hiện các trách nhiệm và nghĩa vụ qui định trong Đơn bảo hiểm
− Trả tiền bồi thường nhanh chóng theo đúng thoả thuận.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả khai thác nghiệp vụ bảo hiểm
xây dựng - lắp đặt
Đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh thực chất là nội dung của việc phân
tích hoạt động kinh doanh của toàn bộ công ty trong một thời kỳ nhất định. Các chỉ
tiêu đặt trong mối quan hệ với các khâu, các yếu tố và các điều kiện cụ thể trong
quá trình hoạt động kinh doanh.Trên cơ sở đó , xác định các đặc trưng về mặt số
lượng, cơ cấu, quan hệ tỷ lệ,mối quan hệ ràng buộc giữa các yếu tố phân tích. Tùy
theo mục đích và nội dung phân tích mà lựa chọn những chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu số lượng: Phản ánh quy mô, mức độ đạt được của kết quả kinh
doanh như: số hợp đồng,lượng vốn,năng suất khai thác
Chỉ tiêu chất lượng:Phản ánh hiệu quả kinh doanh hay hiệu quả sử dụng
vốn của DNBH , như : năng suất lao động,hiệu quả sử dụng vốn,năng suất khai thác
của các đại lý
Chỉ tiêu tuyệt đối: Thường dùng đánh giá quy mô , kết quả đạt được về
một hiện tượng nào đó tại thời gian và không gian cụ thể,có thể là chỉ tiêu số lượng
hoặc chất lượng.
Chỉ tiêu tương đối:Thường được dùng phân tích các mối quan hệ kinh tế
giữa các bộ phận hay xu hướng phát triển một hiện tượng nào đó, như :tỷ lệ hoàn
thành kế hoạch doanh thu phí bảo hiểm,cơ cấu phí bảo hiểm
Chỉ tiêu bình quân: Phản ánh trình độ phổ biến về một hiện tượng nào đó
trong DNBH,như:thu nhập bình quân cán bộ nhân viên, STBH bình quân một đơn
bảo hiểm
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị: Tùy theo mục đích sử dụng và nội
dung phân tích, có thể vận dụng tổng hợp các chỉ tiêu biểu hiện bằng đơn vị hiện
vật hay giá trị
1.2.1.Chỉ tiêu đánh giá kết quả
Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm,một loại hình bảo hiểm và
của cả DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là: Doanh thu và Lợi nhuận
Doanh thu của DNBH phản ánh tổng hợp kết quả kinh doanh trong một
thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Nó là cơ sở để tính các chỉ tiêu khác có liên
quan phục vụ phân tích hoạt động kinh doanh trong DNBH .Chỉ tiêu này bao gồm
các bộ phận cấu thành: Doanh thu về hoạt động KDBH và TBH; thu nhập từ đầu tư
và các khoản thu khác.
Chi phí của DNBH là toàn bộ số tiền DNBH chi ra trong kỳ phục vụ cho
quá trình hoạt động kinh doanh trong vòng một năm.
Dựa vào kết quả thu chi sẽ tính được lợi nhuận mà DNBH thu được trong
năm.Có 2 chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận
trước thuế
=
Tổng
doanh thu
- Tổng chi phí
Lợi nhuận
sau thuế
=
Lợi nhuận
trước thuế
-
Thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp
Các chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận có thể tính riêng cho từng nghiệp
vụ bảo hiểm nhưng khi tính toán cần đảm bảo nguyên tắc: những khoản thu chi nào
có liên quan trực tiếp tới nghiệp vụ phải được tính trực tiếp cho nghiệp vụ đó;
những khoản thu , chi gián tiếp phải được phân bổ theo tỷ lệ giữa doanh thu phí bảo
hiểm nghiệp vụ so với tổng doanh thu phí bảo hiểm nói chung.Kết quả kinh doanh
của nghiệp vụ có thể phân tích theo các hướng sau:
- Phân tích cơ cấu doanh thu và chi phí
- Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu và lợi nhuận
- Phân tích sự biến động của doanh thu,chi phí và lợi nhuận theo thời gian
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận
1.2.2 . Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh của DNBH là thước đo sự phát triển của bản thân doanh
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh
doanh nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Với tư các là thước đo sự phát
triển của DNBH,hiệu quả kinh doanh thể hiện ở các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế- xã hội
khác nhau. Các chỉ tiêu phản ánh chi phí và cơ cấu kết quả kinh doanh đều không
phải là chỉ tiêu hiệu quả. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh chỉ có thể xác định bằng tỷ
lệ so sánh giữa kết quả với chi phí. Nếu lấy mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh
so với một chỉ tiêu phản ảnh chi phí,ta được một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh.
Xét trên phương diện thống kê , để biểu hiện và đo lường hiệu quả kinh doanh
của một DNBH , không thể dùng một chỉ tiêu mà phải dùng một hệ thống chỉ tiêu.
Bởi vì nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng và phức tạp.Tính chất
phức tạp thể hiện ngay ở bản chất mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Chi phí với
tư cách là những yếu tố đầu vào của hoạt động kinh doanh rất đa dạng. Theo góc độ
vĩ mô,chi phí bao gồm toàn bộ nguồn nhân tài, vật lực huy động vào hoạt động kinh
doanh. Còn đại lượng kết quả lại được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu khác nhau.Nếu ký
hiệu một chỉ tiêu chi phí nào đó là C và một chỉ tiêu kết quả kinh doanh nào đó là K
thì chỉ tiêu hiệu quả H được tính từ hai chỉ tiêu trên sẽ là :
H=K/C
hoặc H=C/K
Như vậy về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so
sánh với một chỉ tiêu chi phí nào đó sẽ tạo thành một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả
kinh doanh tính theo chiều thuận K/C hoặc chiều ngược lại C/K.Nếu có n chỉ tiêu
kết quả và m chỉ tiêu chi phí thì số lượng chỉ tiêu hiệu quả sẽ là 2m.n.
Nếu xét trên góc độ kinh tế
Hiệu quả kinh doanh của DNBH được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi
nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ:
H
d
= D/C (1)
H
e
= L/C (2)
Trong đó:
- H
d
, H
e
là hiệu quả kinh doanh của DNBH tính theo doanh thu và lợi nhuận.
- D là doanh thu trong kỳ.
- L là lợi nhuận thu được trong kỳ.
- C là tổng chi phí chi ra trong kỳ.
Chỉ tiêu (1) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu, còn chỉ tiêu (2) phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho DNBH . Các chỉ tiêu H
d
và H
e
càng lớn thì càng tốt
vì với một chi phí nhất định, doanh nghiệp sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày
càng tăng.
Nếu xét trên góc độ xã hội
Hiệu quả kinh doanh của DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu sau:
H
x
= K
TG
/C
BH
(3)
H
x
= K
BT
/C
BH
(4)
Trong đó:
- H
x
: Hiệu quả xã hội của công ty bảo hiểm
- K
TG
: Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ
- K
BT
: Số khách hàng được bồi thường trong kỳ
- C
BH
: Tổng chi phí cho hoạt động KDBH trong kỳ
Chỉ tiêu (3) phản ảnh cứ một đồng chi phí trong kỳ đã thu hút được bảo nhiêu
khách hàng tham gia bảo hiểm. Còn chỉ tiêu (4) nói lên cũng với đồng chi phí đó đã
góp phần giải quyết và khắc phục hậu quả cho bao nhiêu khách hàng gặp rủi ro
trong kỳ nghiên cứu. Tất cả những chi tiêu trên phản ánh tổng hợp nhất mọi mặt
hoạt động KDBH của DNBH.
Nếu xem xét ở từng mặt, từng khâu và từng nghiệp vụ bảo hiểm có thể tính
được các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau để phục vụ cho quá trình đánh giá và phân tích
hoạt động kinh doanh. Tuy vậy, tất cả các chỉ tiêu hiệu quả đều phải đảm bảo
nguyên tắc khi xây dựng,điều đó có nghĩa là mỗi chỉ tiêu phải phản ánh được trình
độ sử dụng loại chi phí nào đó trong việc tạo ra những kết quả nhất định.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KHAI THÁC NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM XÂY DỰNG - LẮP ĐẶT ĐẶT TẠI PVI ĐÔNG ĐÔ
GIAI ĐOẠN 2007-2009
2.1.Giới thiệu về Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam
Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Dầu khí Việt Nam ( PVI ) được thành lập
theo quyết định số 42 GP/ KDBH ngày 12/03/2007 của BTC tiền thân là công ty
Bảo hiểm Dầu khí, từ loại hình công ty 100% vốn nhà nước- thành viên Tập đoàn
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Dầu khí quốc gia Việt Nam trở thành Tổng công ty cổ phần với cổ đông chính là
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam ( tỷ lệ góp vốn chiếm 59,49% vốn điều lệ ),
có phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ Việt Nam và nước ngoài. Kể từ khi thành
lập đến nay, Tổng CTCP Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam đã trưởng thành và phát
triển mạnh mẽ về quy mô cũng như tiềm lực tài chính.
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng tổng doanh thu của PVI từ năm 2004-2009
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của PVI
Năm 2004, doanh thu của PVI đạt 610 tỷ đồng. Đến 2005, nhờ có những
bước trưởng thành quan trọng về cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án dầu khí
lớn tại nước ngoài và tăng cường nhận tái bảo hiểm từ Triều Tiên, Trung Quốc…
Từ đó PVI thành lập các chi nhánh khu vực và phát triển mạng lưới đại lý chuyên
nghiệp trên khắp các tỉnh thành trong cả nước. Việc Công ty đã xây dựng và áp
dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001:2000 từ năm 2002 đến
nay đã giúp kiểm soát chặt chẽ quy trình cấp đơn bảo hiểm và kiểm soát nội bộ
đảm bảo chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Năm 2006, PVI đã đánh dấu chặng đường 10 năm hình thành và phát triển
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
của mình bằng sự kiện đạt doanh thu 1000 tỷ đồng vào ngày 26/9/2006 cùng với
việc vốn và tài sản được nâng lên đáng kể. Đây là một năm quan trọng trong quá
trình xây dựng và phát triển thương hiệu Bảo hiểm Dầu khí – PVI và là năm thứ 6
liên tiếp hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kế hoạch do Tập đoàn Dầu khí giao cho
với tổng doanh thu đạt 1300 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước 102 tỷ đồng, lợi
nhuận đạt trên 62 tỷ đồng…
Tháng 9/2006, Bộ Công nghiệp và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã
có Quyết định cổ phần hóa Công ty bảo hiểm Dầu khí với mục tiêu tăng cường
năng lực cạnh tranh và xây dựng PVI trở thành một Tổng công ty cổ phần mạnh
trong định chế Bảo hiểm - Tài chính của tập đoàn. Ngày 12/4/2007 là ngày Tổng
công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam chính thức ra mắt, đánh dấu sự
chuyển mình cho những thành công rực rỡ tiếp theo.
Năm 2007 là năm đầu tiên PVI chuyển đổi hoạt động từ doanh nghiệp Nhà
nước sang mô hình Tổng công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Tuy
nhiên PVI đã thể hiện bản lĩnh vững vàng của mình qua việc thích ứng nhanh
chóng với cơ chế quản lý mới, doanh thu cuối năm đạt 2000 tỷ đồng, lợi nhuận
đạt 250 tỷ đồng .
Năm 2008, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tuy nhiên bằng nhiệt huyết và sự sáng tạo của
mình, PVI đã vượt qua khó khăn với mức doanh thu đạt 2.694 tỷ đồng làm tiền đề
cho mốc ấn tượng hơn 3000 tỷ đồng đạt được vào tháng 12/2009.
Chiến lược phát triển của PVI đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2025 trở
thành Tổng công ty Bảo hiểm - Tài chính hàng đầu thông qua việc chiếm lĩnh thị
trường trong nước, phát triển ra thị trường quốc tế đối với mảng kinh doanh bảo
hiểm và triển khai mạnh các hoạt động đầu tư tài chính.
PVI đã tiến hành ký hợp tác toàn diện, hợp đồng dài hạn với các đối tác lớn,
các đơn vị thành viên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam nhằm củng cố
mối quan hệ với khách hàng, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững và nâng cao
giá trị thương hiệu.
PVI có đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo
chuyên sâu, am hiểu về mọi lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Đặc biệt, hàng năm PVI
đều cử một số CBCNV đi đào tạo dài hạn, chuyên sâu tại Học viện Bảo hiểm
Hoàng Gia Anh, Học viện Bảo hiểm Malaysia . Đây là điều mà không phải công ty
Vương Thị Anh Kinh tế bảo hiểm
49
25