Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 114 trang )


1

z
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
__________




NGUYỄN THỊ LÊ THƯ

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Triết học



HÀ NỘI – 2013

2

z
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


__________


NGUYỄN THỊ LÊ THƯ

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM


Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.80


Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Đoàn Quang Thọ



HÀ NỘI – 2013

5

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Nhà nước pháp quyền và sự hình thành nhà nước pháp quyền
đầu tiên trong lịch sử - nhà nước pháp quyền tư sản
1.1.1 Khái niệm nhà nước pháp quyền

1.1.2 Sự hình thành nhà nước pháp quyền đầu tiên trong lịch sử - nhà
nước pháp quyền tư sản
1.2 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và vai trò của nó trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.2.1 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.2.2 Vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kết luận chương 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
2.1.1 Thực trạng việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân
2.1.2 Thực trạng việc đổi mới phương thức và phát huy vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản đối với bộ máy nhà nước………
2.1.3 Thực trạng việc xây dựng và thực thi pháp luật trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1.4 Thực trạng việc đổi mới, kiện toàn hoạt động của các cơ quan
3
4

12

12
12

20

25

25

45
54

56

56

56

60

66


6

nhà nước trong việc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp
2.2 Một số giải pháp góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
2.2.1 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo sự đồng bộ và
tính hiệu lực của luật pháp
2.2.2 Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước nhằm nâng
cao hiệu lực quản lý nhà nước
2.2.3 Đổi mới công tác tuyển chọn, sử dụng và bồi dưỡng đội ngũ công
chức nhà nước
2.2.4 Nâng cao trình độ hiểu biết về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa cho người dân nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong việc tổ

chức, kiểm soát các hoạt động của nhà nước
2.2.5 Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước…………
Kết luận chương 2
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

73

80

80

84

91


94
96
99
102
104












7

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNTB: Chủ nghĩa tư bản
CTQG: Chính trị quốc gia
KTTT: Kinh tế thị trường
Nxb: Nhà xuất bản
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa





















8

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nhà nƣớc là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thƣợng tầng. Trong
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, sự tồn tại và phát triển của nhà nƣớc chịu sự
quy định bởi cơ sở hạ tầng - toàn bộ kết cấu kinh tế của xã hội đó. Mỗi sự
thay đổi của cơ sở hạ tầng đặt ra yêu cầu cần phải có một thƣợng tầng kiến
trúc tƣơng ứng, trƣớc hết là nhà nƣớc. Nói cách khác, khi kinh tế phát triển
đến một trình độ nhất định đòi hỏi phải có một cách thức tổ chức và vận hành
của nhà nƣớc tƣơng ứng, phù hợp để bảo vệ và tạo điều kiện cho nền kinh tế
đó phát triển.
Trong lịch sử, từ thời Cổ đại, khi nhà nƣớc ra đời, việc quản lý xã hội
bằng luật pháp bắt đầu đƣợc đặt ra. Tuy nhiên, đến thời Cận đại ở châu Âu
(thế kỷ XVII - XVIII), vấn đề nhà nƣớc pháp quyền mới chính thức đƣợc đặt
ra và thực hiện. Trƣớc sự thắng thế hoàn toàn của phƣơng thức sản xuất
TBCN so với phƣơng thức sản xuất phong kiến, KTTT TBCN có điều kiện
phát triển ngày càng mạnh mẽ. Sự phát triển này đã đặt ra yêu cầu mới cần có
các thể chế phù hợp để tạo môi trƣờng thuận lợi cho KTTT TBCN phát triển,
đem lại nhiều lợi nhuận hơn cho các nhà tƣ bản. Cùng với đó, các học thuyết,
lý luận về nhà nƣớc pháp quyền cũng ra đời và nở rộ. Do vậy, nhà nƣớc pháp
quyền TBCN đã ra đời và ngày càng đƣợc hoàn thiện hơn về nhiều mặt: từ
phƣơng thức tổ chức, cách thức hoạt động đến hệ thống pháp luật, công cụ
điều hành quản lý đảm bảo cho nền KTTT hoạt động theo các quy luật khách
quan của nó. Nhƣ vậy, lịch sử nhà nƣớc pháp quyền gắn liền với sự phát triển
của nền KTTT.
Ở Việt Nam, tƣ tƣởng về nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân đã đƣợc

quán triệt và thực thi trong xây dựng nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tuy nhiên, phải đến thời kỳ đổi mới, cùng với việc xây dựng nền KTTT định
hƣớng XHCN, vấn đề xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta mới

9

chính thức đƣợc đặt ra. Hội nghị Trung ƣơng 2 khóa VII (1991) của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chủ trƣơng xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở
Việt Nam và cụm từ “nhà nƣớc pháp quyền” chính thức đƣợc sử dụng. Trong
các Đại hội VIII, IX, X, XI, Đảng tiếp tục làm rõ hơn khái niệm nhà nƣớc
pháp quyền XHCN và khẳng định xây dựng, hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền
XHCN Việt Nam là một nhiệm vụ rất quan trọng của Cách mạng Việt Nam.
Trong hơn 25 năm qua, việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở
Việt Nam không ngừng đƣợc đẩy mạnh và đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan
trọng. Tổ chức bộ máy nhà nƣớc ngày càng đƣợc hoàn thiện hơn, hiệu quả
quản lý của nhà nƣớc đƣợc nâng lên. Hệ thống luật pháp ngày càng kiện toàn
và vai trò của luật pháp đƣợc nâng cao, pháp chế XHCN đƣợc tăng cƣờng.
Việc đào tạo, bồi dƣỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đƣợc
quan tâm
Tuy nhiên, việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta vẫn
còn nhiều bất cập. Tổ chức bộ máy nhà nƣớc có chỗ còn chƣa hợp lý. Hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc trên nhiều lĩnh vực còn hạn chế. Luật pháp, cơ
chế, chính sách chƣa đồng bộ. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn
khá nghiêm trọng làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và nhà nƣớc, ảnh
hƣởng không tốt đến quá trình phát triển của nền KTTT định hƣớng XHCN ở
nƣớc ta. Hàng loạt vấn đề về lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng, hoàn
thiện nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay đang đặt ra những
đòi hỏi cấp bách mà Đảng, nhà nƣớc và nhân dân ta cũng nhƣ các nhà khoa
học Việt Nam cần phải tập trung giải quyết.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn thạc sỹ của mình với mong muốn đƣợc đóng góp một phần nhỏ
bé và khiêm tốn của bản thân vào giải quyết những vấn đề trên của đất nƣớc.
2. Tình hình nghiên cứu

10

Nghiên cứu nhà nƣớc là vấn đề đƣợc các học giả Việt Nam quan tâm từ
rất sớm. Tuy nhiên việc nghiên cứu nhà nƣớc pháp quyền XHCN để phục vụ
cho xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cách
mạng nƣớc ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mới
đƣợc tập trung và đi sâu nghiên cứu trong vài ba thập kỷ gần đây. Trong
khoảng thời gian này, nhiều công trình đã đƣợc công bố nhƣ: “Nhà nước
pháp quyền và xã hội công dân” của Viện Thông tin khoa học xã hội – Viện
khoa học xã hội Việt Nam (1991, Sƣu tập chuyên đề); “Tìm hiểu về Nhà nước
pháp quyền” do Đào Trí Úc chủ biên (1992, Nxb Pháp lý);“Thuyết“Tam
quyền phân lập” và bộ máy nhà nước tư sản hiện đại” của Đinh Ngọc Vƣợng
(1992, Viện Thông tin Khoa học xã hội); “Học thuyết về nhà nước pháp
quyền: lịch sử và hiện tại” của Nguyễn Văn Động (Tạp chí luật học số
4/1996); “Tính tất yếu kinh tế và chính trị trong sự hình thành và phát triển
nhà nước pháp quyền” của Nguyễn Hữu Khiển (Tạp chí Triết học, số
6/1997); “Về tư tưởng nhà nước pháp quyền và khái niệm nhà nước pháp
quyền” do Lê Minh Tâm viết (Tạp chí luật học số 2/2002); “Xây dựng nhà
nước pháp quyền từ sự hình thành xã hội công dân” của Nguyễn Thanh Bình
(Tạp chí Cộng sản, số 17/2004); “Góp phần nghiên cứu hiến pháp và Nhà
nước pháp quyền” của Bùi Ngọc Sơn (2005, Nxb Tƣ pháp); “Nhà nước pháp
quyền công cụ để thực hiện dân chủ” của Vũ Văn Viên (Tạp chí Triết học, số
11/ 2005)… “Khái niệm nhà nước pháp quyền từ góc nhìn triết học” của Trần
Ngọc Liêu (tạp chí Triết học số 11/2009),
Bên cạnh những nghiên cứu khá toàn diện lý luận chung về nhà nƣớc

pháp quyền còn có những nghiên cứu tập trung vào một số vấn đề mang tính
chuyên sâu ở những mặt, khía cạnh cụ thể nhƣ: “Những vấn đề lý luận cơ bản
về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền” của Lê Cảm (Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 11/2002); “Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền tư sản”
của Vũ Hồng Anh (Tạp chí Luật học, số 6/2003); “Thể chế tư pháp trong nhà
nước pháp quyền ” do Nguyễn Đăng Dung chủ biên (2004, Nxb Tƣ pháp);

11

“Một số tư tưởng triết học chính trị của G. Lốc cơ: thực chất và ý nghĩa lịch
sử” của Đinh Ngọc Thạch (Tạp chí Triết học, số 1/2007); “Cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước và cả quyền lập pháp trong nhà nước pháp quyền: một số
vấn đề lý luận cơ bản” của Lê Văn Cảm – Dƣơng Bá Thành (Tạp chí nghiên
cứu Lập pháp, số 1/2010); “Phác thảo về nhà nước pháp quyền trong mối liên
hệ với tự do, quyền, lợi ích của công dân” của Đinh Văn Mậu (Tạp chí quản
lý nhà nƣớc số 173, tháng 6/2010)
Vấn đề nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam cũng thu hút đƣợc
nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu.
Một số công trình nghiên cứu cấp nhà nƣớc nhƣ đề tài KX.04.01 “Cơ
sở lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân”, đề tài KX.04.06 “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống
các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả, hiệu lực xét xử của tòa án trong nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân”; đề tài KX05.07 “Nguyên
tắc tổ chức và hoat động của bộ máy lập pháp – hành pháp – tư pháp với
nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” đã đƣợc công bó, bƣớc
đầu làm rõ những nét chủ yếu của nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Cùng với các đề án nghiên cứu cấp nhà nƣớc, nhiều luận án chuyên sâu
về nhà nƣớc pháp quyền XHCN đã đƣợc các tác giả hoàn thành nhƣ: “Mối
quan hệ giữa việc xây dựng nhà nước pháp quyền với sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Lê Minh Quân (1999, LA TS Triết

học); “Nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội của nhà nước trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Đăng
Thông (2000, LA TS Triết học); “Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của Đào Ngọc Tuấn (2002, LA TS
triết học); “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của Trần Huy Liệu (2002,
LA TS Luật học), “Vận dụng quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Mai

12

Đình Chiến (2004, LA TS Triết học); “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
cải cách hệ thống tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền” của Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005, LA TS Luật học”; “Quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước với việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam” của Trần Ngọc Liêu (2010, LATS Triết học)….
Hệ thống sách chuyên khảo về vấn đề nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở
Việt Nam cũng đƣợc biên soạn: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” của Lê Minh Quân (2003, Nxb CTQG); “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Đào Trí Úc (Cb) (2005, Nxb CTQG);
“Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” của Trần Hậu Thành (2005, Nxb
Lý luận Chính trị); “Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”
của Nguyễn Trọng Thóc (2005, Nxb CTQG); “Vận dụng học thuyết Mác để
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của Nguyễn Tĩnh Gia, Mai Đình
Chiến (2006, Nxb CTQG); “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Đào Trí Úc (Cb), Võ Khánh
Vinh, Trần Đình Hảo (2007, Nxb Tƣ pháp); “Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - lý luận và thực tiễn” của

Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (2008, Nxb CTQG); “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay : Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị (2009, Nxb
Từ điển Bách khoa); …
Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình đƣợc đăng tải trên các tạp chí nhƣ
Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Triết học, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, Tạp chí
Quản lý nhà nƣớc, Tạp chí Lý luận Chính trị… Đó là: “Tư tưởng của các tác
gia kinh điển Mác-Lênin về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của
Hoàng Văn Hảo, (Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/2004); “Tư tưởng HCM về
nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân và việc xây dựng nhà nước

13

đó ở Việt Nam hiện nay” của Trần Kỳ Đồng (Tạp chí Triết học, số 5/ 2004);
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”
của Lê Doãn Tá (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 9/2004); “Vận dụng tư tưởng
pháp quyền của Các Mác trong xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Văn Mạnh (Tạp chí Nhà nƣớc và
Pháp luật, số 10/2004); “Mối quan hệ giữa chức năng xã hội-chính trị và
chức năng xã hội-dân sự trong việc kiện toàn nhà nước pháp quyền xã hội
chử nghĩa ở Việt Nam” của Phạm Ngọc Dũng (Tạp chí Triết học, số 7/2005);
“Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân vì dân” của Hoàng Văn Hảo (Tạp chí lý luận
chính trị, số 8/2005); “Về một số nét đặc thù của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam” của Phạm Văn Đức (Tạp chí Triết học, số 9/2005);
“Những nhân tố chi phối quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” của Hoàng Chí Bảo (Tạp chí Lý luận chính trị, số
10/2005); “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp
quyền và những vấn đề đặt ra ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Đình Tƣờng
(Tạp chí Triết học, số 11/ 2005); “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”
của Nguyễn Văn Yểu (Tạp chí Cộng sản số 20/2005)…
Những công trình trên đã đề cập đến nhiều vấn đề về nhà nƣớc pháp
quyền nói chung và nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam nói riêng với
mức độ nông sâu khác nhau và với nhiều cách tiếp cận rất phong phú, giúp
ích rất nhiều cho tác giả trong quá trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu đã công bố liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu
của luận văn còn chƣa có nhiều.
Nhƣ vậy, xung quanh vấn đề nhà nƣớc pháp quyền và nhà nƣớc pháp
quyền XHCN ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu khá sâu sắc.
Song, thực tiễn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta hiện nay
cũng đang nảy sinh nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải đáp. Do đó,

14

trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích về mặt lý luận
và thực tiễn việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam trong
nền KTTT định hƣớng XHCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhà nƣớc
pháp quyền và nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam, luận văn phân tích
thực trạng xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam thời gian qua,
từ đó đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện
nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
+ Làm rõ khái niệm nhà nƣớc pháp quyền và sự hình thành nhà nƣớc
pháp quyền tƣ sản
+ Làm rõ khái niệm nhà nƣớc pháp quyền XHCN và vai trò của nó
trong nền KTTT định hƣớng XHCN ở Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt

Nam thời gian qua
+ Đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần xây dựng và hoàn
thiện nhà nƣớc pháp quyền XHCN trong nền KTTT định hƣớng XHCN ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Trong luận văn, tác giả nghiên cứu về nhà nƣớc pháp
quyền trong nền KTTT định hƣớng XHCN ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu quá trình xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở Việt Nam từ khi đất nƣớc bƣớc vào Đổi
mới, xây dựng và thực hiện nền KTTT định hƣớng XHCN đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Về cơ sở lý luận, tác giả đã dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, nhất là lý luận về mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng của Chủ nghĩa Mác-

15

Lênin; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản về vấn đề
xây dựng nhà nƣớc và nhà nƣớc pháp quyền XHCN và các công trình nghiên
cứu có liên quan.
- Về phương pháp nghiên cứu, tác giả sử dụng các phƣơng pháp:
Phƣơng pháp trừu tƣợng hóa, khái quát hóa, phƣơng pháp lịch sử và lôgic,
phƣơng pháp phân tích và tổng hợp tài liệu, phƣơng pháp hệ thống để thực
hiện đề tài này.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về nhà
nƣớc pháp quyền XHCN trong nền KTTT định hƣớng XHCN ở Việt Nam.
- Luận văn đã góp phần làm rõ thực trạng quá trình xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền XHCN ở nƣớc ta thời gian
- Luận văn cũng đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần

xây dựng nhà nƣớc pháp quyền XHCN trong nền KTTT định hƣớng XHCN ở
nƣớc ta hiện nay.
7. Bố cục
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
chia thành 2 chƣơng và 4 tiết.











16

CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Nhà nước pháp quyền và sự hình thành nhà nước pháp quyền
đầu tiên trong lịch sử - nhà nước pháp quyền tư sản
1.1.1 Khái niệm nhà nước pháp quyền
Trong lịch sử, từ thời Cổ đại, khi nhà nƣớc ra đời, tƣ tƣởng cai trị xã
hội bằng pháp luật đã đƣợc đề cao “chỉ có pháp luật mới thiết lập đƣợc trật tự
và tạo nên sự thống nhất” [60, tr.220]. Trong thực tiễn xây dựng và quản lý
nhà nƣớc thời Cổ - Trung đại bấy giờ cũng có những tƣ tƣởng tiến bộ cho
rằng: pháp luật phải đứng về phía nhân dân, là “chốn nƣơng thân của nhân
dân” (Heraclit) (Thời Cổ đại) [Theo 64, tr.16]; quyền lực nhà nƣớc phải đƣợc
thực hiện nhƣ một thứ quyền lực phục vụ nếu không sẽ dẫn đến sự sụp đổ của

nhà nƣớc (Augustino) và tƣ tƣởng pháp luật phải bảo vệ quyền tự nhiên của
con ngƣời: quyền sống, quyền hôn nhân, quyền sinh đẻ (Thomas Aquino)
(Thời Trung cổ) [Xem 30, tr.81-85]… Những tƣ tƣởng này đã đƣợc kế thừa,
phát triển và hoàn thiện trong các học thuyết về nhà nƣớc pháp quyền sau
này. Tuy nhiên, về thực chất, đây chƣa phải là những tƣ tƣởng về nhà nƣớc
pháp quyền bởi các nhà tƣ tƣởng thời kỳ này đều đứng trên lập trƣờng của
giai cấp thống trị để lập luận cho các vấn đề về nhà nƣớc nhằm mục đích bảo
vệ lợi ích của thiểu số - những ngƣời đang nắm giữ quyền lực nhà nƣớc trong
xã hội Cổ - Trung đại.
Phải đến thời kỳ cận đại, sự phát triển của các yếu tố kinh tế TBCN
nghĩa đòi hỏi phải đƣợc bảo vệ về mặt pháp lý. Chính trong thực tiễn của
cuộc đấu tranh chống sự lộng quyền, đặc quyền của giai cấp phong kiến, quý
tộc, chống nhà nƣớc chuyên chế và sự độc đoán của chế độ quân chủ, các học
thuyết về nhà nƣớc pháp quyền đã xuất hiện.

17

Trƣớc hết là vấn đề lý thuyết pháp quyền tự nhiên. Đại diện tiêu biểu là
Spinoda (1632 - 1677) - một trong những ngƣời đầu tiên đƣa ra nền tảng lý
luận cho nhà nƣớc dân chủ, liên kết với luật pháp, đảm bảo cho quyền lợi và
tự do thực sự của con ngƣời. Xuất phát từ quan niệm, con ngƣời sinh ra đã có
quyền tự do và luật pháp ra đời là để bảo vệ tự do mà tự do đó đƣợc thoả
thuận trong luật pháp, Spinoda khẳng định, nhà nƣớc chỉ có thể hùng mạnh
khi nó bảo đảm cho mỗi công dân không chỉ sống mà còn thoả mãn các lợi
ích của họ và ngăn chặn những ngƣời cầm quyền khỏi sự xâm phạm đến sở
hữu, an toàn, danh dự, tự do và các quyền lợi khác của nhân dân.
Các nhà duy vật Anh thế kỷ XVII tiếp tục phát triển lý luận về pháp
quyền tự nhiên mà tiêu biểu là Locke với lý thuyết về tự do, phân quyền và
chủ quyền nhân dân. Theo Locke, nhà nƣớc có nghĩa vụ bảo vệ các quyền tự
nhiên của con ngƣời: quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu. Trong nhà

nƣớc đó, luật pháp giữ vị trí tối thƣợng và phải phù hợp với quyền tự nhiên.
Nguyên tắc pháp luật mà Locke đƣa ra ở đây xét theo phạm vi rộng thì công
dân đƣợc phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn những ngƣời
nắm giữ quyền lực nhà nƣớc thì chỉ đƣợc phép làm những điều mà pháp luật
cho phép.
Bên cạnh đó, Locke còn là một trong những ngƣời chính thức khởi thảo
quan niệm về sự phân chia quyền lực trong nhà nƣớc. Theo ông quyền lực
nhà nƣớc cần phải đƣợc phân thành ba quyền: Quyền hành pháp (thuộc về
Vua) trong đó có một phần thuộc về xét xử; quyền lập pháp thuộc về nghị
viện, nghị viện phải họp định kỳ để thông qua các đạo luật nhƣng không thể
can thiệp vào việc thực hiện chúng; quyền liên hợp thuộc về vua, nhà vua
lãnh đạo việc thi hành pháp luật, giải quyết các vấn đề chiến tranh hoà bình và
đối ngoại, bổ nhiệm các bộ trƣởng, chánh án và các quan chức khác và không

18

có đặc quyền nhất định nào đối với nghị viện nhƣ quyền phủ quyết, bãi
miễn
Mặt khác, Locke còn chỉ ra rằng: Quyền lực nhà nƣớc về bản chất là
thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy nhiệm. Theo ông nhân dân đƣợc xem nhƣ
một lực lƣợng để tiết chế sự lạm dụng quyền lực của nhà nƣớc và có thể thiết
lập chính quyền khác thay thế cho chính quyền hiện tại một khi nhà nƣớc hiện
tại không đáp ứng đƣợc yêu cầu của các công dân. Có thể nói, lý thuyết trên
của Locke đã đặt nền móng cho sự ra đời của học thuyết về nhà nƣớc pháp
quyền tƣ sản.
Montesquieu (1689 - 1775) - nhà luật học ngƣời Pháp – đã hệ thống
hóa các quan niệm về phân chia quyền lực trong nhà nƣớc. Trong tác phẩm
Tinh thần pháp luật ông khẳng định mỗi nhà nƣớc đều có ba loại quyền:
quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Để tránh lạm quyền, ba quyền đó cần
nằm trong tay ba cơ quan khác nhau, kiềm chế lẫn nhau – đây là điều kiện chủ

yếu để đảm bảo tự do chính trị trong nhà nƣớc. Quyền lập pháp giao cho nghị
viện, quyền hành pháp giao cho chính phủ và quyền tƣ pháp giao cho toà án.
“Không một cơ quan nào vƣợt lên những cơ quan kia, và không một cơ quan
nào có thể tƣớc đoạt quyền cá nhân của công dân” [7, tr.505]. Tƣ tƣởng tam
quyền phân lập của Montesquieu đã trở thành một trong những nội dung cơ
bản của học thuyết nhà nƣớc pháp quyền tƣ sản.
Rousseou (1712 - 1788), nhà triết học đại diện cho tầng lớp tiểu tƣ sản
trong các nhà khai sáng Pháp, đã làm sâu sắc hoá những nội dung về nhà
nƣớc pháp quyền thông qua lý thuyết về khế ƣớc xã hội.
Xuất phát từ giả thiết về trạng thái tự nhiên mà trong đó mọi ngƣời đều
bình đẳng và tự do, Rousseou đặt vấn đề phải có một khế ƣớc hay công ƣớc
xã hội khi con ngƣời đã thoát khỏi trạng thái tự nhiên để trở thành con ngƣời
dân sự trong xã hội. Đây là một hình thức liên kết với nhau để dùng sức mạnh

19

chung mà bảo vệ mọi thành viên. Trong xã hội đó, quyền lực nhà nƣớc thuộc
về ngƣời dân chứ không phải quốc vƣơng, ngƣời dân thực hiện quyền của
mình thông qua việc uỷ quyền cho các đại biểu của mình trong bộ máy nhà
nƣớc. Khi nhà nƣớc vi phạm khế ƣớc xã hội đã thỏa thuận thì nhân dân có
quyền thay thế bằng nhà nƣớc mới. Đó là lý do nói tới nhà nƣớc pháp quyền
là nói tới quyền lực thuộc về nhân dân.
Theo Rousseou, để tránh sự tùy tiện, sự lạm quyền, nhằm đảm bảo thực
thi pháp luật một cách khách quan công bằng thì trong hoạt động nhà nƣớc
phải phân chia thành các quyền năng khác nhau nhƣ quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tƣ pháp. Ba quyền đó ràng buộc lẫn nhau, chế ƣớc lẫn
nhau, kiểm tra, giám sát lẫn nhau trên nguyên tắc dùng quyền lực chế ƣớc
quyền lực. Mặt khác, theo Rousseou sự phân quyền đó nhằm đảm bảo việc
kiểm tra của nhân dân đối với nhà nƣớc một cách thuận tiện. Phân quyền
trong nhà nƣớc pháp quyền đảm bảo cho mỗi quyền đƣợc độc lập trong mối

liên hệ với các quyền khác mà không xâm phạm đến các quyền đó [Xem 30,
tr.126-187].
Cuối thời kỳ Cận đại, vào thế kỷ XIX, kế thừa tƣ tƣởng tiến bộ của
những nhà khai sáng Pháp, các nhà tƣ tƣởng cổ điển Đức đã luận giải về mặt
triết học cho sự tồn tại của nhà nƣớc pháp quyền. Kant cho rằng: nhà nƣớc là
sự liên kết mọi ngƣời trong khuôn khổ của pháp luật nhằm giám sát và đảm
bảo quyền bình đẳng cho mọi công dân; nhà nƣớc pháp quyền không là gì
khác nhƣ một cộng đồng pháp lý, do vậy nó phải đảm đƣơng trách nhiệm
ngăn chặn sự chuyên quyền, độc đoán. Từ đó, Kant khẳng định: “Nhà nƣớc
pháp quyền phải là nhà nƣớc cộng hòa thuần túy chân chính, nơi mà luật pháp
ngự trị không phụ thuộc vào cá nhân nào trong đó hoạt động lập pháp là quan
trọng nhất. Mục đích của quyền lập pháp là đảm bảo quyền tự do” [82, tr.29].
Hegel kế thừa tƣ tƣởng về nhà nƣớc của Kant, song, ông cho rằng hoạt động

20

nhà nƣớc phải gắn liền với lĩnh vực đạo đức, “nhà nƣớc là tính hiện thực của
ý niệm đạo đức” [41, tr.127].
Nhƣ vậy, các nhà tƣ tƣởng phƣơng Tây thời Cận đại đã đặt cho mình
nhiệm vụ giải thích tính tất yếu, hợp lý và tiến bộ của nhà nƣớc và pháp luật
tƣ sản. Bằng nhiều cách lý giải khác nhau, các triết gia đã thể hiện ý chí và
nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tƣ sản trong cuộc đấu tranh chống chế độ
phong kiến lạc hậu, chuyên chế vì một trật tự xã hội mới – xã hội tƣ bản và sự
phát triển của nền kinh tế mới đang từng bƣớc hình thành và phát triển: kinh
tế hàng hóa TBCN.
Sự ra đời của tƣ tƣởng nhà nƣớc pháp quyền tƣ sản thời kỳ đầu gắn liền
với những tƣ tƣởng về công bằng, bình đẳng, về quyền và lợi ích của con
ngƣời mà trƣớc hết là lợi ích kinh tế. Sang cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
CNTB đã chấm dứt giai đoạn công trƣờng thủ công và chuyển sang giai đoạn
công nghiệp hóa. Lúc này, một xu hƣớng ảnh hƣởng lớn về cả lý luận và thực

tiễn đến vấn đề nhà nƣớc pháp quyền tƣ sản đó là hệ thống quan điểm pháp lý
– thực định. Tiêu biểu cho xu hƣớng này là Mohn và Valker - những ngƣời
đầu tiên dùng thuật ngữ nhà nƣớc pháp quyền. Hai ông đã chỉ ra nguyên tắc
cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền: “tính tối cao của pháp luật là nguyên tắc
hàng đầu của nhà nƣớc pháp quyền. Tính tối cao đó thể hiện chủ quyền của
nhân dân dƣới hình thức quyền lực của nghị viện. Tiêu chuẩn tiếp theo là sự
bình đẳng của công dân trƣớc pháp luật, còn pháp luật chỉ là công cụ bảo vệ
quyền tự do của con ngƣời khỏi sự can thiệp từ bên ngoài” [65, tr.45]. Theo
đó, “nhà nƣớc pháp quyền là một kiểu nhà nƣớc trong đó nhà lập pháp cũng
phải tuân thủ pháp luật nhƣ mọi công dân khác” [76, tr.60]. Nhìn chung, các
nhà tƣ tƣởng theo quan điểm thực chứng pháp lý này đều tuyệt đối hóa vai trò
của pháp luật trong nhà nƣớc pháp quyền.

21

Hệ thống lý luận về nhà nƣớc pháp quyền sau này tiếp tục đƣợc bổ
sung và phát triển song hành với quá trình hiện thực hóa nhà nƣớc pháp
quyền trong thực tế. Năm 1992, Hội nghị quốc tế về nhà nƣớc pháp quyền
đƣợc tổ chức tại Benin nhằm làm rõ về nội hàm của khái niệm nhà nƣớc pháp
quyền trong xã hội đƣơng đại. Tại đây, các nhà nghiên cứu của hơn 40 quốc
gia đã thống nhất đƣa ra một quan niệm chung về nhà nƣớc pháp quyền: “Nhà
nƣớc pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nƣớc và cá nhân phải
tuân thủ pháp luật, mọi quyền và nghĩa vụ của mỗi ngƣời đƣợc pháp luật ghi
nhận và bảo vệ; các quy trình và quy phạm pháp luật đƣợc đảm bảo thực hiện
bằng một hệ thống toà án độc lập. Nhà nƣớc pháp quyền có nghĩa vụ tôn
trọng giá trị của con ngƣời và đảm bảo cho công dân có khả năng, điều kiện
chống lại sự tùy tiện của cơ quan nhà nƣớc bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra
tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng nhƣ các hoạt động của bộ máy
nhà nƣớc. Nhà nƣớc pháp quyền phải đảm bảo cho công dân không bị đòi hỏi
bởi những cái ngoài hiến pháp và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp

luật thì hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải đƣợc xây dựng trên cơ sở đảm
bảo quyền tự do và quyền công dân” [Theo 68, tr.19].
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu vấn đề này, các học giả cũng
đã đƣa ra nhiều quan niệm và cách hiểu về nhà nƣớc pháp quyền.
Theo GS,TS Phạm Ngọc Quang, “Nhà nƣớc pháp quyền – nói một cách
khác là hệ thống các tƣ tƣởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ
chức, hoạt động của bộ máy nhà nƣớc và trong đời sống xã hội. Nhà nƣớc
pháp quyền là nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật. Đƣơng nhiên, bao giờ
pháp luật cũng mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm
quyền” [63, tr.64].
Viện sĩ Nguyễn Duy Quý cho rằng: “Nhà nƣớc pháp quyền là nhà nƣớc
mà trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nƣớc đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu

22

phục tùng pháp luật – một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí,
thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội, của con ngƣời” [67,
tr.154].
Giáo trình Triết học dành cho nghiên cứu sinh và học viên cao học
không chuyên Triết của Bộ Giáo dục và Đào tạo định nghĩa: “Nhà nƣớc pháp
quyền là một hình thức tổ chức nhà nƣớc đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị cao
nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân” [6,
tr.497].
Những định nghĩa này tập trung khẳng định vai trò của luật pháp trong
nhà nƣớc pháp quyền và coi nhà nƣớc pháp quyền là nhà nƣớc trong đó luật
pháp thống trị.
Lê Cảm cho rằng: “Nhà nƣớc pháp quyền là tổ chức quyền lực công
khai trong hệ thống chính trị của xã hội công dân đƣợc xây dựng trên nền
tảng các tƣ tƣởng pháp lý tiến bộ của nhân loại nhƣ công bằng, nhân đạo, dân
chủ và pháp chế, nhằm đảm bảo thực sự những giá trị xã hội đƣợc thừa nhận

chung của nền văn minh thế giới – sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do
của con ngƣời, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt xã hội,
tính tối cao của luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nƣớc, sự phân công
quyền lực (lập pháp, hành pháp, tƣ pháp) và chủ quyền của nhân dân” [Theo
76, tr.81]. Ở đây, ông nhấn mạnh đặc điểm phân công quyền lực và coi đây là
dấu hiệu bản chất của nhà nƣớc pháp quyền
Nguyễn Đăng Dung khẳng định: “Nhà nƣớc pháp quyền là một hình
thức nhà nƣớc đƣợc phân tích trong mối tƣơng quan giữa nhà nƣớc và pháp
luật. Nhà nƣớc pháp quyền thể hiện tính dân chủ của nhân loại” [16, tr.65].
Từ điển xã hội học do Nguyễn Khắc Viện làm chủ biên viết: “Nhà
nƣớc pháp quyền – một loại hình nhà nƣớc đƣợc xây dựng trên cơ sở dân chủ,
đối lập với nhà nƣớc độc tài, chuyên chế cai trị. Nó là nhà nƣớc đƣợc xây

23

dựng trên cơ sở xã hội công dân. Điều kiện đầu tiên của nhà nƣớc pháp quyền
là đảm bảo các quyền và tự do của công dân bằng những quy định pháp luật
rành mạch, không ai đƣợc vi phạm. Trong nhà nƣớc pháp quyền, pháp luật là
thƣớc đo hay là chuẩn mực của tự do” [Theo 16, tr.61].
Đào Trí Úc viết: “Nhà nƣớc pháp quyền trên bình diện học thuyết, quan
niệm, tƣ tƣởng thì phải đƣợc hiểu nhƣ là những đòi hỏi về dân chủ và về
phƣơng thức thực hiện quyền lực” [85, tr.214].
Nhƣ vậy, những tác giả này khi nhìn nhận vấn đề nhà nƣớc pháp quyền
đã nhấn mạnh đến vấn đề dân chủ và tự do, coi nhà nƣớc nhƣ là sự biểu hiện
và là công cụ để thực hiện quyền tự do, dân chủ của công dân thông qua luật
pháp.
Qua những dẫn chứng trên đây, có thể khái quát: nhà nƣớc pháp quyền
là một phƣơng thức tổ chức nhà nƣớc trong đó quyền lực nhà nƣớc thuộc về
nhân dân; pháp luật phải thể hiện đƣợc ý chí và nguyện vọng của nhân dân và
ngự trị trong hoạt động của mọi cá nhân, tổ chức, kể cả bộ máy nhà nƣớc;

quyền lực nhà nƣớc phải có sự phân công rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và
tƣ pháp nhằm đảm bảo pháp luật đƣợc xây dựng và thực hiện một cách
nghiêm minh.
Nhƣ vậy, chúng ta có thể rút ra một số đặc trƣng cơ bản của nhà nƣớc
pháp quyền nhƣ sau:
Thứ nhất, chủ thể quyền lực nhà nƣớc là nhân dân; nhà nƣớc của dân,
do dân và vì dân; nhà nƣớc do nhân dân lập nên, nhà nƣớc phải phục vụ nhân
dân.
Thứ hai, pháp luật phải thể hiện đƣợc ý chí, nguyện vọng và bảo vệ lợi
ích của nhân dân và ngự trị trong mọi hoạt động của cá nhân, mọi tổ chức xã
hội và cả trong bộ máy nhà nƣớc.

24

Thứ ba, để đảm bảo luật pháp đƣợc xây dựng và thực thi một cách
nghiêm túc, nhà nƣớc pháp quyền phải có sự phân công quyền lực giữa lập
pháp, hành pháp và tƣ pháp.
1.1.2 Sự hình thành nhà nước pháp quyền đầu tiên trong lịch sử -
nhà nước pháp quyền tư sản
Nhà nƣớc ngay từ khi ra đời đã dùng một công cụ đặc biệt để quản lý
xã hội - đó là pháp luật. Xét về thực chất, nhà nƣớc nào cũng quản lý xã hội
bằng luật pháp, song không phải nhà nƣớc nào cũng là nhà nƣớc pháp quyền.
Nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ và nhà nƣớc phong kiến chỉ là nhà nƣớc thần
quyền, nhà nƣớc chuyên chế. Trong các nhà nƣớc này, quyền lực tập trung
trong tay nhà vua. Luật pháp cũng chỉ là ý chí của nhà vua đƣợc thể hiện
thành luật lệ để thống trị xã hội, nhằm mục đích bảo vệ địa vị và lợi ích của
nhà vua; nhà vua tạo ra luật pháp và đứng trên luật pháp. Ngay cả nhà nƣớc
dân chủ Athens dù đã khẳng định quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân
nhƣng thực chất, nhân dân ở đây không phải là toàn bộ dân chúng. Đứng
trƣớc nhà nƣớc, những ngƣời nô lệ, những ngƣời có địa vị thấp kém trong xã

hội nô lệ và phong kiến chỉ là “công cụ biết nói”, là những thần dân “ngoan
ngoãn”, có nghĩa vụ phục vụ nhà nƣớc, phục vụ kẻ thống trị.
Các nhà nƣớc chuyên chế đó ra đời và tồn tại xét đến cùng là do chế độ
kinh tế quyết định. Ở phƣơng Đông và phƣơng Tây, tuy có những khác biệt
nhất định về cách thức tổ chức xã hội nô lệ và phong kiến nhƣng đều giống
nhau ở chỗ: nhà vua là ngƣời sở hữu lớn nhất về tƣ liệu sản xuất, do đó nhà
vua có quyền lực tối thƣợng và từ đó nảy sinh chế độ chuyên chế, thần quyền.
Khi nền KTTT TBCN ra đời và phát triển, quá trình phân công lao
động xã hội, quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu diễn ra mạnh mẽ.
Trong xã hội xuất hiện nhiều chủ thể kinh tế với tính độc lập ngày càng cao.
Các loại thị trƣờng xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng nhƣ thị trƣờng vốn,

25

thị trƣờng sức lao động, thị trƣờng khoa học công nghệ.v.v. Sản xuất hàng
hóa phát triển với trình độ ngày càng cao, các quan hệ thị trƣờng dần dần
đƣợc phát triển, hoàn thiện hơn. Việc trao đổi hàng hóa giữa các vùng miền
trở nên phổ biến, đồng thời thị trƣờng trong nƣớc không ngừng đƣợc mở
rộng, giao thƣơng hàng hóa giữa các nƣớc đƣợc tăng cƣờng.
Sự ra đời và phát triển của KTTT TBCN, của sản xuất hàng hóa và trao
đổi hàng hóa kiểu mới tạo ra cảm giác “làm cho tất cả các công dân dường
như đƣợc bình đẳng, xóa bỏ sự phân chia cũ thành chủ nô và nô lệ, kiến lập
quyền bình đẳng của mọi ngƣời trƣớc pháp luật, không kể số tƣ bản họ có
trong tay là bao nhiêu; chủ đất đai hay ngƣời cùng khổ chỉ có hai cánh tay để
lao động” [50, tr.89-90] và đem đến cho ngƣời dân địa vị mới – từ địa vị nô
lệ, thần dân trong các xã hội trƣớc đó đã trở thành công dân trong xã hội mới.
Điều này nảy sinh đòi hỏi về các quyền quyền tự do, bình đẳng, dân chủ và
đặc biệt là các quyền về kinh tế của các chủ thể sản xuất, kinh doanh, của cả
ngƣời lao động và yêu cầu phải bảo vệ các quyền này một cách công khai,
hợp pháp thông qua Hiến pháp và pháp luật. Đây là cơ sở thực tiễn rất quan

trọng quy định nhà nƣớc đƣợc xây dựng trên cơ sở nền KTTT phải đảm bảo
đƣợc các quyền sở hữu, nhân thân, các quyền về an ninh, chính trị của công
dân và các quyền đó cần phải đƣợc thể chế hóa trong hệ thống pháp luật của
nhà nƣớc.
Bên cạnh những ƣu điểm, KTTT cũng có những mặt hạn chế của nó.
Với mục đích tối đa hóa lợi nhuận, nguyên tắc bao trùm trong các quan hệ
kinh tế của KTTT là tự do kinh doanh, bình đẳng, cùng có lợi giữa các chủ
thể kinh tế bị vi phạm ngày càng nhiều, ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của
sản xuất, trao đổi và lƣu thông hàng hóa. Hơn nữa, với trình độ chuyên môn
hóa ngày càng cao, trên thị trƣờng hình thành nhiều mối quan hệ khác nhau,
đan xen rất phức tạp. Vì vậy, để bảo vệ đƣợc các quyền công dân, đặc biệt là

26

quyền tự do sản xuất kinh doanh; tạo ra môi trƣờng pháp lý để KTTT vận
hành theo đúng quy luật của nó và khắc phục những mặt trái của nền KTTT,
nhà nƣớc pháp quyền tƣ sản đã ra đời với tƣ cách là ngƣời trọng tài để điều
chỉnh các mối quan hệ kinh tế - xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp của xã hội
tƣ bản.
Nhƣ vậy, nền KTTT TBCN đòi hỏi phải có một thiết chế chính trị
tƣơng ứng để điều chỉnh đời sống kinh tế - xã hội TBCN và nhà nƣớc pháp
quyền tƣ sản đã ra đời từ yêu cầu khách quan đó. Với sự xuất hiện của nhà
nƣớc pháp quyền tƣ sản, lần đầu tiên trong lịch sử, một nhà nƣớc pháp quyền
hiện thực đã ra đời.
Xét trên phƣơng diện lịch sử, nhà nƣớc pháp quyền tƣ sản là một bƣớc
tiến về chất so với các nhà nƣớc trƣớc đó trong việc bảo vệ và thực hiện các
quyền của con ngƣời, trong việc tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của các nhà nƣớc tƣ sản. Điều này đƣợc thể hiện ở những điểm chủ yếu
sau:
Một là, nhà nước pháp quyền tư sản đã thực thi được ở một mức độ

nhất định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tiêu biểu là việc thực hiện
dân chủ thông qua bầu cử. Khẳng định những giá trị tiến bộ của hình thức
nhà nƣớc tƣ sản, Lênin viết: “Chế độ cộng hòa tƣ sản, nghị viện, đầu phiếu bổ
thông – tất cả những cái đó, xét về phƣơng diện phát triển của xã hội trên toàn
thế giới, đều là một bƣớc tiến rất lớn” [50, tr. 94]. Cái khác nhau giữa nhà
nƣớc tƣ sản với các nhà nƣớc trong lịch sử là ở hình thức tổ chức và phƣơng
thức thực hiện quyền lực của giai cấp tƣ sản. Trong nhà nƣớc tƣ sản, xét về
mặt lý thuyết, mỗi công dân có thể tự mình tham gia ứng cử vào các cơ quan
quyền lực hoặc lựa chọn những ngƣời đại diện cho lợi ích của mình thông qua
các cuộc bầu cử. Tuy nhiên, Ăngghen trong tác phẩm Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tƣ hữu và của nhà nƣớc đã chỉ ra thực chất của chế độ đầu

27

phiếu phổ thông dƣới chế độ TBCN. Theo ông, so với chế độ nông nô thì chế
độ đầu phiếu phổ thông là một bƣớc tiến rất lớn, song dƣới chế độ tƣ bản:
“giai cấp hữu sản thống trị trực tiếp bằng đầu phiếu phổ thông” [11, tr.257],
nói cách khác, đầu phiếu phổ thông cũng là công cụ thống trị của giai cấp tƣ
sản.
Hai là, pháp luật có vai trò tối cao trong điều chỉnh các hoạt động của
các cá nhân, các tổ chức xã hội và bộ máy nhà nước. Để nền KTTT hoạt
động theo quy luật vốn có của nó, các học giả tƣ sản đã thấy đƣợc sự tồn tại
của nhà nƣớc gắn liền với một hệ thống pháp luật và mọi công dân trong nhà
nƣớc đó đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trƣớc pháp luật. Quyền lực
nhà nƣớc hƣớng tới việc gắn lợi ích giai cấp tƣ sản với lợi ích chung của xã
hội trong phạm vi pháp quyền tƣ sản. “Pháp luật tƣ sản đã cụ thể hóa toàn bộ
các hoạt động có tính chất xã hội và cá nhân của con ngƣời thành các quy
định về quyền và nghĩa vụ” [44, tr.19].
Ba là, nhà nước pháp quyền tư sản đã đảm bảo quyền tự do kinh doanh
của các nhà tư bản và ở một mức độ nhất định đã bảo vệ quyền công dân và

quyền con người. CNTB đặc biệt đề cao quyền tự do và quyền tƣ hữu, bất kỳ
một sự xâm phạm nào cũng không hợp hiến, hợp pháp. Tiêu chí này trở thành
một trong những tiêu chí quan trọng nhất cho sự tồn tại của nhà nƣớc pháp
quyền tƣ sản. Bên cạnh đó, so với các nhà nƣớc trƣớc CNTB, nhà nƣớc pháp
quyền tƣ sản đã có bƣớc tiến đáng kể trong việc đề cao quyền công dân,
quyền con ngƣời, đánh đổ bất bình đẳng và đặc quyền đặc lợi phong kiến.
Luật pháp đƣợc đề ra phải là những đảm bảo cho các quyền tự nhiên của nhân
dân.
Bốn là, xác định được những thiết chế và cơ chế cần thiết ngăn chặn sự
lạm quyền của chính quyền – chế độ phân quyền. Nhà nƣớc pháp quyền tƣ
sản đƣợc tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập – tức quyền lập pháp,

×