Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 145 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








CHU THÙY LIÊN




Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn và
ý nghĩa lịch sử




LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ











HÀ NỘI, 2005


Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

Mục lục

Trang
Mở đầu
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
3
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc đại lục và lãnh thổ Đài Loan
7
2.3. Tình hình nghiên cứu về Tôn Trung Sơn ở phương Tây
9
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
10
4. Đóng góp của luận văn
11
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

11
6. Bố cục của luận văn
12
Chương 1: Bối cảnh lịch sử với việc hình thành tư tưởng cách mạng của Tôn
Trung Sơn
13
1.1. Bối cảnh lịch sử
13
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
13
1.1.2. Tình hình trong nước
15
1.2. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn - Người tiên
phong vĩ đại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cận đại Trung Quốc
21
Chương 2: Chủ nghĩa Tam dân - Một học thuyết cách mạng
30
2.1. Quá trình hình thành tư tưởng Chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn
30
2.2. Nội dung chính của Chủ nghĩa Tam dân
33
2.2.1. Chủ nghĩa Dân tộc
34
2.2.1.1 Sự hình thành và phát triển của tư tưởng dân tộc
34
2.2.1.2. Nội dung chính của Chủ nghĩa Dân tộc
38
2.2.1.2.1. Dân tộc và những yếu tố cấu thành nên dân tộc
38

2.2.1.2.2. Vấn đề dân tộc ở Trung Quốc và nguyên nhân
Trung Quốc đánh mất tinh thần dân tộc
42
2.2.1.2.3. Biện pháp khôi phục Chủ nghĩa Dân tộc ở Trung Quốc
45
2.2.1.3. Quá trình chuyển biến từ Chủ nghĩa Tam dân cũ sang Chủ
nghĩa Tam dân mới
53
Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

2.2.2. Chủ nghĩa Dân quyền
55
2.2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chủ nghĩa Dân quyền
55
2.2.2.2. Những nội dung chính của Chủ nghĩa Dân quyền
58
2.2.2.2.1. Dân quyền với vấn đề “tự do”, “bình đẳng”
58
2.2.2.2.2. Sự phân biệt giữa “quyền” và “năng”
61
2.2.2.2.3. Cơ chế dân chủ Ngũ quyền phân lập
65
2.2.2.2.4. Trình tự thực hiện dân chủ
70
2.2.3. Chủ nghĩa Dân sinh
74
2.2.3.1. Sự hình thành và phát triển của Chủ nghĩa Dân sinh

74
2.2.3.2. Những nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Dân sinh
78
2.2.3.2.1. Các biện pháp nhằm giải quyết vấn đề dân sinh
78
2.2.3.2.2. Tôn Trung Sơn với vấn đề ăn và mặc
86
Chương 3: ý nghĩa của Chủ nghĩa Tam dân và những ảnh hưởng của nó đối với
cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
92
3.1. ý nghĩa của Chủ nghĩa Tam dân
92
3.1.1. ý nghĩa lịch sử
92
3.1.2. Giá trị thời đại
97
3.1.3. Những mặt hạn chế
99
3.2. ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân đối với
cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
102
3.2.1. Tôn Trung Sơn với quá trình chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu
104
3.2.2. ảnh hưởng của Chủ nghĩa Tam dân Tôn Trung Sơn đến phong trào
Quốc Dân đảng Việt Nam
107
3.2.3.ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với Hồ Chí Minh
110
Kết luận
116

Phụ lục
120
Tôn Trung Sơn niên biểu
120
Chân dung Tôn Trung Sơn
125
Lăng Tôn Trung Sơn tại Nam Kinh
126
Nhà tưởng niệm Tôn Trung Sơn tại Quảng Châu
127
Nhà tưởng niệm Tôn Trung Sơn tại Đài Bắc
128
Tài liệu tham khảo
129

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngay từ cuối thế kỷ XX, không ít học giả nước ngoài dự báo rằng, thế kỷ
XXI sẽ là Thế kỷ của Trung Quốc, Trung Quốc sẽ vượt qua phương Tây, trở
thành một quốc gia hiện đại hoá lớn mạnh nhất thế giới. 5 năm đầu tiên của thế
kỷ XXI sắp trôi qua, nhận định này dường như phần nào đã trở thành hiện thực.
Cả đất nước Trung Quốc đang bừng bừng trỗi dậy. Trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, Trung Quốc đều giành được những thành tựu khiến cả thế
giới phải khâm phục. Về chính trị, Trung Quốc đã tổ chức thành công Đại hội

XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc, bầu ra được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo thế
hệ thứ tư đầy sức trẻ và nhiệt huyết, tiếp tục thúc đẩy công cuộc cải cách mở
cửa, xây dựng hiện đại hóa đất nước. Về kinh tế, tháng 12 - 2001, sau nhiều
vòng đàm phán khó khăn vất vả, Trung Quốc đã chính thức trở thành thành
viên thứ 143 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế của Trung Quốc không ngừng được cải thiện. Tăng trưởng GDP năm 2004
đạt 9,5%. GDP bình quân đầu người đạt 1.200 USD. Dự trữ ngoại tệ luôn đứng
ở những thứ hạng cao trên trường quốc tế v.v… Về khoa học kỹ thuật, Trung
Quốc liên tục cho ra đời những phát minh, sáng chế có giá trị thực tiễn cao.
Mới đây, Trung Quốc đã trở thành quốc gia thứ ba trên thế giới phóng thành
công con tàu vũ trụ có người lái Thần châu 5 v.v… Đây quả là niềm tự hào của
cả dân tộc Trung Hoa.
Để có được thành tựu rực rỡ đó của ngày hôm nay, hẳn người dân Trung
Quốc không thể quên được những đóng góp xương máu của thế hệ cha anh
mình trong lịch sử. Quay trở lại với những trang sử hào hùng, chúng ta thấy
rằng, sự chuyển mình quan trọng của xã hội Trung Quốc cận đại không thể
tách rời vai trò tích cực của Tôn Trung Sơn. Cuộc cách mạng Tân Hợi do ông

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

2
lãnh đạo nổ ra năm 1911, mặc dù cách ngày nay gần một thế kỷ nhưng không
ai có thể quên được ý nghĩa to lớn của nó. Đó là bước chuyển mình quan
trọng của lịch sử Trung Quốc, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ phong kiến
quân chủ chuyên chế tồn tại mấy nghìn năm ở nước này; làm cho tư tưởng
cộng hoà ăn sâu, bắt rễ vào quần chúng; mở ra một kỷ nguyên mới cho cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ trên đất nước Trung Hoa. Hơn thế nữa, nó còn là

động lực thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở khu
vực châu á và trên toàn thế giới. Chính vì vậy, trong bài Châu á thức tỉnh,
Lênin đã gọi phong trào cách mạng nói chung và cuộc cách mạng Tân Hợi nói
riêng là “cơn bão táp cách mạng”.
Đường lối lý luận cơ bản làm nền tảng chỉ đạo thành công cuộc cách
mạng này chính là Chủ nghĩa Tam dân. Chủ nghĩa Tam dân là một học thuyết
cách mạng chân chính được Tôn Trung Sơn xây dựng trên sự hiểu biết sâu
rộng cùng với kinh nghiệm cách mạng phong phú của ông. Chủ nghĩa Tam
dân bao gồm ba nội dung lớn là Chủ nghĩa Dân tộc, Chủ nghĩa Dân quyền và
Chủ nghĩa Dân sinh. Mục tiêu của nó là kêu gọi nhân dân cả nước tích cực
đấu tranh nhằm giành độc lập dân tộc, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Đây chính là kim chỉ nam dẫn dắt cuộc cách mạng thay đổi số phận dân tộc
của nhân dân Trung Quốc đầu thế kỷ XX; đồng thời cũng là những kinh
nghiệm cách mạng vô cùng giá trị để các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn
thế giới thời kỳ đó tham khảo, học hỏi. Một điều quan trọng hơn là cho đến
này, những lý luận về Hiến pháp Ngũ quyền, phân biệt giữa quyền và năng,
phát triển tư bản nhà nước… trong hệ thống lý luận của Tôn Trung Sơn trước
đây vẫn được các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc tham khảo
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và thể chế kinh tế thị
trường XHCN đặc sắc Trung Quốc.

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

3
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có rất nhiều điểm
tương đồng về văn hóa, lịch sử. Cuối thế kỷ XIX, dưới sự đô hộ của thực
dân Pháp, Việt Nam cũng trở thành một nước phong kiến nửa thuộc địa.

Chính vì vậy, đầu thế kỷ XX, một số chí sĩ yêu nước Việt Nam trong quá
trình đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc đã thấy được nhiều điều mới
mẻ, phù hợp với hoàn cảnh nước mình trong tư tưởng cách mạng của Tôn
Trung Sơn. Họ đã tiếp thu, học hỏi nhiều kinh nghiệm bổ ích trong Chủ
nghĩa Tam dân để bổ sung cho hệ tư tưởng cách mạng của mình, mà tiêu
biểu là Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh.
Vì những giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại to lớn của cuộc Cách mạng
Tân Hợi cũng như Chủ nghĩa Tam dân, được sự động viên và giúp đỡ nhiệt
tình của TS. Đỗ Tiến Sâm, tôi đã mạnh dạn lựa chọn việc tìm hiểu về Chủ
nghĩa Tam dân Tôn Trung Sơn và vai trò lịch sử của nó làm nội dung chính
cho đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua 87 tài liệu mà chúng tôi sưu tầm được, trong đó có 45 tài liệu bằng
tiếng Việt, 36 tài liệu được công bố tại Trung Quốc, 6 tài liệu được công bố tại
Đài Loan cùng một số tư liệu trên mạng Internet, có thể cơ bản khái quát tình
hình nghiên cứu về Tôn Trung Sơn cũng như những vấn đề có liên quan như
sau:
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Việc nghiên cứu về Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân ở Việt
Nam đã được bắt đầu từ rất sớm, chủ yếu tập trung ở một số khía cạnh sau:
- Giới thiệu sơ lược về cuộc đời và tư tưởng (bao gồm tư tưởng cách
mạng và tư tưởng triết học) của Tôn Trung Sơn.

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

4
- Phân tích và đánh giá từng vấn đề cụ thể trong Chủ nghĩa Tam dân của

Tôn Trung Sơn.
- Phân tích mối quan hệ giữa Tôn Trung Sơn và cách mạng Trung Quốc
với cách mạng Việt Nam.
Về việc giới thiệu sơ lược cuộc đời và tư tưởng của Tôn Trung Sơn, ngay
từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước, ở Việt Nam đã xuất hiện một số tác
phẩm như Tiểu sử và học thuyết Tôn Dật Tiên [2], Học thuyết và đời cách
mạng của Tôn Dật Tiên [1], Đời cách mạng và chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Dật Tiên [38]… Đến năm 1963, nhà xuất bản Sự thật cho ra đời cuốn sách Tư
tưởng triết học của Tôn Trung Sơn [7]. Tất cả các tác phẩm này đều trình bày
vắn tắt về cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn, tư tưởng triết
học và đặc biệt là tư tưởng cách mạng của ông.
Bên cạnh những tác phẩm kể trên, vào những năm 90 của thế kỷ XX,
các học giả Việt Nam còn cho ra đời một số công trình viết về Chủ nghĩa
Tam dân như Tôn Trung Sơn với chủ nghĩa Tam dân nhìn từ dòng chảy lịch
sử của PGS. Nguyễn Văn Hồng [13], Chủ nghĩa Tam dân và vị trí lịch sử
trọng đại của nó của Nguyễn Anh Thái [33] và bài lược thuật Chủ nghĩa
Tam dân của tác giả Nguyễn Liên Hương [14] v.v… Những bài viết trên
đều phân tích khái quát nội dung chính của Chủ nghĩa Tam dân gồm 3 chủ
nghĩa lớn: Chủ nghĩa Dân tộc, Chủ nghĩa Dân quyền và Chủ nghĩa Dân
sinh. Cuối cùng, các tác giả đều khẳng định rằng, Chủ nghĩa Tam dân có ý
nghĩa lịch sử vô cùng to lớn đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở
Trung Quốc đầu thế kỷ XX.
Song, nghiên cứu về Chủ nghĩa Tam dân ở Việt Nam, quan trọng nhất
phải kể đến cuốn sách Chủ nghĩa Tam dân [41]. Cuốn sách này là bản dịch
nguyên văn toàn bộ 16 bài giảng của Tôn Trung Sơn về Chủ nghĩa Dân tộc,

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên


5
Chủ nghĩa Dân quyền, Chủ nghĩa Dân sinh từ ngày 27 - 1 - 1924 đến ngày 24
- 8 - 1924. Tác phẩm được dịch ra tiếng Việt từ cuốn Chủ nghĩa Tam dân của
Tôn Văn, do Trung tâm phát hành văn vật Trung ương, Đài Bắc xuất bản năm
1990. Đây là một tác phẩm rất quan trọng đối với những người nghiên cứu về
Tôn Trung Sơn nói chung và Chủ nghĩa Tam dân của ông nói riêng ở Việt
Nam. Tuy nhiên, nó cũng chỉ dừng lại ở việc ghi lại nội dung Chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn qua các bài giảng của ông, chứ không đề cập đến việc
phân tích, đánh giá về chủ nghĩa này.
Về việc phân tích và đánh giá từng vấn đề cụ thể trong Chủ nghĩa Tam
dân của Tôn Trung Sơn, năm 2001, nhân kỷ niệm 90 năm Cách mạng Tân
Hợi, Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc, thuộc Trung tâm Khoa học xã hội
và nhân văn quốc gia (nay là Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam) đã tổ chức một cuộc Hội thảo khoa học với chủ đề Cách
mạng Tân Hợi 90 năm sau nhìn lại (1911 - 2001) [44]. Nội dung của cuộc
Hội thảo này chủ yếu xoay quanh việc đánh giá về Cách mạng Tân Hợi, về
Chủ nghĩa Tam dân cùng những đóng góp của nó đối với lịch sử Trung
Quốc. Tiêu biểu có các bài tham luận như Mấy vấn đề về vị trí lịch sử của
cách mạng Tân Hợi và ý nghĩa lịch sử của chủ nghĩa Tam dân của PGS.
Nguyễn Huy Quý, Nhận thức về ý nghĩa lịch sử tư tưởng cách mạng Tân
Hợi 1911 của PGS. Nguyễn Văn Hồng, Chủ nghĩa Dân quyền của Tôn
Trung Sơn trong tiến trình cận đại hóa Trung Quốc của NCV. Đào Duy Đạt,
Chủ nghĩa Dân sinh của Trung Quốc với công cuộc xây dựng kinh tế - xã
hội ở Trung Quốc hiện nay của TS. Phùng Thị Huệ v.v… Ngoài các bài
tham luận kể trên, trên các tạp chí nghiên cứu khoa học cũng có một số bài
viết viết về vấn đề này. Bài Tìm hiểu Chủ nghĩa Dân quyền của Tôn Trung
Sơn của PGS. Nguyễn Huy Quý [29] phân tích những nội dung chính của
Chủ nghĩa Dân quyền như: Hiến pháp Ngũ quyền, trình tự thực hiện dân chủ


Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

6
v.v… Sau đó, tác giả khẳng định, vào thời điểm bấy giờ, Chủ nghĩa Dân
quyền của Tôn Trung Sơn là quan điểm tương đối tiến bộ và phù hợp với
tình hình xã hội Trung Quốc cận đại. Bài Tư tưởng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của Tôn Trung Sơn của TS. Nguyễn Thế Tăng [32] lại nói về tư
tưởng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Tôn Trung Sơn cũng như những
đóng góp của nó đối với công cuộc xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Trung Quốc.
Về việc phân tích mối quan hệ giữa Tôn Trung Sơn và cách mạng Trung
Quốc với cách mạng Việt Nam, có một số bài viết tiêu biểu như: Chủ tịch Hồ
Chí Minh với chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn của TS. Đỗ Tiến Sâm,
đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Cách mạng Tân Hợi 90 năm sau nhìn lại (1911
- 2001) [44], Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Tam dân [40] của tác giả Đặng
Thanh Tịnh. Hai bài viết này đều đề cập đến mối quan hệ giữa Tôn Trung Sơn
với Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như những ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn
trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng cách mạng của Người. PGS.
Chương Thâu với một loạt bài như Mối quan hệ giữa Tôn Trung Sơn và cách
mạng Tân Hợi Trung Quốc với Phan Bội Châu và cách mạng Việt Nam đầu
thế kỷ XX [37], ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc đối với sự chuyển biến
của tư tưởng Phan Bội Châu [35], Mối quan hệ giữa Tôn Trung Sơn với cách
mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX [36] lại đi sâu phân tích mối quan hệ giữa Tôn
Trung Sơn với các chí sĩ cách mạng yêu nước của Việt Nam trong giai đoạn
đầu thế kỷ XX, tiêu biểu nhất là Phan Bội Châu. Từ đó, tác giả nhận định, tư
tưởng của Tôn Trung Sơn có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành tư
tưởng cách mạng của một số nhà tư sản yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ trước.

Ngoài những công trình quan trọng kể trên thì tại khoa Lịch sử và khoa
Đông Phương học, thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội cũng có các công trình nghiên cứu về từng vấn đề cụ thể

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

7
trong Chủ nghĩa Tam dân do các sinh viên Đại học đảm nhận. Ví dụ Nhận
thức về lịch sử Chủ nghĩa Dân tộc của Tôn Trung Sơn trong Chủ nghĩa Tam
dân (Luận văn Đại học của sinh viên Nguyễn Thị Phương Lan), Chủ nghĩa
Dân sinh của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa hiện đại của nó (Luận văn Đại học
của sinh viên Nguyễn Thị Thắng) v.v…
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc đại lục và lãnh thổ Đài Loan
ở Trung Quốc đại lục và lãnh thổ Đài Loan, ngay từ những thập niên 80,
90 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu về Tôn Trung Sơn, về tư tưởng của ông và
những vấn đề có liên quan đã rất được chú ý đầu tư. Phần lớn các trường đại
học lớn đều có sở nghiên cứu Tôn Trung Sơn, chuyên nghiên cứu về thân thế,
sự nghiệp cũng như tư tưởng cách mạng, tư tưởng triết học của ông. Nhiều ấn
phẩm sách báo nghiên cứu vấn đề này đã được xuất bản.
ở Trung Quốc đại lục, hầu hết các công trình nghiên cứu đều chú trọng
vào việc tìm hiểu những ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn, của Chủ nghĩa Tam
dân, của Cách mạng Tân Hợi đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở
Trung Quốc đầu thế kỷ XX. Cuốn Chủ nghĩa Tam dân với chính trị Trung
Quốc của tác giả Hạ Uyên [53] đã phân tích một cách sâu sắc, toàn diện nội
dung Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn; đồng thời kết hợp với tình hình
chính trị Trung Quốc thời kỳ cách mạng dân chủ, tìm hiểu và nghiên cứu quá
trình hình thành, phát triển của Chủ nghĩa Tam dân, cũng như việc lý giải lại

Chủ nghĩa Tam dân của các đảng phái chính trị dựa trên lập trường quan điểm
của mỗi phái sau khi Tôn Trung Sơn qua đời. Lý giải về vai trò của Tôn
Trung Sơn đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc có Tôn Trung Sơn với
cách mạng Tân Hợi của Kim Xung Cấp [57], Tôn Trung Sơn với cách mạng
dân quốc Trung Quốc của Lưu Man Dung [63]. Trong hai tác phẩm nêu trên,
các tác giả đã phân tích rất tỉ mỉ những đóng góp của Tôn Trung Sơn đối với

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

8
cuộc cách mạng Tân Hợi. Theo họ, Tôn Trung Sơn chính là linh hồn của cuộc
cách mạng này. Phân tích ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với sự thức tỉnh
ý thức dân tộc và tư tưởng chấn hưng Trung Hoa có một số công trình tiêu
biểu của tác giả Lâm Gia Hữu Tôn Trung Sơn và sự thức tỉnh của Trung Quốc
cận đại [61], Nghiên cứu tư tưởng chấn hưng Trung Hoa của Tôn Trung Sơn
[60]…
Tuy nhiên, ngay từ năm 1962, nhà xuất bản Nhân dân Bắc Kinh đã cho
xuất bản bộ sách Tôn Trung Sơn tuyển tập [66] gồm hai tập thượng và hạ.
Trong cuốn hạ, Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn được trình bày rất rõ
ràng, cụ thể với ba nội dung lớn là Chủ nghĩa Dân tộc, Chủ nghĩa Dân quyền
và Chủ nghĩa Dân sinh. Còn trong cuốn thượng, một số bài phát biểu của Tôn
Trung Sơn nêu lên vai trò to lớn của Chủ nghĩa Tam dân đối với dân tộc
Trung Hoa cũng được đăng tải như Chủ nghĩa Tam dân và tiền đồ của Trung
Quốc, Thực hiện Chủ nghĩa Tam dân để cải tạo đất nước, ý nghĩa của việc đề
xướng Chủ nghĩa Dân sinh v.v…
Ngoài những vấn đề nêu trên, một số học giả Trung Quốc còn tìm hiểu
về mối quan hệ giữa cuộc cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo với các

vùng trong cả nước, với bà con Hoa kiều và với một số nước trên thế giới như
Tôn Trung Sơn với Quảng Đông [50], Tôn Trung Sơn với Hoa Kiều [79], Tôn
Trung Sơn với Nhật Bản [58], Cuộc cách mạng của Tôn Trung Sơn với nước
Mỹ [52], Tôn Trung Sơn với Việt Nam [55] v.v…
ở Đài Loan, trước năm 2000, hoạt động nghiên cứu về Tôn Trung Sơn
cũng diễn ra rất sôi nổi, song hầu hết các công trình đều chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn và ảnh hưởng của nó đối
với công cuộc phát triển đất nước ở Đài Loan. Tiêu biểu có thể kể đến một số
tác phẩm như Chủ nghĩa Tam dân của Tam dân thư cục [83], Luận bàn mới

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

9
về tư tưởng Tôn Trung Sơn của hai tác giả Chu Thế Phụ và Chu Dương Sơn
[87], Tư tưởng Quốc phụ của Cung Hạ [82], Tư tưởng Quốc phụ của Từ
Quang Minh [85]v.v… Các tác phẩm này đều trình bày một cách toàn diện và
cụ thể về Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn nhưng không đi sâu phân
tích, đánh giá chủ nghĩa này. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện
nay, việc nghiên cứu về Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân của ông ở Đài
Loan đã có phần chững lại, bởi theo lý luận của các nhà nghiên cứu, những
luận điểm mà Tôn Trung Sơn đưa ra trong Chủ nghĩa Tam dân, đặc biệt là
Chủ nghĩa Dân sinh, cho đến nay đã được Đài Loan vận dụng thành công. Đó
chính là một trong những nhân tố khiến cho lãnh thổ Đài Loan có những bước
phát triển thần kỳ và trở thành một trong bốn con rồng châu á vào những thập
niên cuối thế kỷ XX.
2.3. Tình hình nghiên cứu về Tôn Trung Sơn ở phương Tây
Do điều kiện và trình độ ngoại ngữ hạn chế nên chúng tôi không có cơ

hội tiếp xúc rộng rãi với nguồn tư liệu nghiên cứu về Tôn Trung Sơn của các
nước phương Tây. Nhưng qua một số công trình mà chúng tôi sưu tầm được
từ mục lục những công trình nghiên cứu về Tôn Trung Sơn ở nước ngoài như:
Sun Yat-sen and the Origins of the Chinese Revolution của Schinffrin, Havold
Z. (Berkeley: University of California Press, 1968), Sun Yat-sen: Founder
and Symbol of China‟s Revolutionary Nation-Building của Kindermann,
Gottfried-Karl (Munchen: Olzog, 1982); Sun Yat-sen‟s Doctrine in the
Modern World của Cheng, Chu-Yuan (London: Westview Press, 1989), Sun
Yat-sen & The Chinese Republic của Linebarger, Paul (New York: AMS
Press, 1969, Sun Yat-sen của Bruce, R (London: Oxford University Press,
1969) v.v…, có thể khẳng định rằng, các học giả phương Tây cũng rất quan
tâm đến việc nghiên cứu về Tôn Trung Sơn cùng những đóng góp của ông đối

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

10
với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc ở Trung Quốc nói riêng và ở tất
cả các nước thuộc địa trên thế giới nói chung trong thời kỳ cận đại.
Từ việc điểm qua tình hình nghiên cứu về Tôn Trung Sơn và những
ảnh hưởng của ông đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, về đại thể,
chúng tôi tạm chia việc nghiên cứu về chủ đề này thành ba mảng lớn sau:
- Nghiên cứu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn và
những ảnh hưởng của ông đối với phong trào giải phóng dân tộc ở Trung
Quốc đầu thế kỷ XX.
- Nghiên cứu về Chủ nghĩa Tam dân và Cách mạng Tân Hợi cùng những
ảnh hưởng của nó đối sự thức tỉnh của Trung Quốc cận đại.
- Nghiên cứu về ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn và cuộc cách mạng dân

tộc dân chủ do ông lãnh đạo với phong trào cách mạng các nước.
Như vậy, nhìn vào lịch sử vấn đề, có thể nhận thấy, các công trình
nghiên cứu về Tôn Trung Sơn tuy rất phong phú, đa dạng, nhưng hầu hết
còn chưa đi sâu phân tích cụ thể và toàn diện đối với Chủ nghĩa Tam
dân, đặc biệt là ở Việt Nam. Do vậy, theo chúng tôi, việc đưa ra một
công trình phân tích tổng hợp nội dung và ý nghĩa của Chủ nghĩa Tam
dân cùng những ảnh hưởng của nó đối với cách mạng Việt Nam đầu thế
kỷ XX là điều cần thiết.
Vì những lý do trên, nhân dịp kỷ niệm tròn 100 năm ngày ra đời của Chủ
nghĩa Tam dân, 80 năm ngày mất của Tôn Trung Sơn, chúng tôi hy vọng có
thể đưa ra được những luận điểm có ý nghĩa khoa học thông qua luận văn Cao
học của mình, góp phần vào việc nghiên cứu Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa
Tam dân ở Việt Nam, giúp cho những người thích tìm hiểu về Chủ nghĩa Tam
dân có được cái nhìn bao quát hơn, toàn diện hơn về học thuyết cách mạng vĩ

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

11
đại này cũng như những ảnh hưởng của nó đối với phong trào giải phóng dân
tộc của nhân dân ta đầu thế kỷ XX.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, vai
trò lịch sử của nó đối với Trung Quốc và những ảnh hưởng đối với cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Ngoài việc phân tích những nội dung chính của Chủ nghĩa Tam dân
là Chủ nghĩa Dân tộc, Chủ nghĩa Dân quyền và Chủ nghĩa Dân sinh, luận

văn còn tìm hiểu bối cảnh lịch sử tác động đến quá trình hình thành tư
tưởng của Tôn Trung Sơn nhằm có được một cái nhìn toàn diện hơn về
chủ nghĩa này. Sau đó, trong phần chương 3, tác giả sẽ nêu lên ý nghĩa
của Chủ nghĩa Tam dân cùng những tác động của nó đến sự hình thành
và phát triển tư tưởng cách mạng của một số chí sĩ yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX.
4. Đóng góp của luận văn
- Khái quát bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành tư tưởng cách mạng
của Tôn Trung Sơn.
- Phân tích toàn diện và cụ thể về Chủ nghĩa Dân tộc, Chủ nghĩa dân
quyền và Chủ nghĩa Dân sinh trong chủ nghĩa Tam dân.
- Nêu lên những ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân
đối với cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
- Bổ sung thêm cho nguồn tư liệu nghiên cứu về Chủ nghĩa Tam dân
ở Việt Nam.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

12
5.1. Nguồn tư liệu
Luận văn đã sử dụng một nguồn tư liệu tương đối đa dạng bao gồm các
ấn phẩm sách, báo, tạp chí bằng tiếng Trung và tiếng Việt xuất bản trong và
ngoài nước; các tập kỷ yếu hội thảo; các trang web và một số luận văn, luận
án nghiên cứu khoa học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp

nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, đối chiếu so sánh
và biên niên sự kiện theo chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận án chia làm 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh lịch sử với việc hình thành tư tưởng cách mạng của
Tôn Trung Sơn.
Chương 2: Chủ nghĩa Tam dân - Một học thuyết cách mạng.
Chương 3: ý nghĩa lịch sử của Chủ nghĩa Tam dân và những ảnh hưởng
của nó đối với cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.










Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

13
Chương 1
Bối cảnh lịch sử với việc hình thành
tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn
Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh ra đời sớm nhất và

phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, đến thời kỳ cận đại,
Trung Quốc dần dần trở nên lạc hậu trước sự phát triển nhanh như vũ bão của
văn minh phương Tây sau cuộc cách mạng công nghiệp. Cuối cùng, đất nước
này đã trở thành miếng mồi ngon cho sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân
vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Sinh ra và lớn lên vào thời điểm xã hội Trung Quốc cận đại bước vào
giai đoạn suy thoái nghiêm trọng, Tôn Trung Sơn nhận thức rất rõ vấn đề dân
tộc ở đất nước mình. Bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước lúc đó chính là
những tiền đề quan trọng dẫn đến sự hình thành tư tưởng cách mạng của ông.
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Sau một thời gian dài trì trệ dưới sự thống trị của các thế lực tôn giáo,
đầu thế kỷ XV, phương Tây bắt đầu bừng tỉnh và vươn dậy sau giấc ngủ dài.
Sự vươn dậy này được thể hiện ở những thay đổi to lớn về kinh tế như: nền
kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển mạnh mẽ; quan hệ tư bản chủ nghĩa vốn
đã có mầm mống từ trước đến lúc này phát triển lan rộng ra khắp Tây Âu, dẫn
đến sự ra đời của hai giai cấp mới là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Cùng
với kinh tế, khoa học kỹ thuật cũng có những bước phát triển vượt bậc, đặc
biệt là kỹ thuật đóng tàu và hàng hải… Tất cả những thay đổi này đã giúp cho
việc chinh phục những vùng đất mới và mở mang thị trường của tư bản
phương Tây ngày càng thuận lợi.

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

14
Năm 1642, cuộc cách mạng tư sản Anh bùng nổ, đánh dấu sự kết thúc
của thời kỳ trung đại, mở đầu cho thời kỳ cận đại ở châu Âu. Tiếp sau đó,

cuộc cách mạng công nghiệp cũng xuất hiện ở Hà Lan, Đức, Pháp… trong
suốt thế kỷ XVII, XVIII và XIX.
Bên cạnh sự phát triển vượt bậc về kinh tế và khoa học kỹ thuật, thời kỳ
cận đại còn đánh dấu sự xuất hiện của các trào lưu tư tưởng về quyền con
người và quyền công dân; các học thuyết về thể chế chính trị và quyền tự do
dân chủ… Những sự kiện này không những có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với
sự chuyển mình của phương Tây, mà nó còn đóng góp tích cực cho sự phát
triển của lịch sử nhân loại thời kỳ cận đại.
Đến đầu thế kỷ XX, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đạt đến cực điểm.
Chủ nghĩa dân chủ trên phạm vi toàn thế giới bắt đầu xuất hiện trong lòng xã
hội tư bản. Không những Pháp, Mỹ, Anh, Đức đã xây dựng chính thể lập
hiến, mà các quốc gia như Nga, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đang tiến
hành cuộc đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế, giành dân chủ. Về mặt
chính trị, điều này thể hiện ở tư tưởng “dân chủ ở dân” và chế độ cộng hoà nghị
viện của giai cấp tư sản.
Cùng với sự trưởng thành của chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản
trên thế giới cũng trưởng thành và lớn mạnh. Năm 1848, Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Mác. Đây là một sự kiện quan
trọng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, báo hiệu trước những thay
đổi quan trọng về cán cân lực lượng của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trên
vũ đài chính trị thế giới. Việc thành lập Quốc tế thứ nhất và phong trào chủ
nghĩa cộng sản phát triển mạnh mẽ đã hình thành nên một luồng gió mới, tấn
công vào chế độ tư bản. Điểm tiêu cực của xã hội tư bản phương Tây là:
không thể điều hoà quan hệ lao động, công nhân chịu áp bức bóc lột, sự bất

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên


15
bình đẳng rất lớn về kinh tế v.v… Điều này cũng có nghĩa là, đi theo con
đường của chủ nghĩa tư bản thì không thể đến được với một xã hội tươi đẹp
mà ở đó, người với người bình đẳng với nhau, cùng nhau hưởng một cuộc
sống ấm no, thanh bình - một xã hội được các nhà chủ nghĩa Mác gọi là xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Vậy thì làm thế nào để xây dựng được chế độ xã hội
lý tưởng đó? Đây là điều khiến nhiều nhà cách mạng dân chủ trên toàn thế
giới phải trăn trở. Tôn Trung Sơn cũng không nằm ngoài số đó.
1.1.2. Tình hình trong nước
Như đã trình bày ở trên, Trung Quốc vốn là mảnh đất sản sinh ra một
trong bốn cái nôi văn minh nhân loại: văn minh Trung Hoa. Trong nhiều thế
kỷ, khi cả phương Tây còn đang chìm trong “đêm trường trung cổ”, nền văn
minh này với thành tựu phát triển rực rỡ về khoa học kỹ thuật, văn học nghệ
thuật, và đặc biệt là các trường phái tư tưởng v.v… đã trở nên nổi bật hơn bao
giờ hết ở phương Đông, có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của nền văn
minh loài người.
Tuy nhiên, bước vào thời kỳ cận đại, do tư tưởng bảo thủ mang tính cố
hữu tự cho mình là trung tâm của vũ trụ, không chịu vận động phát triển đi
lên, Trung Quốc đã mất đi sự hưng thịnh. Hậu quả là đến giữa thế kỷ XIX, đất
nước đã bị các cường quốc thực dân nhảy vào xâu xé.
Tôn Trung Sơn sinh ra và lớn lên khi xã hội Trung Quốc có nhiều biến
động phức tạp: chính quyền phong kiến Mãn Thanh mục ruỗng, bất lực trước
sự tấn công của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Trung Quốc không những phải
mở cửa mà còn phải cắt đất và bồi thường chiến phí cho các nước đế quốc.
Đất nước Trung Quốc bị “chia năm xẻ bảy”. Thất bại trong cuộc Chiến tranh
Trung - Nhật (1894 - 1895) buộc Chính phủ Mãn Thanh phải ký Điều ước Mã
Quan, công nhận cho các nước đế quốc được quyền xây dựng công xưởng,

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử



Chu Thùy Liên

16
đường sắt, được quyền khai mỏ ở Trung Quốc. Dựa vào hiệp ước này, các
nước đế quốc điên cuồng xâu xé Trung Quốc, tranh giành nhau “phạm vi thế
lực” khiến Trung Quốc đứng trước nguy cơ mất nước nghiêm trọng. Sau thất
bại của phong trào nông dân Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900, triều đình Mãn
Thanh lại ký hiệp ước Tân Sửu, tạo điều kiện cho các nước đế quốc tăng
cường xâm lược Trung Quốc. Từ đó, Thanh triều biến thành tay sai cho chủ
nghĩa đế quốc. Thái độ phản động của nhà Thanh khiến nhân dân Trung Quốc
vô cùng căm phẫn. Họ thấy rằng, muốn cứu đất nước thì không còn con
đường nào khác ngoài lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế mục ruỗng từ lâu đã
không còn đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lịch sử.
Đứng trước nỗi thống khổ của nhân dân, trước vận mệnh nguy nan của
dân tộc, ngay từ sau cuộc Chiến tranh Nha Phiến (1840 - 1842), làn sóng khởi
nghĩa nông dân đã dâng lên thành cao trào ở Trung Quốc. Mở đầu là phong
trào khởi nghĩa nông dân Thái Bình Thiên Quốc (1851 - 1864). Cuộc khởi
nghĩa này là hệ quả tất yếu nảy sinh từ chính sách nô dịch tàn bạo của chủ
nghĩa đế quốc thực dân và sự mục nát của Thanh triều.
Năm 1851, Thái Bình Thiên Quốc nổ ra dưới sự lãnh đạo của Hồng Tú
Toàn - một đại biểu của giai cấp nông dân. Đây là phong trào khởi nghĩa nông
dân lớn nhất từ trước đến nay ở Trung Quốc. Nó kéo dài trong 14 năm và khí
thế cách mạng lan rộng khắp 18 tỉnh trong cả nước. Cương lĩnh đấu tranh của
cuộc khởi nghĩa có nguồn gốc từ chủ nghĩa bình đẳng của Cơ Đốc giáo.
Năm 1853, sau khi giành được thắng lợi, tiến vào Nam Kinh xây dựng
chính quyền, những người lãnh đạo của Thái Bình Thiên Quốc đã xây dựng
một chế độ nhà nước mới với một loạt cương lĩnh về chính trị, kinh tế, văn
hóa mà trong đó, có ý nghĩa quan trọng nhất là chế độ ruộng đất Thiên triều.


Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

17
Có thể nói, đây là cương lĩnh cơ bản nhất của nhà nước Thái Bình Thiên
Quốc.
Nội dung căn bản nhất của chế độ ruộng đất của Thái Bình Thiên Quốc
quy định: toàn bộ tài sản đất đai đều thuộc về Thượng đế. Mục tiêu của nó là
xóa bỏ chế độ tư hữu ruộng đất phong kiến, xây dựng một xã hội công bằng,
mọi người đều bình đẳng trước Thượng đế. Đề ra cương lĩnh trên, Hồng Tú
Toàn ấp ủ một hoài bão lớn lao về một xã hội đại đồng, nơi mà ở đó “tất cả
mọi người đều có ruộng đất để cày, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặc, có tiền
cùng tiêu, không có nơi nào là không đồng đều, không ai là không no ấm”
[26, 333]. Cương lĩnh ruộng đất Thiên triều mong muốn đem đến cho quảng
đại quần chúng nguồn tư liệu sản xuất, với hy vọng giải quyết vấn đề đời sống
ăn mặc cho họ. Đối với nông dân, ruộng đất là vấn đề sống còn, là tư liệu sản
xuất đáng giá để tạo ra của cải vật chất. Trong bối cảnh mà người nông dân
đang bị áp bức, chèn ép, trong tay không có tư liệu sản xuất thì chính sách này
có tác dụng cổ vũ và lôi cuốn lòng nhiệt tình cách mạng của đông đảo quần
chúng. Vì vậy, có thể nói, “bình quân địa quyền” là một tư tưởng tiến bộ tại
thời điểm lịch sử đó. Tư tưởng này về sau có tác động rất lớn đến quá trình
hình thành cương lĩnh cách mạng của Tôn Trung Sơn - người đem lại cho dân
tộc Trung Hoa nền cộng hòa trong thời kỳ cận đại.
Tuy nhiên, phong trào nông dân có tính chất tiến bộ của Hồng Tú Toàn
cuối cùng cũng bị thất bại. Một trong những nguyên nhân lớn nhất là do
phong trào chưa đủ sức lớn mạnh để giải quyết triệt để vấn đề dân sinh - một
vấn đề cấp bách nhất trong xã hội Trung Quốc thời kỳ cận đại. Và “một xã
hội lý tưởng mà những người lãnh đạo Thái Bình Thiên Quốc phác họa theo

trí tưởng tượng của mình thực ra chỉ là một bức tranh không tưởng, không thể
nào thực hiện được” [26, 334]. Chế độ ruộng đất Thiên triều chỉ là sự phản
ánh tư tưởng tiểu nông bình quân chủ nghĩa. Bước đầu nó thỏa mãn một số

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

18
yêu cầu về đất đai điền thổ cho nhân dân. Nhưng xét đến cùng, những quy tắc
nó đặt ra lại đi ngược với quy luật khách quan nên hiển nhiên khó có thể tồn
tại lâu dài được. Mặt khác, sự bình quân tuyệt đối về tài sản không thể thực
hiện được trên cơ sở một nền sản xuất cá thể lạc hậu, do vậy nhiều điểm trong
chế độ ruộng đất Thiên triều trên thực tế chỉ là những lý thuyết bất khả thi.
Phải có một cơ sở vật chất nhất định mới có thể xây dựng được một xã hội
thái bình như họ mong muốn. Nhưng phong trào Thái Bình Thiên Quốc đã
không làm được điều này. Khi giành được quyền lực trong tay, họ lại chỉ để ý
đến việc củng cố địa vị và thế lực của mình. Vô hình chung, họ đã đi đúng
theo cách giai cấp phong kiến trước đây đã làm là thay thế một triều đại này
bằng một triều đại khác chứ không phải là thay đổi bản chất xã hội. Như vậy,
họ chẳng những không đem lại cho nhân dân một đời sống mới mà còn làm
cho tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc hơn, của cải ngày càng
tập trung hơn, đời sống nhân dân rơi vào cuộc khủng hoảng mới. Trên thực tế,
Thái Bình Thiên Quốc chưa tìm ra một hệ tư tưởng thực sự phù hợp với bối
cảnh lịch sử lúc bấy giờ để có thể cải biến xã hội. Chính vì vậy, họ đã thất bại.
Tuy thất bại, nhưng phong trào Thái Bình Thiên Quốc có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với lịch sử Trung Quốc trong thời kỳ cận đại. Phong trào này đã
giáng một đòn chí mạng vào chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở
Trung Quốc, tạo tiền đề cho sự sụp đổ của nó vào đầu thế kỷ XX. Và Thái Bình

Thiên Quốc chính là lời tuyên bố: Chủ nghĩa phong kiến đã quá lỗi thời, lịch sử
đang cần có một sự thay đổi. Đồng thời, nó cũng cho bọn đế quốc một bài học
thích đáng về sức mạnh quật khởi của quần chúng nhân dân. Những bài học
kinh nghiệm quý báu mà Thái Bình Thiên Quốc để lại đã tác động mạnh mẽ
đến quá trình hình thành tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn sau này.
Phong trào Thái Bình Thiên Quốc thất bại khiến cho tầng lớp nông dân
lao khổ cảm thấy dường như họ không còn con đường nào khác để tự cứu

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

19
thoát dân tộc nữa. Giữa lúc đó, một trào lưu mới của tầng lớp tư sản dân tộc
non trẻ của Trung Quốc đã xuất hiện. Đó chính là phong trào Dương Vụ.
Phái Dương Vụ gồm một bộ phận quan lại phong kiến Hán tộc địa
phương. Họ mong muốn dựa vào phương Tây, học tập công thương nghiệp
của phương Tây để làm cho “phú quốc cường binh”. Họ đưa các thiết bị máy
móc của tư bản nước ngoài vào Trung Quốc, đặc biệt là các thiết bị chế tạo
máy, công cụ cơ khí nhằm góp phần thúc đẩy sự ra đời của giai cấp tư sản dân
tộc ở Trung Quốc, thiết lập cơ sở công nghiệp tiên tiến, đào tạo một đội ngũ
trí thức và công nhân công nghiệp lành nghề phục vụ cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Những người khởi xướng tiêu biểu cho phong trào này
có Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Đường v.v
Mục đích của phong trào Dương Vụ là canh tân đất nước, phát triển nền
công nghiệp, nhất là công nghiệp quân sự để chống lại sự xâm lược của đế
quốc. Do đó, nó có những đóng góp tích cực nhất định cho xã hội Trung Quốc
thời kỳ cận đại. Song, cũng như các phong trào trước đó, điểm hạn chế của
phong trào này chính là thái độ thờ ơ, xa rời lợi ích của quần chúng nhân dân.

Phái Dương Vụ lập xưởng đóng tàu, chế tạo vũ khí không chỉ để chống lại đế
quốc mà còn để đàn áp các phong trào đấu tranh khởi nghĩa của nhân dân.
Mục tiêu của phái này không phải là đảm bảo sinh mệnh cho hàng triệu con
người đói khổ, mà họ suy nghĩ đơn giản rằng, chỉ cần họ giàu có, có thế lực
mạnh thì sẽ có thể làm cho dân giàu nước mạnh. Họ không ý thức được, trên
thực tế, 90% dân số Trung Quốc lúc này vẫn là nông dân, trong tay hoàn toàn
không nắm tư liệu sản xuất, lại đang chìm trong cảnh nghèo đói triền miên.
Nhân dân bị bóc lột tàn bạo như vậy thì một nền công nghiệp non trẻ, vài nhà
máy chế tạo, đường ray xe lửa và tàu chiến làm sao có thể vực dậy cả một
quốc gia nghèo đói. Như vậy, vấn đề dân sinh cơ bản của người dân còn rất xa
vời, nói chi đến việc đưa Trung Quốc trở thành một đại cường quốc. Từ đó,

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

20
có thể thấy rằng, Chủ nghĩa Dân sinh của phái Dương Vụ thực chất chỉ là thứ
chủ nghĩa vị kỷ mà thôi. Vậy nên, sự thất bại của phái này là điều tất yếu.
Sau một loạt tổn thất nêu trên, cùng với sự chiến bại trong cuộc Chiến
tranh Trung - Nhật, Trung Quốc đứng trước nguy cơ mất nước nghiêm trọng.
Nguy cơ “vong quốc” đã kích động lòng yêu nước của cả dân tộc. Một số trí
thức phong kiến chịu ảnh hưởng tư tưởng tư sản, đại diện của giai cấp tư sản
dân tộc của Trung Quốc cũng bị cuốn vào dòng thác cách mạng này.
Sự thất bại của phong trào Dương Vụ khiến cho những người lo lắng cho
vận mệnh nhận thấy rằng, nếu chỉ tiến hành cải cách kinh tế và quân sự thì
chưa đủ. Xu hướng cải cách toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục để tiến lên giàu mạnh là khao khát của các nhân sĩ tư sản
dân tộc cấp tiến ở Trung Quốc thời đó. Có thể coi Khang Hữu Vi và Lương

Khải Siêu là những đại diện tiêu biểu nhất. Hai ông đã dấy một trào lưu tư
tưởng mới, tư tưởng duy tân (theo kiểu duy tân Minh Trị ở Nhật Bản).
Giá trị đầu tiên và rất lớn lao của Khang - Lương là các ông đã tuyên
chiến với tư tưởng duy Trung Quốc, “tụng niệm những câu vô bổ của thần
thánh”, phủ định tư tưởng Thiên bất biến, đạo diệc bất biến (Trời không đổi,
đạo cũng không đổi) của giai cấp thống trị, mở đường cho tư tưởng tiến bộ,
hiện đại tràn vào Trung Quốc. Tuy nhiên, cơ sở lý luận và quan điểm tiến hóa
của phái Duy Tân cũng rơi vào lập trường duy tâm nên tư tưởng biến pháp
của phái mang nặng tính chất cải lương, không thừa nhận biến pháp cách
mạng để thúc đẩy sự tiến hóa xã hội.
Phái Cải lương hy vọng dựa trên cơ sở chủ yếu của giai cấp phong kiến,
tiến hành thay đổi nền kinh tế, quân sự, văn hóa, giáo dục. Họ đề ra các khẩu
hiệu đấu tranh đòi xóa bỏ quyền lãnh sự tài phán, thu hồi tô giới, cấp tốc xây

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

21
dựng quân đội v.v Về kinh tế, họ chủ trương dĩ thương lập quốc, thượng công.
Đây là những nhận thức mới có tác dụng thúc đẩy xã hội Trung Quốc phát triển.
Nhưng tương tự như các phong trào đấu tranh cải cách đã từng nổ ra ở
Trung Quốc trước đó, vấn đề dân sinh chủ đạo của dân tộc là cơm ăn, áo mặc,
đời sống của nhân dân đã bị bỏ qua nên không thu hút được lực lượng cách
mạng quan trọng, đó chính là quần chúng nhân dân. Do vậy, ước muốn về xây
dựng một đất nước Trung Quốc giàu có, phồn vinh của phái tư sản cải lương
thể hiện trong cuộc Biến pháp Mậu Tuất cũng không thể trở thành sự thật. Họ
đã không nhận thức rõ được mâu thuẫn dân tộc lúc đó, không tìm ra nguyên
nhân làm cho Trung Quốc nghèo đói và lạc hậu, xa rời lực lượng quần chúng,

không bắt nguồn từ thực tế đời sống xã hội nên cuối cùng phong trào canh tân
đất nước do họ lãnh đạo cũng đã thất bại như các phong trào trước đó.
Thông qua việc phân tích sơ lược ba phong trào đấu tranh cải cách nói
trên, chúng ta có thể phần nào thấy được bối cảnh xã hội đầy rối ren, loạn
lạc của Trung Quốc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ba phong trào này là
những bước thử nghiệm táo bạo nhưng vô cùng quan trọng trong việc giải
quyết vấn đề độc lập của dân tộc Trung Hoa thời kỳ cận đại. Tuy nhiên, cả
ba phong trào đều bị phá sản do mục đích của nó xét cho đến cùng cũng chỉ
là nhằm phục vụ cho lợi ích của thiểu số trong tầng lớp trên, mà không đặt
vấn đề “nhân dân và đời sống nhân dân” làm mục tiêu cho đấu tranh. Chính
vì thế, việc cần phải xây dựng một hệ thống lý luận cách mạng tiến bộ chỉ
đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở Trung Quốc là đòi hỏi tất yếu
của lịch sử.
1.2. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn - người tiên phong vĩ
đại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ cận đại Trung Quốc

Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa lịch sử


Chu Thùy Liên

22
Tôn Trung Sơn sinh ngày 12 - 11 - 1866 trong một gia đình nông dân
nghèo tại thôn Thúy Hanh, huyện Hương Sơn (nay là thành phố Trung Sơn),
tỉnh Quảng Đông. Tên thật của ông là Tôn Văn, lúc nhỏ gọi là Đế Tượng, tự
là Đức Minh, hiệu là Nhật Tân, sau đổi là Dật Tiên. Năm 1897, khi bắt đầu
hoạt động cách mạng ở Nhật Bản, ông có bí danh là Trung Sơn Tiều, nhân đó
mà gọi là Tôn Trung Sơn.
Ngay từ thuở nhỏ, Tôn Trung Sơn đã phải lao động vất vả, vì thế ông
sớm hiểu được nỗi thống khổ của quần chúng nhân dân. Đến khi trưởng

thành, chịu ảnh hưởng của truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân
Quảng Đông quê hương ông, Tôn Trung Sơn quyết tâm hướng tới sự
nghiệp cách mạng mà phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc đã gây
dựng.
Năm 1879, Tôn Trung Sơn theo mẹ sang Hônôlulu (thuộc quần đảo
Hawai, Hoa Kỳ), nương nhờ người anh trai là Tôn Mi (còn gọi là Tôn
Đức Chương) - một tư sản Hoa kiều ở đây. Nhờ sự giúp đỡ của người
anh, Tôn Trung Sơn đã được học tập và tiếp thu nền giáo dục cận đại
phương Tây tương đối có hệ thống.
Sau một loạt những thất bại của Trung Quốc trong các cuộc Chiến
tranh Trung - Pháp (1884 - 1885), Chiến tranh Trung - Nhật (1894 -
1895), Tôn Trung Sơn nhận thức được sự hủ bại, hành vi chuyên chế và
hành động bán nước trắng trợn của triều đình Mãn Thanh. Từ đó, trong
ông bắt đầu nhen nhóm tư tưởng phản Thanh, lấy tư tưởng chính trị của
giai cấp tư sản để cải tạo Trung Quốc, nhằm cứu dân tộc thoát khỏi nguy
cơ diệt vong. Chính vì vậy, sau khi tốt nghiệp học viện Tây y Hồng
Kông, ông tới Ma Cao, Quảng Đông và một vài vùng đất khác, một mặt
hành nghề y, một mặt bí mật tổ chức hoạt động cách mạng.

×