ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
٭٭٭٭٭ ٭٭٭٭
PHAN THỊ THÙY DƯƠNG
QUAN NIỆM CỦA WILLIAM JAMES VỀ CHÂN LÝ
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
٭٭٭
PHAN THỊ THÙY DƯƠNG
QUAN NIỆM CỦA WILLIAM JAMES VỀ CHÂN LÝ
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 602280
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐẶNG HỮU TOÀN
HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 8
8. Kết cấu của luận văn 9
CHƯƠNG 1:WILLIAM JAMES TRONG TRÀO LƯU CHỦ NGHĨA THỰC
DỤNG 10
1.1. Cơ sở cho sự ra đời quan niệm của William James về chân lý 10
1.1.1. Bối cảnh xã hội Mỹ và sự ra đời chủ nghĩa thực dụng 10
1.1.2. Toàn cảnh chủ nghĩa thực dụng 15
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp của William James 26
1.2.1. Cuộc đời: 26
1.2.2. Sự nghiệp: 39
2
CHƯƠNG 2: CHÂN LÝ TRONG QUAN NIỆM CỦA WILLIAM JAMES
2.1. Một số nội dung căn bản trong quan niệm của William James về chân lý 47
2.1.1. Tổng quan 47
2.1.2. Định nghĩa chân lý 48
2.1.3. Bản chất chân lý 52
2.1.4. Tiêu chuẩn chân lý: 56
2.1.5. Con đường nhận thức chân lý 59
2.2. So sánh quan niệm của William James với một số quan niệm khác về chân lý
2.2.1. So sánh với quan niệm của triết học truyền thống 60
2.2.2. So sánh với quan niệm của Nít- sơ 62
2.2.3. So sánh với quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin 66
Kết luận chương 2 68
KẾT LUẬN 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử triết học, khái niệm “chân lý” có ý nghĩa rất quan trọng về
mặt nhận thức luận. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên nếu “chân lý” trở thành
vấn đề được quan tâm nghiên cứu xuyên suốt từ thời cổ đại cho đến nay. Mỗi
thời đại, mỗi trường phái, mỗi triết gia có cách nhìn khác nhau khi đi tìm câu trả
lời cho những câu hỏi liên quan như: chân lý là gì? tiêu chuẩn chân lý? bản chất
chân lý? làm thế nào để nhận thức được chân lý? Theo thời gian, có sự phủ định
biện chứng đối với quan niệm về chân lý và cho đến ngày nay vẫn chưa hết
những bàn cãi, những vấn đề đặt ra xung quanh việc trả lời những câu hỏi trên.
Việc đi tìm câu trả lời cho chúng luôn là mới mẻ và đáng khích lệ. William
James không là ngoại lệ.
Nhưng đọc William James, một tác giả thực dụng, nhiều người hẳn là
quan tâm hơn nếu không muốn nói là giành sự ưu ái cho quan niệm của ông về
chủ nghĩa thực dụng với tư cách là một phương pháp. Nhưng chúng ta cũng phải
thừa nhận với nhau rằng, đích hướng tới của phương pháp ấy là một cái gì hơn
thế, đó chính là chân lý- đích hướng tới của mọi nghiên cứu, mọi lý thuyết khoa
học. Và tất nhiên, tác giả của đề tài không thể bỏ qua ghi chú này.
Người ta có lẽ cũng đã nhắc nhiều về “điểm khởi đầu trong nghiên cứu”,
điều mà nhiều người đã bỏ qua vì vô tình hay cố ý nhưng thử hỏi nếu không bắt
đầu từ đó thì sự nghiên cứu đã trở nên rắm rối và không còn chút ý nghĩa nào
nữa. Tác giả của luận văn, một cách chân thật, đã bắt đầu đọc những trang đầu
tiên về William James không phải vì yêu thích, mà chỉ đơn giản là để trả bài thầy
giáo cách đây ba năm. Đọc như thế nào thì giải trình lại như thế, theo cách hiểu
2
của bản thân. Giờ đọc lại thấy dàn trải, thiếu kết cấu, thiếu lôgic trong sắp
xếp tất cả chỉ vì đã không biết bắt đầu như thế nào, trong nghiên cứu cũng thế
và trong trình bày cũng vậy, dẫu cho cái gọi là “điểm khởi đầu trong nghiên cứu”
đã có chút tìm hiểu nhưng chưa thấm để có thể vận dụng. Nhưng hình ảnh
William James, một triết gia thông minh và tận tụy khiến cho giờ đây, tôi phải
quay trở từ phương pháp nghiên cứu sơ khai nhất mà bất kỳ ai có ý định làm
khoa học dù ở mức độ nào cũng phải nắm- nghiên cứu về điểm khởi đầu, để đọc,
viết về William James cho tử tế hơn và không thấy xấu hổ và cắn rứt với lương
tâm. Vừa nghiên cứu song hành phương pháp và cả nội dung, thấy sáng rõ hơn
đôi chút, hay ít nhất là biết bắt đầu từ đâu để viết bản luận văn này dẫu còn nhiều
sai sót. Do vậy, kết cấu cũng có chút thay đổi so với đề cương chi tiết đã trình
bày.
Chúng ta vẫn thường nghe nói “nhà triết học là nhà thông thái”, thế nhưng
không phải lúc nào họ cũng sáng suốt, nhất là những nhà triết học chân chính thì
dễ nhận ra mình mắc sai lầm hơn những kẻ giả hiệu. Đọc những bài viết, công
trình nghiên cứu về William James mới thấy, ông cũng nhận được không ít cả lời
khen lẫn tiếng chê. Điều này càng thôi thúc tác giả cầm bút, không phải để đánh
giá ai đúng, ai sai mà trên cơ sở tham khảo những tác giả khác nhau viết về
William James, đưa ra một cái nhìn tổng quan và khách quan hơn về một đại
biểu đại diện cho chủ nghĩa thực dụng Mỹ. Điều mong muốn này hẳn nhiên
không phải là lớn nhưng đối với bản thân người viết, trong điều kiện không được
tiếp cận bất kỳ một tác phẩm dịch nào của tác giả William James, trong điều kiện
thời gian nghiên cứu có hạn, trong điều kiện năng lực và tầm nhìn thế giới quan
còn hạn hẹp và ít nhiều định kiến, công trình này ắt hẳn có nhiều thiếu sót, tác
giả mong nhận được những góp ý chân thành.
3
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề chân lý, thậm chí có người
còn phủ định chân lý nhưng không vì thế mà họ quên đi phạm trù này. Trong
những quan niệm về chân lý, tác giả nhận thấy quan niệm của chủ nghĩa thực
dụng khá đặc biệt, trong đó quan niệm của William James là tiêu biểu với tư
cách là đại diện chín muồi. Vì thế, tác giả dành thời gian tập trung nghiên cứu
quan niệm của William James về chân lý và “Quan niệm của William James về
chân lý” cũng chính là tên đề tài mà tác giả lựa chọn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sau một thời gian nghiên cứu, tham khảo một số bản luận văn thấy có
nhiều tác giả trình bày từng công trình của từng tác giả một, ít nhiều đề cập đến
vấn đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên, bởi lý do lớn nhất mà tác giả chọn nghiên cứu
về vấn đề này là mong khái quát lại tư tưởng của William James về chân lý, một
vấn đề còn nhiều tranh cãi, còn những ý kiến trái ngược thì việc chọn trình bày
tình hình nghiên cứu theo khuynh hướng nghiên cứu có lẽ hợp lý hơn cả.
Tác giả cũng nhận thấy rằng nghiên cứu về chủ nghĩa thực dụng nói
chung, William James nói riêng (trong đó có quan niệm của ông về vấn đề chân
lý) có hai khuynh hướng nghiên cứu chính: hoặc phê phán triệt để hoặc khen
ngợi hết lời trên lập trường giai cấp có phần cực đoan; một khuynh hướng khác
đưa ra quan điểm có tính khách quan hơn, có khen, có chê, giọng điệu cũng
không tiêu cực và tất nhiên có tính khoa học.
Tiêu biểu cho khuynh hướng thứ nhất là các công trình của các tác giả
thuộc phe xã hội chủ nghĩa cũ, chủ yếu là các tác giả Liên Xô và một số tác giả
Việt Nam trước đây, trong đó phải kể đến U.K. Men- vin với tác phẩm "Phê
phán chủ nghĩa thực dụng". Tác giả đã không tiếc lời phê phán chủ nghĩa thực
4
dụng nói chung, William James và quan niệm về chân lý của ông nói riêng.
U.K.Men- vin đã đứng trên lập trường của giai cấp mình để nhìn chủ nghĩa thực
dụng như một thứ triết học của bọn phản động, của chủ nghĩa để quốc, và vô
hình chung, đã bỏ qua những giá trị về mặt lý luận của nó không chỉ đối với triết
học Mỹ, triết học phương Tây và cả triết học thế giới, đặc biệt trong bối cảnh
hiện nay, khi chúng ta đang hướng đến cái gọi là triết học nhân văn, triết học
mới, đó là chủ nghĩa duy vật nhân văn- một đòi hỏi cơ bản và cấp thiết của thời
đại, một thời đại đang đặt con người vào trung tâm của sự phát triển, lấy tính
nhân văn làm mục tiêu cao nhất, đang tích cực chống lại mọi sự áp bức, bất
công, nghèo đói, mọi sự chia rẽ, phân biệt đối xử và mọi sự tha hóa nhân cách,
tha hóa đời sống tinh thần, khủng hoảng sinh thái và văn hóa xã hội. Trên lập
trường ấy, có thể khẳng định, quan điểm của tác giả này đã rơi vào cực đoan, mà
sự cực đoan nào cũng có thể rời xa chân lý. Ngay từ những trang đầu tiên của
cuốn sách, U.K.Men- vin đã viết: "chủ nghĩa thực dụng là vũ khí tư tưởng quan
trọng nhất mà thế lực phản động dùng để đấu tranh chống chủ nghĩa duy vật,
chống lý luận khoa học về xã hội, đó là thứ triết học mà các nhà tư tưởng của
giai cấp tư sản dùng để đầu độc ý thức giai cấp vô sản, tước bỏ lý luận cách
mạng của giai cấp vô sản và gieo rắc tinh thần thỏa hiệp và hợp tác giai cấp vào
giai cấp vô sản" [38; 5]. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh lịch sử xã hội và lập
trường giai cấp mà tác giả đang đứng thì điều này không có gì là lạ và nó cũng
trùng với quan điểm của nhiều nhà triết học Mác xít lúc bấy giờ. Không ngạc
nhiên khi cuốn sách trích khá nhiều lời dẫn của các tác giả ấy. Điều mà chúng tôi
quan tâm khai thác ở cuốn này chính là tác giả đã trình bày gần như đầy đủ về tất
cả các vấn đề được chủ nghĩa thực dụng đề cập, trong đó có vấn đề chân lý dẫu
rằng còn phiến diện và chưa đề cập trực tiếp đến quan niệm của William James.
5
Khuynh hướng thứ hai, phải kể đến các tác phẩm như: cuốn Uylliam
Giêmxơ của tác giả Vương Ngọc Bình, cuốn Triết học Mỹ của Bùi Đăng Duy và
Nguyễn Tiến Dũng, cuốn Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 của Lưu Phóng
Đồng. Cuốn sách dày hơn 130 trang của tác giả Vương Ngọc Bình đã trình bày
khá đầy đủ và logic về cuộc đời, sự nghiệp cũng như tư tưởng của William
James với tư cách là một đại biểu có vai trò "mở đường" trong lịch sử phát triển
tư tưởng nước Mỹ, "nhân vật nổi tiếng nhất của giới tư tưởng Mỹ trong buổi giao
thời thế kỷ XIX và XX" [5;5]. Tuy nhiên, phần dành cho thuyết chân lý của
William James khai triển mệnh đề chân lý sinh ra hiệu quả mà chưa phân rõ các
nội dung liên quan đến vấn đề chân lý như định nghĩa, bản chất, tiêu chuẩn, con
đường nhận thức…nên việc nắm bắt vấn đề sẽ khó khăn và tạo ra sự trùng lặp.
Cuốn Triết học Mỹ của đồng tác giả Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng không đi
sâu nghiên cứu vấn đề chân lý của William James mà dàn trải cho rất nhiều nội
dung, trong đó có phần trình bày về chủ nghĩa thực dụng với các đại biểu của nó.
Tác giả luận văn đã tham khảo phần này của cuốn sách và nhận thấy rằng việc
trình bày của Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng xét theo lịch sử sinh thành,
phát triển của chủ nghĩa thực dụng thông qua ba đại diện là S.Pierce, W.William
James và J.Dewey. Nhìn chung, ở khuynh hướng này, các tác giả đã có những
nhận xét khá khách quan, giọng văn không gay gắt, thậm chí trung tính, tạo ra
nhiều khoảng mở cho người đọc suy ngẫm, tự đưa ra nhận xét. Đây có lẽ là một
cách viết hay và nên. Tuy nhiên, nhiều trích dẫn trong cuốn sách đã chưa được
ghi chú nguồn, làm giảm độ tin cậy đối với người đọc.
Ngoài ra, tác giả còn tham khảo một số bài viết trên các tạp chí viết về lịch
sử nước Mỹ; về bản thân các đại biểu của chủ nghĩa thực dụng như: Chủ nghĩa
thực dụng qua một số đại biểu của nó; John Dewey- Nhà giáo dục học, nhà triết
6
học thực dụng Mỹ; Vài nét về chủ nghĩa thực dụng Mỹ…bổ sung cho tác giả
những tư liệu quý, những cách nhìn của những người nghiên cứu có thể nói là
ban đầu về chủ nghĩa thực dụng nói chung, về William James nói riêng. Các tác
phẩm còn lại được đề cập đến trong Danh mục tài liệu tham khảo có tính chất bổ
sung tư liệu về những vấn đề liên quan. Có một số tư liệu tác giả tham khảo qua
mạng nhưng không trích dẫn vì nguồn chưa rõ ràng.
Nhìn chung, đã có không ít tác giả nghiên cứu về chủ nghĩa thực dụng, các
đại biểu của chủ nghĩa thực dụng, trong đó có William James, đặc biệt là trong
thời gian gần đây, có một sự quan tâm của những người mới đối với chủ đề này,
ngoài các tác giả quen biết như Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng, Lưu Phóng
Đồng, Vương Ngọc Bình hay một số nhà triết học Mác-xít trước đây. Đó là một
lợi thế cho tác giả luận văn khi vừa được tiếp nhận các quan điểm của những
người đi trước và cả những người cùng thời. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, viết
riêng về William James thì chưa có một tác giả Việt Nam nào, sách dịch sang
tiếng Việt cũng chỉ mới có cuốn của Vương Ngọc Bình. Trong quá trình nghiên
cứu, tác giả đã cố gắng dịch một số đoạn trong một số tài liệu tiếng Anh nhưng
do trình độ có hạn nên việc tham khảo tài liệu tiếng nước ngoài chưa được hiệu
quả. Viết riêng về quan niệm của William James về chân lý thì gần như chưa có
tác giả nào. Do vậy, trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cố gắng sưu tầm
tài liệu, chắt lọc, suy ngẫm, trình bày theo logic vấn đề và tất nhiên không tránh
khỏi nhiều thiếu sót.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích luận văn là trình bày và phân tích những nội dung cơ bản trong
quan niệm của William James về chân lý, để từ đó chỉ ra những yếu tố hợp lý và
7
điểm hạn chế trong quan niệm này trên cơ sở so sánh với một số tác giả khác và
đánh giá trên lập trường của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau:
- Luận giải những điều kiện chi phối sự hình thành quan niệm của William
James về chân lý.
- Trình bày và phân tích những nội dung cơ bản trong quan niệm về chân
lý trong triết học của William James.
- Khái quát và đánh giá những giá trị, hạn chế của quan niệm về chân lý
của William James trên cơ sở so sánh với quan niệm của một số nhà triết học về
cùng vấn đề.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để làm rõ đối tượng nghiên cứu là quan niệm về chân lý của William
James, phạm vi nghiên cứu là quan niệm của William James về chân lý, quan
niệm của chủ nghĩa thực dụng và một số đại biểu khác trong lịch sử triết học về
cùng vấn đề nhằm mục đích so sánh; luận văn sẽ khảo sát các công trình nghiên
cứu về William James, tập trung vào các tác phẩm: Uyliam Giêmxơ; Triết học
phương Tây hiện đại, tập 2; Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây; Phê
phán chủ nghĩa thực dụng; Nhập môn triết học phương Tây; Triết học Mỹ
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo thêm một số bài viết chủ yếu trên các tạp chí
Triết học, Châu Mỹ ngày nay; các công trình nghiên cứu khác về triết học thực
dụng, về chân lý…như: Luận án tiến sỹ của Nguyễn Ngọc Ba về Ảnh hưởng của
chủ nghĩa thực dụng đến nhân cách người cán bộ hậu cần quân đội; Tác phẩm
Vấn đề con người trong triết học thực dụng của tác giả Phạm Tất Dong; cuốn
8
Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX; cuốn Hoa Kỳ phong tục tập quán
của Đặng Ngọc Tiến Dũng. Tuy nhiên, những tham khảo này chỉ có tính chất bổ
sung.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng về chân lý; những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin trong
việc nghiên cứu lịch sử triết học.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp,
so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hóa, phương pháp lôgíc và lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã luận giải một cách có căn cứ, mang tính hệ thống và khách
quan, góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong quan niệm về chân lý
của William James - những tư tưởng hết sức quan trọng không chỉ đối với giai
đoạn lịch sử trước đó mà cả hiện tại.
Bước đầu đưa ra những đánh giá có tính chất khái quát về những yếu tố
hợp lý và điểm hạn chế trong quan niệm của William James về chân lý.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận về chủ nghĩa thực dụng
nói chung, quan niệm về chân lý và về William James nói riêng. Đây sẽ là tài
liệu tham khảo cho những học giả nghiên cứu về triết học phương Tây hiện đại,
đặc biệt là về vấn đề chân lý của William James trong điều kiện chưa có nhiều
công trình nghiên cứu vấn đề cụ thể này và sách viết về William James cũng như
bản thân tác phẩm của ông dịch ra tiếng Việt thực sự hiếm hoi.
9
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu thành hai chương, bốn tiết.
10
CHƯƠNG 1
WILLIAM JAMES TRONG TRÀO LƯU CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG
1.1. Cơ sở cho sự ra đời quan niệm của William James về chân lý
1.1.1. Bối cảnh xã hội Mỹ và sự ra đời chủ nghĩa thực dụng
Một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin là tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội. Chủ nghĩa thực dụng như bất kỳ một lý thuyết nào
đều chịu sự quy định của bối cảnh xã hội sinh ra nó, phản ánh xã hội ấy ở những
hoặc chỉ một khía cạnh nào đó. Theo nhiều nghiên cứu đã chỉ ra ở phần tình hình
nghiên cứu, thuật ngữ “Chủ nghĩa thực dụng” xuất hiện vào năm 1870 với tư
cách là một khái niệm và được S.Peirce sử dụng trong một bài báo đọc tại “Câu
lạc bộ siêu hình" với nhan đề “Làm thế nào để quan niệm của chúng ta sáng rõ”.
Việc xuất hiện thuật ngữ này đánh dấu sự ra đời của Chủ nghĩa thực dụng.
Câu lạc bộ siêu hình tập hợp một nhóm các nhà triết học của Mỹ cùng
chung tư tưởng: công kích, chống đối những quan niệm có nghĩa của những
người theo chủ nghĩa duy lý, trong đó S. Peirce đặc biệt bác bỏ quan niệm của
những người theo chủ nghĩa duy lý về vũ trụ học và nhận thức luận và rằng
những quan điểm rõ ràng và rành mạch của những truyền thống ấy đã trở nên lỗi
thời do tư tưởng khoa học mới và bởi sự đề xuất nguyên lý mới như là phương
pháp để đạt được một nấc thang cao hơn của sự sáng rõ. Một câu hỏi được đặt ra:
Nguyên nhân nào cho những khẳng định của S. Peirce; phải chăng ông đã tìm ra
cái thay thế cho chủ nghĩa duy lý lỗi thời hay bởi ông thấy nó không còn phù
hợp và điều kiện nào cho sự không phù hợp ấy ?
11
Quay trở dòng thời gian, vào thập niên 70 của thế kỷ XIX ở nước Mỹ xa
xôi, để tìm hiểu bối cảnh xã hội, những nhân tố có tác dụng thúc đẩy sự kiến tạo
những mầm móng đầu tiên cho sự ra đời của Chủ nghĩa thực dụng.
Sau cách mạng 1776, nước Mỹ -Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được hình thành
trên cơ sở 13 thuộc địa của Anh ở bắc Mỹ. Ngót 300 năm- một khoảng thời gian
được cho là khá ngắn ngủi từ khi lập quốc đến khi dành độc lập, cùng với Tuyên
độc lập, Chủ nghĩa tư bản được xác lập trên lãnh thổ Mỹ.
Như vậy đến những năm 70 của thế kỷ XIX, Mỹ đã trở thành một nước tư
bản mà chặng đường tiến đến đó không quá dài, không quá ngắn, không quá
khúc khuỷu, không phải trải qua đêm trường đen tối do sự kìm kẹp của chế độ
phong kiến như Anh, Pháp, Hà Lan, Đức và một loạt các nước châu Âu khác.
Chủ nghĩa tư bản được xác lập ở Mỹ mang đầy đủ bản chất của một xã hội được
cho là dân chủ và tự do; người Mỹ lạc quan, cầu tiến và hơn hết có một nền văn
hóa, tư tưởng được hợp thành từ những nền văn hóa truyền thống khác nhau và
được đánh giá là khá "nghèo nàn" nhưng tuyệt nhiên không phải là một mớ hỗn
tạp. Đó nền văn hóa dung hợp của những cái truyền thống bị phủ định nửa vời.
Nói cách khác trong bối cảnh xã hội thuận lợi, với những điều kiện có tính mở
đường, chủ nghĩa tư bản phát triển đến một giai đoạn cao hơn, người Mỹ khát
khao có một hệ tư tưởng riêng, mới và phù hợp để thay thế cho cái riêng lẻ của
từng dân tộc giờ hợp lại thành một chủng quốc. Sự khao khát ấy đã đẻ ra văn hoá
Mỹ, lý luận Mỹ, triết học Mỹ mà cốt lõi là chủ nghĩa thực dụng. Và không có gì
đáng ngạc nhiên nếu có ai đó nhận xét rằng: sở dĩ Chủ nghĩa thực dụng được ưa
chuộng và trở thành gần như độc tôn ở Mỹ bởi nó là sản phẩm của sự lai giống
giữa chủ nghĩa thực chứng và triết học đời sống. Học thuyết ấy trở nên mềm dẻo,
12
dễ thích ứng với bất kỳ nhu cầu nào. Chủ nghĩa thực dụng trở thành món ăn phổ
biến về tinh thần mà người Mỹ buộc phải yêu chuộng trong bối cảnh lúc bấy giờ.
Người đặt nền móng cho chủ nghĩa thực dụng- S. Peirce- là một người
chịu ảnh hưởng, kế thừa tư tưởng của một số nhà triết học kinh nghiệm và triết
học cổ điển Đức. Nhưng để phù hợp và trở thành món ăn của người Mỹ, S.
Peirce tuyên bố xây dựng một thứ khoa học phải phục tùng kinh nghiệm, phục
tùng đời sống của con người. Thứ lý thuyết ấy phải gắn bó, thậm chí tận tụy với
kinh nghiệm. Hiển nhiên điều này sẽ trở nên hoàn toàn duy vật nếu giữa khoa
học và kinh nghiệm là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại.
Tuy nhiên vì mãi loay hoay trong giải quyết mối quan hệ này mà S. Peirce
đã phóng đại yếu tố chủ quan, cá nhân trở thành yếu tố quyết định sự đúng sai
của một khẳng định khoa học.
Sau chiến tranh Nam- Bắc (1848) chấm dứt, nước Mỹ trên con đường xây
dựng trở thành một nước tư bản “thuần chủng”. Người Mỹ thấy cần thiết hơn
việc tiếp cận với triết học như một món ăn tinh thần thường xuyên. Giới triết học
Mỹ có lúc lại cảm thấy thích thú với chủ nghĩa duy tâm triết học, chủ nghĩa tư
biện của "những người di cư" sang Mỹ sau cách mạng. Những người theo chủ
nghĩa này cho rằng: "thông qua lý tính, người ta có thể nhận được tri thức rất
chuẩn và tuyên truyền cho chủ nghĩa Hegel đã nêu lên một thế giới quan toàn
diện, trước sau đền thống nhất và thích hợp cho luân lý học, tôn giáo, nghệ thuật,
chính trị, luật pháp và giáo dục" [5;75]. Đồng thời với đó là sự du nhập của
thuyết tiến hoá Đác- uyn "đã đánh dấu một bước ngoặt của triết học Mỹ" [5;75].
Đó chính là sự từ bỏ chủ nghĩa duy tâm tư biện, tiếp cận và đứng vững trên cơ sở
của chủ nghĩa kinh nghiệm. Chẳng thế mà, các đại biểu của chủ nghĩa thực dụng
13
từ Pierce, William James cho đến Dewey đều đặt tên cho phương pháp chủ nghĩa
thực dụng của mình những cái tên như phương pháp thực nghiệm, chủ nghĩa cấu
trúc
Tư tưởng của chủ nghĩa Đác uyn đã làm biến chuyển khái niệm tự nhiên
từ hệ thống cố định thực tại vĩnh hằng thành một quan niệm biến đổi động thái,
dùng phạm trù của quá trình và sự kiện thay thế phạm trù thực thể và bản chất.
Điều quan trọng hơn là nó đã phá vỡ uy quyền của chủ nghĩa duy tâm đã được
xác định, làm cho sự phát triển phương pháp thực nghiệm triết học trở thành khả
năng. Chủ nghĩa thực dụng đã “đứng vững trên chủ nghĩa duy tâm tư biện, được
chủ nghĩa Đác uyn khai sáng, xuất hiện theo nhu cầu hiện thực của xã hội Mỹ"
[5;75].
Quay trở lại với bối cảnh lịch sử ra đời chủ nghĩa thực dụng những năm 70
của thế kỷ XIX, thấy rằng bên cạnh sự chi phối của nhân tố lịch sử, xã hội thì lý
luận cũng ảnh hưởng đến sự ra đời ấy với tư cách là sự tác động qua lại giữa các
nhân tố của ý thức xã hội. Trước hết phải kể đến sự tiếp thu tư tưởng của các nhà
triết học ngoại quốc mà luận văn đã có cơ hội đề cập trước đó nhưng chủ yếu là
tư tưởng của những nhà kinh nghiệm chủ nghĩa, tư tưởng của Đác- uyn. Và
không phải ngẫu nhiên mà đối với những nhà thực dụng Mỹ thì những tư tưởng
đó hẳn nhiên trước khi chứa đựng những yếu tố hợp lý thì trước hết phải chứa
đựng những yếu tố phù hợp với lối tư duy của những nhà thực dụng cũng chính
là đại biểu cho cách nhìn của người Mỹ ít nhất là trong thời điểm bấy giờ. Bên
cạnh đó, tuyên ngôn độc lập với tư cách vừa là một văn kiện chính trị nhưng
cũng đồng thời là một tác phẩm chứa đựng những tư tưởng triết học kiết xuất đã
góp phần vào cơ sở lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng nói chung,
quan niệm của William James nói riêng.
14
Tuyên ngôn 1795 được đánh giá là bản tuyên ngôn tiến bộ trên thế giới
sau Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp, một trong những tác
phẩm mà sau này Hồ Chí Minh có nhắc đến những tư tưởng của nó trong Tuyên
ngôn độc lập năm 1945. Trong bối cảnh khao khát độc lập, tự do và hơn cả là
dân chủ, Tuyên ngôn độc lập soi đường về mặt lý luận trước hết cho cuộc cách
mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ. Nhưng cũng bởi những tư tưởng
tiến bộ của nó mà đã góp phần vào nhân tố thúc đẩy sự hình thành, duy trì và
phát triển của chủ nghĩa thực dụng Mỹ. Điều gì quan trọng trong đó khiến nó trở
nên hữu ích đến thế.
Nội dung cơ bản của tuyên ngôn là khẳng định quyền con người và quyền
tự do dân chủ của công dân, quyền thiết lập chính quyền và huỷ bỏ chính quyền
(khi nó đi ngược lại quyền lợi của quần chúng) đều và chỉ thuộc về nhân dân.
Tuyên ngôn lên án mạnh mẽ chế độ cai trị của nhà vua Anh, khẳng định quyền
độc lập của các quốc gia ở Bắc Mĩ, quyền tự do gia nhập các liên minh.
Tuyên ngôn độc lập nêu ra các thuộc địa Bắc Mỹ tách khỏi Anh và ghi rõ:
“Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá đã cho họ những quyền bất khả xâm
phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Tuyên ngôn cũng nêu lên chủ quyền của nhân dân, nhưng không bãi bỏ chế độ
nô lệ, không ngăn cấm việc tiêu diệt người da đỏ và việc bóc lột công nhân làm
thuê. Tuyên ngôn là một văn kiện lịch sử đánh dấu quá trình ra đời của Nhà nước
Hợp chủng Quốc Hoa Kì. Hơn thế, tư tưởng khẳng định quyền bình đẳng, quyền
tự do dân chủ của công dân là một trong những tư tưởng quan trọng, nó biến
thành "chỗ dựa lớn về ý thức hệ của dân tộc Mỹ" [17;23]. Niềm tin của người
Mỹ đặt vào đó là là một niềm tin không hề lay chuyển. Và những nhà tư tưởng
của họ cũng không nằm ngoài ngoại lệ này. "Họ không rút ra từ đó một hiệu quả
15
lôgic: người khổ hạnh và người duy mỹ không thực sự nẩy nở ở đây và những
người thấp hèn, những người nghi ngờ, tuyệt vọng hay những kẻ vô sỉ ít xuất
hiện trên sân khấu triết học ở Mỹ" [17;24], thay vào đó là những người "thực
dụng". Tuyên ngôn là sự kết hợp giữa triết học và chính trị, tránh được sự cứng
nhắc. Triết học quan tâm tới những lý tưởng với tư cách là đối tượng của một lễ
hội bên trong. Nền dân chủ bên trong đó được tán thưởng như là mỗi người có
một giáo hoàng, mỗi người là một nhà lôgic của mình vậy. Đó mới chính là tư
tưởng ẩn dấu mà chủ nghĩa thực dụng mà các đại biểu của nó với tư cách là
những người Mỹ quan tâm, thấm nhuần và khai triển. Cùng với sự lưu giữ dưới
nhiều hình thức khác nhau, những tư tưởng của tuyên ngôn còn sống mãi.
1.1.2. Toàn cảnh chủ nghĩa thực dụng
Như đã khái lược, chủ nghĩa thực dụng được sáng lập do công của
S.Pierce với hai bài báo năm 1870, đó là lần đầu tiên thuật ngữ “Chủ nghĩa thực
dụng” được sử dụng. Nhưng không lâu sau đó, thuật ngữ này đã bị William
James "lạm dụng" và "làm cho sai lệch" (theo lời của S. Pierce). Cũng vì điều
này mà một số người quên mất S. Pierce với tư cách đáng ra ông phải có- nhà
sáng lập chủ nghĩa thực dụng và cũng là lý do để ông buộc phải đổi tên cho
những tư tưởng xuất phát ấy của mình một cái tên khác "chủ nghĩa thực hiệu" để
phân biệt.
Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Vương Ngọc Bình, thì "đóng góp của
Piếc- xơ là đã hệ thống hoá các phương pháp và khái quát hoá về lý luận được
nêu lên trong "Câu lạc bộ siêu hình", đặt nền tảng cho sự sinh ra và phát triển
của chủ nghĩa thực dụng" [5;77]. Tuy nhiên, tất cả những quan niệm của Pierce
chỉ dừng lại về mặt lý thuyết, thế mới có nhận xét rằng S.Pierce là người toàn
16
năng nhưng tư tưởng ít có tính hệ thống, có sự phong phú nhưng thiếu chất. Điều
đó phải chăng bắt nguồn từ chỗ, những tư tưởng ấy mới chỉ xuất phát từ tư duy
cá nhân, từ sự tư biện kiểu Hegel của một người cũng được coi là ưa thích quá
nhiều thứ, khám phá khá rộng rãi nhiều vấn đề. Trong suốtt thời gian hơn hai
mươi năm nghiên cứu khoa học và giảng dạy, ông đã có nhiều thành tựu không
chỉ trên lĩnh vực triết học, lôgic học, tôn giáo học mà cả trên các lĩnh vực khoa
học tự nhiên như toán học, vật lý, hoá học, trắc địa học và khoa học lịch sử;
những cống hiến của ông trong các lĩnh vực tâm lý học, thần giao cách cảm, tội
phạm học, Ai Cập học, lịch sử cổ đại cũng không phải là nhỏ.
Dẫu có những cống hiến lớn lao như vậy, nhưng sinh thời, ông cũng chỉ
xuất bản được một tác phẩm có tên "Về vật lý học vũ trụ"; sống trong cảnh bần
hàn và cô đơn gần như trong suốt cả cuộc đời mình. Chỉ đến khi ông qua đời, lần
lượt các tác phẩm của ông đã được công chúng biết đến, kể cả các bản thảo và
bản nháp viết tay, như "Tuyển tập triết học", "Tập luận văn của Peirce". Những
công trình này không lâu sau đó đã gây được tiếng vang và sự chú ý của giới học
thuật và được khá nhiều người tán đồng.
Nhiều người trong số đó đã lại đánh giá rằng, tư tưởng của Piếc- xơ chứa
đựng nhiều mâu thuẫn. Có lẽ bởi, ông đã kế thừa qúa nhiều thứ tư tưởng: từ
những tư tưởng mang tính truyền thống trong chủ nghĩa kinh nghiệm Anh đến
các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa cùng thời đại với ông; từ tiếp thu triết học cổ
điển Đức đến tiếp thu và phát triển lôgic ký hiệu của những người sáng lập ra
lĩnh vực này, lôgic học của chủ nghĩa tâm lý .
Những nhà khoa học ngoại đạo "chủ nghĩa thực dụng" đa số công nhận
ông là người sáng lập chủ nghĩa thực dụng, thậm chí là người đi đầu trong các
17
lĩnh vực của họ. Ngay bản thân những nhà thực dụng về sau cũng coi những tư
tưởng ban đầu của ông là nền tảng. Như đã nhận định, hệ thống tư tưởng ấy
rộng, bao quát nhiều lĩnh vực nhưng với tư cách người sáng lập chủ nghĩa thực
dụng thì chúng ta có thể đề cập đến một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, ông cho rằng chúng ta không nên biến khoa học thành cái chỉ
biết phục tùng niềm tin, mà nên biến khoa học thành cái phục tùng thực nghiệp.
Nền tảng của tư tưởng nguồn cội này là thuyết "sao chụp hiện tượng" và học
thuyết về ba cấp độ cơ bản của tồn tại và nhận thức mà ông diễn ra bằng ba
phạm trù:
Tính thứ nhất: cấp độ mà ở đó, sự gặp gỡ giữa tinh thần sáng tạo tự do và
hiện thực sẽ tạo ra tính đa dạng vô tận về tiềm năng ở các "chất lượng có thể có"
của những dự án thực tại lý tưởng hay của các hình thức thuần túy.
Tính thứ hai: cấp độ tồn tại của các sự vật với tư cách một tập hợp các
khách thể riêng biệt và mối quan hệ của chúng.
Tính thứ ba: cấp độ thực tại đích thực, những khái niệm phổ biến- các quy
luật, bản chất.
S.Pierce cho rằng: sự tồn tại hiện thực là kết quả của sự can thiệp của tinh
thần vào tính tự phát liên tục và toàn vẹn của tồn tại, là sự tách rời khỏi chỉnh thể
đó các sự vật cùng với những mối liên hệ và quan hệ của chúng, là việc xác định
các quy luật tạo dựng và hoạt động chung của chúng. Còn việc đưa lý tính vào
hiện thực phi lý tính thì được thực hiện bởi kinh nghiệm thực tiễn của chủ thể-
kinh nghiệm cho phép xác định được những điều kiện để kiểm nghiệm các phán
đoán nhằm hợp lý hóa thế giới và qua đó, đem lại cho thế giới này địa vị là một
thực tại.
18
Quan niệm này thể hiện rõ tính hai mặt: một mặt, nó tuân thủ những quan
niệm truyền thống của chủ nghĩa hiện thực trung cổ, khi khẳng định tính hiện
thực của những khái niệm phổ biến. Mặt khác, nó thừa nhận sự tồn tại hiện thực
của thế giới đã được nhận thức (tính chỉnh thể, các khách thể và những mối liên
hệ riêng biệt) với tư cách sự tồn tại không phụ thuộc vào tinh thần nhận thức.
Tính hai mặt này không phải là một mâu thuẫn hình thức, mà theo quan niệm
triết học, đó là một antinomi. S. Pierce nhận ra điều đó và có gắng tìm cách giải
quyết trong quá trình phân tích và luận giải thực tiễn nhận thức của chủ thể, và
trong quá trình ấy, việc phóng đại, đề cao đến mức thái quá yếu tố chủ quan của
thực tiễn nhận thức đã đưa ông tới chỗ quan niệm như đã trình bày trên đây. Ông
cũng thừa nhận rằng, bản thân chủ nghĩa thực dụng của ông tự nó không phải là
học thuyết siêu hình, không có ý định xác định bất kỳ tính chân lý nào của sự
vật. Nó chỉ là phương pháp phát hiện từ hiện thực và ý nghĩa của khái niệm trừu
tượng và rằng cái quan tâm chủ yếu của ông là làm cho tư tưởng và khái niệm
mà con người đưa ra có được kỹ xảo và phương pháp rõ ràng. Ông muốn xây
dựng chủ nghĩa thực dụng của mình thành một loại lôgic khoa học hay phương
pháp luận khoa học để phân tích ý nghĩa của từ, của khái niệm, tư tưởng hay ý
nghĩa của ký hiệu và biến chúng thành phương tiện xác định niềm tin, phương
thức sử dụng hành động để đạt đến mục đích. Do vậy, phương thức để xác định
niềm tin và vấn đề xác định niềm tin trên cơ sở "làm sạch" khái niệm, tư tưởng
đã trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu trong chủ nghĩa thực dụng được coi là
không triệt để và thuần túy. Những tư tưởng này của ông đã đặt nền móng, trở
thành cơ sở lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng Mỹ những năm đầu
thế kỷ XX.
19
Trên cơ sở những tư tưởng của S.Pierce, William James đã kế thừa và phát
triển như thế nào để trở thành một đại biểu "chín muồi" nhất của chủ nghĩa thực
dụng. Hẳn nhiên, tư tưởng của ông về chân lý sẽ được trình bày rõ trong phần
nội dung chính. Ở phạm vi của mục này, người viết sẽ đề cập đến cách thức, nội
dung ông học từ tiền bối của mình, không loại trừ ảnh hưởng của những tư tưởng
triết học ngoài luồng.
Bắt đầu từ năm 1898, trong những bài giảng của mình, William James đã
trình bày những tư tưởng của S.Pierce. Bài "Khái niệm triết học với hiệu quả
thực tế" nhấn mạnh: "Đều có thể tiếp tục đưa ý nghĩa thực tế của bất kỳ mệnh đề
triết học nào đến kết quả đặc biệt nhất định nào đó trong kinh nghiệm thực tế
tương lai của chúng ta. Vấn đề là, nói trên sự thực cần phải tích cực không bằng
nói kinh nghiệm cần phải dựa trên thực tế đặc biệt nhất định" [5;82]. Lần lượt
trong "Từ điển triết học", "Chủ nghĩa thực dụng", "Một số vấn đề của triết học",
ông đã tiến hành chú giải, bình luận, trình bày luận thuyết của S.Pierce về những
vấn đề liên quan đến cái gọi là "chủ nghĩa thực dụng", như: ý nghĩa của một khái
niệm được thể hiện trong hiệu quả thực tế hoặc là kết quả được biểu hiện trong
hình thức hành động cần được chấp nhận, hoặc là kết quả được biểu hiện trong
hình thức của kinh nghiệm có thể chờ đợi nếu khái niệm này là chân thật. Khi
chúng ta suy nghĩ về sự vật, nếu muốn hiểu chúng hoàn toàn rõ ràng, chỉ cần suy
nghĩ nó có thể hàm chứa hiệu quả thực tế gì, đồng nghĩa với việc chúng ta có
được cảm giác gì từ sự vật và chúng ta phải chuẩn bị phản ứng như thế nào trước
chúng. Quy tắc của chủ nghĩa thực dụng là: về ý nghĩa của một khái niệm, nếu
không tìm được từ trong sự việc có thể cảm giác được nào đó do khái niệm ấy
trực tiếp chỉ ra, đều có thể tìm thấy trong sự khác biệt của một loại đặc thù do
tính chân thật của khái niệm tạo nên trong quá trình kinh nghiệm của con người.
20
Nhưng ngay cả là sự trình bày, chú giải, bình luận thì cũng đã chứa đựng
những yếu tố khác biệt giúp phân định giữa "chủ nghĩa thực hiệu"- cái tên mà
S.Pierce tự đặt cho học thuyết của mình để phân biệt- với "chủ nghĩa thực dụng"
của William James. Hẳn nhiên, cả hai ông đều nhấn mạnh ý nghĩa của khái niệm
là khái niệm trong kinh nghiệm của con người đã mang lại hiệu quả thực tế; đã
có sự thống nhất trong cách trình bày của S.Pierce với những chú giải của
William James. Tuy nhiên, về nguyên tắc có sự khác biệt: S.Pierce nhấn mạnh
cái chung, William James coi trọng cái cá biệt.
S.Pierce nhấn mạnh loại khái niệm mang lại hiệu quả thực tế, là hiện
tượng thực nghiệm có thể tưởng tượng được như "nặng", "cứng" Tương đồng
với tư tưởng đó là việc nhấn mạnh sự vật của chủng loại nhất định cùng với hành
động của chủng loại ấy, mối liên hệ giữa những kinh nghiệm của chủng loại nhất
định chứ không là phản ứng của cá nhân. Cái ông coi trọng là thực nghiệm và
khái quát khoa học chứ không phải là đời sống dân sinh của những cái tôi, những
cái nhu cầu nhỏ lẻ, những lợi ích của số ít.
Trong khi đó, William James nhấn mạnh đến kinh nghiệm đặc biệt nhất
định của con người do khái niệm và mệnh đề tạo nên. Kết quả được tạo bởi ý
niệm phải là kết quả khác biệt đặc thù trong kinh nghiệm của con người. William
James nhấn mạnh tính đặc thù của sự việc, những kinh nghiệm của khái niệm có
liên quan với hoạt động trong đời sống của con người cá biệt hay cá nhân riêng
lẻ. Cái ông nhấn mạnh là tác dụng của khái niệm trong đời sống cá nhân đặc biệt
nhất định. Do vậy, việc ông trình bày những luận thuyết của S.Pierce là một cách
để trên cơ sở đó, ông vận dụng cái đã được kiểm nghiệm ở mức độ rộng rãi hơn
vào lĩnh vực của đời sống những con người riêng biệt, để tìm câu trả lời: liệu có
thể áp dụng lý thuyết ấy cho đời sống cá thể hay không?.
21
Về sự khác biệt này, hẳn nhiên đòi hỏi một cái nhìn tinh tế, và J. Dewey-
hậu bối của cả hai người đã từng nhận xét khá đúng đắn rằng: "Lý do chủ yếu
khiến William James dùng một màu sắc mới cung cấp cho phương pháp chủ
nghĩa thực dụng là ông dùng toàn bộ sức lực ứng dụng vào phương pháp này để
xác định ý nghĩa các loại vấn đề về triết học, đặc biệt ông cần nêu lên các loại
khái niệm triết học có tính chất thần học hoặc tôn giáo để kiểm nghiệm. Ông
muốn xây dựng một tiêu chuẩn là có thể khiến người ta có thể quyết định một
vấn đề triết học đặc biệt nhất định là sự thật quan trọng hay ngược lại, không có
tý ý nghĩa gì" [5;86]. "William James có ý đồ coi chủ nghĩa thực dụng là một
loại phương pháp giải quyết mọi vấn đề triết học và mọi vấn đề tôn giáo vì vậy
cũng là một loại lý luận triết học hệ thống" [5;86]. Với toàn bộ các trước tác đã
được xuất bản khá phong phú, đa dạng và có tính hệ thống, tất cả những tư tưởng
của chủ nghĩa thực dụng đã được trình bày bởi William James trên cơ sở những
tư tưởng khởi nguồn từ S.Pierce. Nhưng rõ ràng là, nhờ có William James, chỉ
đến William James, người ta mới biết đến cái gọi là tính hệ thống của chủ nghĩa
thực dụng, đặt trong bối cảnh khá thuận lợi "giai đoạn giai cấp tư sản Mỹ lũng
đoạn độc quyền tiến hành bành trướng thuận lợi. Trong và ngoài nước, chúng
đều không gặp trở ngại gì to lớn, cho nên thường coi trời bằng vung, tung hoành
thả sức" [5;86]. William James thực sự là người đã có công lớn đối với chủ nghĩa
thực dụng trong việc mở rộng, truyền bá và làm cho nó trở nên là thứ triết học
độc quyền ở nước Mỹ, có tầm ảnh hưởng lớn vượt khỏi châu lục vốn đi sau về
học thuật này. "Trong ba cự phách của chủ nghĩa thực dụng, tuy S.Pierce đề
xướng trước, Dewey sửa chữa sau đó nhưng nhân vật thật sự vẫn là William
James". "William James không phải là người mô phỏng hoặc là vệ tinh loại hai
của triết học Anh hoặc triết học đại lục, ông là hành tinh lớn của giới triết học,