Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 110 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ HƯỜNG





VAI TRÕ CỦA NÔNG DÂN TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG
NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở BẮC GIANG HIỆN NAY








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC










2
Hà Nội, 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ HƯỜNG





VAI TRÕ CỦA NÔNG DÂN TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG
NGHIỆP,
NÔNG THÔN Ở BẮC GIANG HIỆN NAY





Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thanh Tuấn



Hà Nội, 2013


109
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 11
Chương 1. KHÁI LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA NÔNG DÂN, CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ TÌNH HÌNH NÔNG DÂN
BẮC GIANG HIỆN NAY 11
1.1. Khái luận về vai trò của nông dân, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang hiện nay 11
1.2. Tình hình nông dân Bắc Giang và tính tất yếu phát huy vai trò của
nông dân trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn hiện nay 34
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÕ
CỦA NÔNG DÂN TRONG SỰ NGHIỆP ĐẨY MẠNH CÔNG

NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở
BẮC GIANG HIỆN NAY 46
2.1. Thực trạng thực hiện vai trò của nông dân trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bắc
Giang hiện nay 46
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nông dân trong
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn ở Bắc Giang hiện nay 73
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104




110

QUY ƯỚC VIẾT TẮT

CNH
: Công nghiệp hóa
HĐH
: Hiện đại hóa
CNH - HĐH
: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
CNTB
: Chủ nghĩa tư bản
HTX
: Hợp tác xã

THT
: Tổ hợp tác
KT – XH
: Kinh tế - xã hội
GD – ĐT
: Giáo dục – đào tạo
KH&CN
: Khoa học và công nghệ



3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn
là chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và là nội dung cơ bản của quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong nông nghiệp và nông thôn, vấn đề nông dân luôn có vị trí đặc
biệt quan trọng và được Đảng ta xác định là vấn đề chiến lược của cách
mạng Việt Nam.Trải qua các giai đoạn cách mạng, nông dân đã có những
đóng góp to lớn, góp phần cùng toàn dân làm nên thắng lợi vẻ vang trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày nay, nông dân vẫn là lực
lượng đông đảo, nòng cốt và chủ yếu tham gia trực tiếp vào quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Những thành tựu đạt được trong
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa qua là thành quả của
toàn Đảng, toàn dân, nhưng đặc biệt trong đó có một phần đóng góp đáng
tự hào của nông dân.
Bắc Giang là một tỉnh nông nghiệp nằm trong khu vực trung du và
miền núi phía Bắc. Cùng với xu thế chung của cả nước, Bắc Giang cũng đã

đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện, trong đó
kinh tế trồng trọt, chăn nuôi và kinh tế vườn được xác định là ba ngành
kinh tế mũi nhọn, là khâu đột phá của tỉnh.
Hơn 10 năm qua, nông nghiệp Bắc Giang về cơ bản đã chuyển sang sản
xuất hàng hoá, phát triển tương đối toàn diện, đạt mức tăng trưởng khá (bình
quân 4,2%/năm). Công nghiệp, ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn bước đầu
phục hồi và phát triển; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư
xây dựng, môi trường sinh thái và đời sống nông dân được cải thiện rõ rệt.
Quan hệ sản xuất từng bước được đổi mới, phù hợp với yêu cầu phát triển nền
nông nghiệp hàng hoá; hệ thống chính trị ở cơ sở được tăng cường, dân chủ
được phát huy tốt hơn; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn


4
được bảo đảm. Những thành tựu đó góp phần rất quan trọng vào sự ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề đẩy mạnh CNH, HĐH trên địa bàn
tỉnh Bắc Giang nói riêng, cả nước nói chung.
Đến nay, sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang
ngày càng đi đúng hướng và thu được được nhiều thành tựu quan trọng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp và nông thôn
Bắc Giang vẫn còn những hạn chế. Nông dân Bắc Giang, mặc dù đóng một
vai trò vô cùng to lớn trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, nhưng cho đến nay đời sống của đa số nông dân vẫn còn nghèo,
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Ở mức độ nhất định, việc thực
hiện và phát huy vai trò của nông dân trong phát triển kinh tế, thực hiện
dân chủ ở cơ sở, bảo đảm an toàn xã hội và xây dựng đời sống văn hóa vẫn
còn hạn chế.
Để quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bắc
Giang đi vào chiều sâu, tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa
trong sự nghiệp xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại

những năm đầu của thế kỷ XXI, Bắc Giang phải nỗ lực xây dựng, hoàn
thiện hệ thống chủ trương, chính sách, phương hướng, giải pháp đồng bộ
nhằm phát triển, để nhờ đó có thể phát huy vai trò của nông dân trong quá
trình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Với tư
cách là chủ thể, là lực lượng nòng cốt và chủ yếu trực tiếp tham gia vào sự
nghiệp này, điều quan trọng hơn hết là phải khơi dậy cho được sự cố gắng,
lòng nhiệt tình, tính năng động, tích cực sáng tạo của nông dân Bắc Giang.
Bởi mỗi bước phát triển của nông nghiệp và nông thôn suy cho cùng cũng
là nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho nông dân. Nông dân là
mục tiêu, là động lực phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Phát triển
nông nghiệp và nông thôn là do nông dân và vì nông dân.
Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn dưới tác
động của cơ chế kinh tế thị trường đã và đang buộc nông dân phải đối mặt


5
với những thách thức không dễ tránh khỏi. Trong đó trước hết phải kể đến
tình trạng một bộ phận nông dân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất; hiện
tượng phân hóa giàu nghèo, mất đoàn kết trong nội bộ nông dân; tình trạng
ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội, Đây là những vấn đề lớn đang ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của người nông dân. Vì vậy, sức mạnh của
nông dân chỉ có thể phát huy mạnh mẽ khi có sự quan tâm sâu sát, sự hỗ
trợ kịp thời và thường xuyên của các cấp, các ngành địa phương, của cả hệ
thống chính trị. Đây chính là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp thiết đang được đặt ra đối với Bắc Giang. Vì thế tôi chọn vấn đề "Vai
trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang hiện nay " làm chủ đề nghiên cứu của
luận văn thạc sĩ, chuyên ngành CNXH khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

và vấn đề nông dân luôn giành được sự quan tâm, chú ý của nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều nhà khoa học. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên
cứu của tập thể cũng như của các nhà khoa học về nông nghiệp, nông thôn
và nông dân ở những góc độ khác nhau.
Thứ nhất, các sách chuyên khảo
1. Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách khoa học và công
nghệ - Trung tâm Hỗ trợ khoa học và công nghệ phát triển nông thôn
(1997), Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
2. Hội khoa học kinh tế Việt Nam - Ban đào tạo và phổ biến kiến thức
(1998), Tài liệu tập huấn: Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tập I và II), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (2002), Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


6
4. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ
đổi mới, Nxb Thống kê. Cuốn sách đã cung cấp cho chúng ta hệ thống tư liệu
về phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như là một Niên giám thống kê
nông nghiệp thu nhỏ. Chỉ ra những vấn đề đầu tư, vấn đề phân hóa giàu
nghèo, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu nông sản
Nhìn chung, các công trình khoa học này đã đề cập đến những nội dung
như: vai trò của công nghiệp nông thôn trong quá trình CNH, HĐH nông thôn
Việt Nam; thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam; tổng kết những kinh
nghiệm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của một số nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới; hệ thống hóa những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; những vấn đề đặt ra và đề xuất
những phương hướng, giải pháp trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn. Tuy nhiên, các công trình khoa học này mặc dù nghiên cứu về
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhưng chưa đi sâu vào vấn đề nông dân.
Thứ hai, các luận án, luận văn
Cho đến nay đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã nghiên
cứu tìm hiểu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và
việc phát huy vai trò của nông dân như:
Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Hướng (1991): Sự chuyển
hướng của giai cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Luận án tiến sĩ triết học của Bùi Thị Thanh Hương (2000): "Đặc điểm
và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện
nay". Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả cho chúng ta thấy được
đặc điểm của giai cấp nông dân Việt Nam, xu hướng biến đổi giai cấp nông
dân trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa đồng thời đề ra một số gải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
những mâu thuẫn trong quá trình đưa nông dân phát triển theo định hướng
XHCN Nhưng luận án cũng còn một số hạn chế như mới chỉ quan tâm đến


7
nhân tố quy định đặc điểm, xu hướng biến đổi mà chưa thấy được vai trò và
tầm quan trọng của nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn thời kỳ mới.
Luận văn thạc sĩ Triết học của Đặng Thị Phương Duyên (2001): Phát
huy vai trò của nông dân Thái Bình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Luận văn đã đề cập đến vấn đề nông
nghiệp, nông thôn và nông dân Thái Bình trên con đường CNH, HĐH; thực
trạng và giải pháp phát huy vai trò của nông dân trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn Thái Bình. Tuy nhiên, vai trò của nông dân
trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là như thế nào; những điều kiện
để phát huy vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

nói chung, ở một tỉnh nói riêng là vấn đề cần phải đi sâu hơn nữa.
Luận văn thạc sĩ của Phạm Huỳnh Minh Hùng (2005): “Phát huy vai
trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay”. Luận văn đã chỉ ra được phương
hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH; Chỉ ra
được vai trò của nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn tỉnh Bến Tre; đồng thời chỉ ra quan điểm giải pháp phát huy vai trò
của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bến
Tre. Tuy nhiên, luận văn vẫn còn có một số nhược điểm như: Chưa làm rõ
được quan niệm về CNH, HĐH; CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn;
Chưa làm nổi bật hết vai trò của nông dân trong quá trình CNH, HĐH và
giải pháp mà tác giả luận văn đưa ra chú trọng nhiều về vấn đề nâng cao
nhận thức của nông dân mà chưa bám sát vào vai trò của nông dân trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Các đề tài này bước đầu đi vào nghiên cứu sự phân hóa giàu nghèo, đặc
điểm của giai cấp nông dân trong giai đoạn đổi mới đất nước, làm rõ xu
hướng biến đổi khách quan của giai cấp nông dân Việt Nam trong thời gian
tới, trình bày một số phương hướng đưa giai cấp nông dân Việt Nam phát
triển theo hướng XHCN, Các đề tài, luận án này tuy bàn đến đối tượng là


8
nông dân nhưng chưa đi sâu vào vai trò của nông dân cũng như việc phát huy
vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Do mỗi một địa phương có một đặc điểm riêng, cho nên vai trò của
nông dân ở mỗi địa phương trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội cũng
có sự khác nhau nhất định. Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào
bàn đến vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và vai
trò của nông dân ở Bắc Giang. Vì thế, trong công trình của mình, tác giả cố
gắng làm rõ hơn vai trò của nông dân Bắc Giang phù hợp với quá trình đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phưong Bắc Giang.
Thứ ba, các văn kiện của Bắc Giang
- "Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ VIII ", 2012
- "Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ X VII", 2010
- Nghị quyết số số 47-Ctr/TU ngày 03/10/2008 của Tỉnh uỷ Bắc
Giang, 2008
- Ngày 14-7-2011, BCH Đảng bộ tỉnh Bắc Giang có Nghị quyết số
145/NQ/TU về xây dựng nông thôn mới tỉnh Bắc Giang đến năm 2020. Nghị
quyết xác định xây dựng nông thôn mới theo phương châm: “Kinh tế phát triển
- Đời sống ấm no - Thôn bản văn minh - An ninh ổn định - Quản lý dân chủ".
Các văn kiện, Nghị quyết này đều đề cập đến vấn đề CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân. Nhưng cho đến nay chưa có công trình
nghiên cứu khoa học nào ở cấp tỉnh làm rõ vai trò của nông dân Bắc Giang và
việc phát huy vai trò của nông dân Bắc Giang trong quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Vì vậy, vấn đề phát huy vai trò
của nông dân trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
ở Bắc Giang hiện nay rất cần được quan tâm nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích
Làm rõ vai trò của nông dân Bắc Giang trong sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực


9
trạng thực hiện vai trò và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của
đội ngũ này trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở
Bắc Giang thời gian tới.
- Nhiệm vụ
Thứ nhất, làm rõ quan niệm về vai trò của nông dân, tình hình nông dân
Bắc Giang, tính tất yếu phải phát huy vai trò của đội ngũ này; và về sự nghiệp

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bắc Giang hiện nay. Từ đó đánh
giá vai trò của nông dân trong sự nghiệp đó.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của nông dân
Bắc Giang trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của nông dân
trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện vai trò của nông
dân trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bắc
Giang hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Từ khoảng năm 2002 đến nay, tức là từ khi thực hiện Nghị quyết số 15-
NQTW của Hội nghị TW 5, khóa IX, về đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 (ngày18-3-2002).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt
Nam về nông dân.
- Về phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện luận văn,
tác giả sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, lôgic - lịch sử và so


10
sánh, trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu đã có, nhất là kế thừa kết quả
khảo sát thực tế và tổng kết thực tiễn của các cơ quan, ban, ngành thuộc
tỉnh Bắc Giang.
6. Đóng góp chính của luận văn

- Làm rõ vai trò của nông dân Bắc Giang trong sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nông dân
Bắc Giang trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc hình thành được nhận thức đúng đắn về
vai trò của nông dân Bắc Giang. Từ đó giúp lãnh đạo địa phương đưa ra
những chủ trương, giải pháp tiếp tục phát huy vai trò của nông dân trong sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Giang hiện nay.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy ở trường chính trị tỉnh; và có thể dùng làm tài liệu tham khảo
nghiên cứu ở các cấp uỷ đảng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội
Nông dân Việt Nam tỉnh Bắc Giang.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương với 4 tiết.


11
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ VAI TRÕ CỦA NÔNG DÂN,
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ TÌNH HÌNH
NÔNG DÂN BẮC GIANG HIỆN NAY

1.1. Khái luận về vai trò của nông dân, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn Bắc Giang hiện nay
1.1.1. Khái luận về vai trò nông dân
1.1.1.1. Về giai cấp nông dân
Giai cấp nông dân hình thành trong quá trình tan rã của chế độ chiếm

hữu nô lệ. Sự tồn tại của giai cấp nông dân gắn liền với hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Do đó, giai cấp nông dân giữ một vai trò quan trọng trong đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội. Đặc biệt, ở nhiều quốc gia, khi công
nghiệp và đô thị chưa phát triển, vai trò của nông dân được quan tâm đặc biệt.
Ở xã hội phương Đông, nông dân là giai cấp đóng vai trò quan trọng nhất còn
ở phương Tây, giai cấp nông dân dưới con mắt của những nhà lý luận thuộc
phái trọng nông được đánh giá cao.
Tuy vậy, nhìn chung, trước C.Mác trong cách nhìn của nhiều nhà tư
tưởng thuộc giai cấp thống trị, giai cấp nông dân chỉ là công cụ để sai khiến
và bóc lột. Chỉ đến khi học thuyết C.Mác được hình thành, và được bổ sung,
phát triển bằng chủ nghĩa Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì mới có cách tiếp
cận đúng về giai cấp nông dân.
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về nông dân. Chẳng hạn, theo
từ điển tiếng Việt, nông dân được định nghĩa là “Người lao động sống bằng
nghề làm ruộng” [50, tr.266]. Theo từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học thì
“Nông dân là một giai cấp chuyên sản xuất những sản phẩm nông nghiệp trên
cơ sở tư hữu tư nhân hoặc sở hữu hợp tác xã về tư liệu sản xuất và tham gia
sản xuất bằng lao động của chính mình. Là một giai cấp đặc biệt, giai cấp


12
nông dân hình thành trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và
quá trình phát triển của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và tồn tại cho tới khi
xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản” [49, tr.217].
Qua đó có thể thấy, nông dân là một bộ phận dân cư lao động gắn liền
với sản xuất nông nghiệp, có thu nhập chính từ lao động nông nghiệp. Xét về
bản chất xã hội và địa vị của giai cấp nông dân thì họ vừa là những người lao
động, vừa là những người sở hữu tư liệu sản xuất.
Chính vì vậy, trong học thuyết của mình trên cơ sở nghiên cứu về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tập trung chú

ý nhiều đến vấn đề các bạn đồng minh của giai cấp công nhân, đặc biệt là giai
cấp nông dân. C.Mác cho rằng, “Nông dân là giai cấp những người tiểu
nông”. “Tiểu nông là một khối quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên
đều sống trong một hoàn cảnh như nhau, nhưng lại không nằm trong những
mối quan hệ nhiều mặt đối với nhau. Phương thức sản xuất của họ không làm
cho họ liên hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau” [30, tr.264]. “Tiểu
nông mà chúng ta nói ở đây là chỉ những người chủ ruộng đất hoặc người tá
điền - và nhất là người chủ - một mảnh ruộng không lớn hơn mảnh ruộng mà
họ thường có thể cày cấy với gia đình họ, và cũng không bé hơn mảnh ruộng
cần thiết để nuôi gia đình họ: Như vậy, cũng như người tiểu thủ công, người
tiểu nông này là một người lao động, anh ta khác với người vô sản hiện đại ở
chỗ anh ta còn có tư liệu lao động; như vậy anh ta là tàn dư của một phương
thức sản xuất đã lỗi thời”.
Trong tác phẩm Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894) Ph.Ăngghen
(1820-1895) cho rằng, đây là một giai cấp không thuần nhất, và chia nông
dân thành 3 nhóm xã hội lớn: tiểu nông, trung nông và đại nông. Ông chỉ rõ
“tính hai mặt của tiểu nông”: Với tư cách là người lao động họ có nguy cơ bị
phá sản, bị rơi vào hàng ngũ vô sản; với tư cách người tư hữu nhỏ, họ lo sợ
sự chuyển giao ruộng đất vào tay toàn thể xã hội. Về kinh tế, mỗi gia đình
nông dân là một đơn vị kinh tế gần như tự túc hoàn toàn, tự mình sản xuất ra


13
đại bộ phận những cái mình tiêu dùng, tự cung cấp cho mình tư liệu sinh
hoạt, bằng cách trao đổi với tự nhiên nhiều hơn là trao đổi với xã hội. Về xã
hội, do điều kiện kinh tế như vậy nên nông dân vừa là một giai cấp vừa
không phải là một giai cấp. Họ là một giai cấp nếu ta tính sinh hoạt kinh tế
của họ giống nhau, khác với giai cấp khác và những gia đình họp thành làng,
xã, quận, tỉnh. Nhưng họ không họp thành giai cấp khi xét họ chỉ có những
mối liên hệ địa phương, chứ không có mối liên hệ toàn quốc và rộng hơn

nữa [32, tr. 713-746].
Về chính trị, tư tưởng, họ không có khả năng tổ chức ra những tổ chức
chính trị của riêng mình. Họ không có khả năng đại biểu cho lợi ích của chính
họ, mà họ cần phải có người khác đại biểu cho họ. Trong xã hội tư sản, có sự
thống nhất giữa nông dân và tư sản khi CNTB đang lên. Khi CNTB phát triển
thì phát sinh mâu thuẫn giữa tư sản và nông dân. Nhà nước tư sản trở thành
công cụ mà giai cấp tư sản sử dụng để đẩy người nông dân ra khỏi đồng
ruộng của họ, biến họ thành vô sản. Và nông dân tất yếu phải liên minh với
giai cấp vô sản.
Theo V.I. Lênin (1870-1924), cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản, các tầng lớp lao động ở nông thôn bao gồm giai cấp vô sản nông nghiệp,
những người nửa vô sản hay những người nông dân ít có ruộng, tầng lớp tiểu
nông và trung nông gộp lại với nhau cấu thành những tầng lớp khác nhau của
giai cấp nông dân.
Tóm lại, có thể quan niệm nông dân là những người lao động cư trú ở
nông thôn, sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, và bằng các ngành, nghề mà tư
liệu sản xuất chính là đất đai; ở mức độ khác nhau, họ có quyền sở hữu về
ruộng đất; và đóng vai trò trực tiếp, chủ yếu trong quá trình phát triển của nông
nghiệp và nông thôn. Những người này hình thành nên giai cấp nông dân.
1.1.1.2. Về vai trò của nông dân
Vai trò của nông dân rất được coi trọng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, nhất là tại các nước kém hoặc đang phát triển tiến thẳng lên CNXH. Để


14
phát huy vai trò của nông dân trong quá trình đưa giai cấp này tiến lên chủ
nghĩa xã hội (CNXH) thông qua các hợp tác xã (HTX), theo Ph.Ăngghen,
phải tuân thủ 3 nguyên tắc: không được dùng bạo lực, tự nguyện, và giúp đỡ
nông dân đi lên CNXH, như có chính sách ưu tiên cho các HTX về tài chính,
máy móc, phân bón. Riêng đối với trung nông, nên để họ tự rút ra kết luận và

Nhà nước XHCN sẽ giúp họ chuyển qua phương thức sản xuất mới. Nếu họ
không đi theo CNXH thì cũng không được dùng bạo lực, mà kêu gọi những
người làm công của họ hưởng ứng cuộc cải biến XHCN, và với sự phát triển
kinh tế họ sẽ mở mang đầu óc thủ cựu của họ. Đối với tư sản nông nghiệp: có
thể tước đoạt tài sản; việc bồi thường hay không bồi thường tùy thuộc vào
điều kiện khi thiết lập chính quyền mới và tùy thuộc vào thái độ của chính
người chiếm hữu nhiều ruộng đất [32, tr.713-746]. V.I.Lênin, trong tác phẩm
Bàn về chế độ hợp tác xã cho rằng, trong thời kỳ CNTB nhà nước, HTX cũng
là một hình thức của CNTB nhà nước nhưng đơn giản hơn. Theo V.I.Lênin,
điều kiện để chế độ HTX của nông dân thành công và phát huy được vai trò
của nông dân ở một nước tiểu nông là: 1/ giai cấp công nhân nắm chính
quyền; 2/ Nhà nước nắm các tư liệu sản xuất chủ yếu; 3/ giai cấp công nhân
phải liên minh và lãnh đạo giai cấp nông dân; 4/ Nhà nước phải có chính sách
phù hợp cho các HTX được hưởng những “ưu đãi thuần túy vật chất”; 5/ Nhà
nước kiểm soát được sự kết hợp lợi ích tư nhân và lợi ích chung của nông
dân; 6/ sự tham gia tự nguyện của nông dân vào HTX [29, tr.421-429].
Hồ Chí Minh (1890 - 1969) và Đảng cộng sản Việt Nam, trên cơ sở vận
dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng,
trong điều kiện Việt Nam, nông dân có tinh thần yêu nước sâu sắc, và là lực
lượng cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và
tiến lên CNXH. Với địa vị xã hội như vậy, nông dân có điều kiện thực hiện và
phát huy vai trò của minh, trước hết trong phát triển nông nghiệp và nông
thôn. Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam tập trung làm rõ các quan
điểm đưa nông dân vào con đường làm ăn hợp tác nhằm khắc phục tình trạng


15
tự cung tự cấp, phân tán biệt lập của kinh tế tiểu nông; đồng thời thúc đẩy xã
hội hóa sản xuất nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn nói chung. Thông qua
đó nâng cao địa vị xã hội của nông dân; và nhờ đó phát huy vai trò của nông

dân thuận lợi hơn trong quá trình phát triển nông nghiệp và các ngành nghề
sản xuất phi nông nghiệp, phát triển đời sống tinh thần phong phú của nông
dân trên cơ sở bảo tồn, phát triển truyền thống văn hóa dân tộc ở nông thôn.
Trong quá trình đưa nông dân đi lên CNXH, Đảng và Nhà nước Việt
Nam đã thực hiện cải cách ruộng đất nhằm trước tiên thực hiện mục tiêu
“người cày có ruộng”. Trên cơ sở đó phát huy vai trò của nông dân trên con
đường làm ăn hợp tác với các hình thức từ thấp đến cao (tổ đổi công, HTX
bậc thấp, HTX bậc cao, nông trường). Trong công cuộc đổi mới đất nước, để
xây dựng các quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất của nông dân, Đảng và Nhà nước đã thực hiện các chủ trương “khoán
100” vào năm 1981, “khoán 10” vào năm 1988; và hiện nay đang thực hiện
chủ trương “dồn điển đổi thửa”, xây dựng “cánh đồng mẫu lớn” nhằm đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Chính nông dân là lực lượng trực
tiếp thực hiện các chủ trương đổi mới đó. Thông qua đó đã thúc đẩy tính tích
cực, chủ động ở người nông dân không chỉ trong sản xuất nông nghiệp, phát
triển kinh tế nông thôn, mà cả trong việc thực hiện dân chủ và xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở nông thôn.
Từ thực tiễn nêu trên có thể thấy vai trò của nông dân được xác định
trên cơ sở địa vị xã hội (hay vị thế xã hội - social status) tương ứng. Địa vị xã
hội của nông dân (hay của một giai cấp, tầng lớp xã hội, kể cả của các cá
nhân) được xác định trên cơ sở vị trí xã hội của nó. Vị trí xã hội của nông dân
chính là vị trí tương đối của họ trong cơ cấu xã hội. Vị trí tương đối này được
xác định trong sự đối chiếu và so sánh với vị trí xã hội của các giai cấp, tầng
lớp xã hội khác, như vị trí xã hội của công nhân hay trí thức.
Mỗi xã hội đều có cách nhìn riêng về các vị trí xã hội của các giai cấp,
tầng lớp xã hội hay của các cá nhân xã hội. Những cách nhìn đó là cơ sở để


16
xác định các quyền lợi và trách nhiệm nhất định của vị trí xã hội. Chẳng hạn,

xã hội tư sản nhìn nhận nông dân chỉ là tầng lớp xã hội đại diện cho một
phương thức sản xuất lỗi thời và sớm hay muộn bị phá sản hay vô sản hóa.
Quyền lợi, trách nhiệm, và do đó, vị trí xã hội của nông dân được xác định
theo cách nhìn nhận như vậy.
Vị trí xã hội gắn với những quyền lợi và trách nhiệm kèm theo thì tạo
thành địa vị xã hội. Nói cách khác, địa vị xã hội là một khái niệm tổng hợp
dùng để chỉ vị trí xã hội cùng với những quyền lợi và trách nhiệm tương ứng
với vị trí đó.
Vai trò chính là phương diện vận động của địa vị xã hội. Và vai trò
luôn luôn biến đổi phù hợp với sự thay đổi của địa vị xã hội. Chẳng hạn cũng
là nông dân, nhưng vai trò của nó trong điều kiện địa vị xã hội là xã viên
HTX khác với vai trò trong điều kiện địa vị xã hội là nông dân nhận ruộng
khoán; hay cũng là nông dân nhận ruộng khoán, nhưng vai trò trong điều kiện
đất nước chưa thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển và vai trò trong
điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH là không tương đồng nhau.
Để thực hiện và thể hiện địa vị xã hội của mình phù hợp với các quyền
và trách nhiệm cũng như vị trí xã hội của mình, nông dân cần phải thực hiện
những hoạt động nhất định. Tức là tương ứng với địa vị xã hội, sẽ có một hệ
thống (hay mô hình) các hoạt động xã hội được xã hội mong đợi đối với nông
dân. Hệ thống các hoạt động xã hội được xã hội mong đợi đối với nông dân
chính là vai trò của nông dân tương ứng với địa vị xã hội của nó.
Vậy có thể quan niệm vai trò xã hội của nông dân là: hệ thống các hoạt
động xã hội được xác lập một cách khách quan, căn cứ vào đòi hỏi và cách
nhìn nhận của xã hội đối với vị trí xã hội của nông dân, để thực hiện các
quyền và trách nhiệm tương ứng với vị trí xã hội đó.
Cơ sở khách quan đề xác lập các hoạt động xã hội của nông dân là: tư
liệu sản xuất chủ yếu là đất đai; vừa là người lao động vừa là người sở hữu
nhỏ đối với ruộng đất; lao động và đời sống gắn trực tiếp với nông nghiệp và



17
nông thôn. Sự đòi hỏi và cách nhìn nhận của xã hội đối với vị trí xã hội của
nông dân, một mặt, không tách rời những cơ sở khách quan đó. Đồng thời,
mặt khác, chủ yếu phải xuất phát từ trình độ và định hướng (đường lối) phát
triển chung của xã hội cũng như chính sách, luật pháp của Nhà nước.
Ngoài ra, các yếu tố, như truyền thống văn hóa, quan hệ giữa nông
dân với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác, cũng tác động đến việc xác định
những đòi hỏi và cách nhìn nhận của xã hội đối với nông dân. Thí dụ, ở địa
vị là xã viên HTX trong cơ chế tập trung bao cấp, quyền lợi và trách nhiệm
của xã viên HTX chủ yếu được xem xét trong mối quan hệ giữa xã viên
HTX và Nhà nước; còn trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH như hiện nay, quyền và trách nhiệm của nông
dân nhận ruộng khoán được xác định không chỉ thông qua mối quan hệ với
Nhà nước, mà thông qua cả quan hệ với cơ chế thị trường; hay cụ thể hơn, là
thông qua mối quan hệ và liên kết “4 nhà”: nhà nông, Nhà nước, nhà khoa
học và doanh nghiệp.
Trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò
của nông dân Việt Nam, trong đó có nông dân Bắc Giang, được nâng cao,
được thể chế hóa thành quyền và trách nhiệm ngày càng cụ thể hơn, phù hợp
với quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Nhìn chung, nông dân Việt Nam, trong đó có nông dân Bắc Giang, có các vai
trò sau trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn:
- Nông dân là chủ thể tham gia tích cực và sáng tạo vào quá trình xây
dựng quy hoạch và trực tiếp thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH.
Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi có nguồn lực để
phát triển bao gồm vốn, khoa học công nghệ và con người, trong đó nhân tố
con người mà ở đây là người nông dân giữ một vai trò quan trọng. Nông dân
là người trực tiếp tham gia sản xuất, đưa giống lúa mới, cây trồng, vật nuôi và
canh tác trên mảnh đất của mình. Khi tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp,



18
nông thôn việc đưa máy móc vào sản xuất để tăng năng suất, hiệu quả và thời
gian lao động nhưng máy móc không thể thay thế con người. Nông dân chính
là người sử dụng máy móc làm công cụ lao động. Không có nông dân thì máy
móc hiện đại cũng không được sử dụng. Nông dân đã cải tiến công cụ lao
động của mình cho phù hợp với hoạt động sản xuất. Do vậy, họ chính là chủ
thể đóng vai trò tham gia tích cực và sáng tạo vào quá trình xây dựng quy
hoạch và trực tiếp thực hiện quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH.
- Nông dân là chủ thể tham gia tích cực và sáng tạo vào quá trình xây
dựng quy hoạch và đóng vai trò chủ yếu, trực tiếp thực hiện quy hoạch xây
dựng mô hình nông thôn mới theo hướng CNH, HĐH.
Quá trình xây dựng nông thôn mới đòi hỏi phải có sự đóng góp của
đông đảo bộ phận nông dân, bởi không ai khác chính nông dân là người sinh
sống trên mảnh đất của họ, người nông dân tham gia đóng góp sức lực và trí
tuệ để biến những chủ trương chính sách về xây dựng nông thôn mới trở
thành hiện thực. Việc thực hiện quy hoạch xây dựng mô hình nông thôn mới
theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi người nông dân đóng góp công sức, của cải,
nông dân tự nguyện hiến đất để xây dựng công trình giao thông, thủy lợi, quy
hoạch cơ sở hạ tầng để tiên hành đô thị hóa nông thôn…Nếu nông dân không
tham gia đóng góp công sức, không tự nguyện bỏ ra mảnh đất, thửa ruộng
mình đang sống, chắc chắn việc quy hoạch sẽ gặp nhiều khó khăn. Như vậy,
nông dân có vai trò to lớn là chủ thể tham gia tích cực và sáng tạo vào quá
trình xây dựng quy hoạch, đóng vai trò chủ yếu, trực tiếp thực hiện quy hoạch
xây dựng mô hình nông thôn mới theo hướng CNH, HĐH.
- Nông dân là chủ thể tham gia tích cực, sáng tạo vào việc xây dựng
đời sống văn hóa - xã hội và môi trường lành mạnh ở nông thôn trên cơ sở
bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa ở địa phương.

Hiện nay đất nước đang trong quá trình đổi mới với sự phát triển của
kinh tế thị trường. Để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước chúng ta phải


19
tiến hành hội nhập kinh tế và văn hóa, nhất là đối với khu vực nông thôn. Quá
trình hội nhập văn hóa có nhiều điểm tích cực, bên cạnh giá trị văn hóa truyền
thống, chúng ta có thể học tập, tiếp thu những giá trị văn minh nhân loại. Tuy
nhiên, cũng có một số yếu tố văn hóa đi ngược lại với thuần phong mĩ tục
cũng dân tộc, đi ngược với lợi ích của nhân dân, trong dó có một bộ phận lớn
giới trẻ, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Do đó, trong xây dựng đời sống văn
hóa – xã hội của nông dân gặp nhiều khó khăn, hơn ai hết, chính bản thân
người nông dân phải tích cực, chủ động tiếp thu các yếu tố văn hóa đó, thấy
đâu là giá trị thiết thực, đâu là những yếu tố văn hóa không phù hợp để đấu
tranh bài trừ loại bỏ. Việc bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa địa
phương là việc làm thiết thực trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa –
xã hội và môi trường lành mạnh, làm cho cuộc sống của nông dân được ấm
no hạnh phúc mà chính nông dân là chủ thể tham gia tích ực và chủ động nhất.
- Nông dân là nhân tố góp phần quan trọng vào việc xây dựng hệ thống
chính trị - xã hội vững mạnh, thực hiện dân chủ, bảo đảm an toàn toàn xã hội
ở cơ sở nông thôn.
Nông dân là người trực tiếp tiếp thu và đưa những chủ trương chính sách,
pháp luật của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống. Việc tuân thủ đúng pháp luật,
đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng và phát triển kinh tế ổn định đời sống cũng
góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Khi phát hiện sai sót nông
dân báo lên chính quyền để giải quyết, hay ở địa phương xảy ra mẫu thuẫn
chính người nông dân tự giải quyết bằng tình làng nghĩa xóm, góp phần làm
nên nông thôn dân chủ, văn minh, đảm bảo an toàn xã hội tại địa phương.
Những yếu tố quy định vai trò của nông dân bao gồm:
- Đường lối, chủ trương, chính sách luật pháp của Đảng và Nhà nước

về nông nghiệp, nông thôn, nông dân
Để nông dân có thể yên tâm thực hiện vai trò của mình, Đảng và Nhà
nước cần có đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật về nông nghiệp,
nông thôn và nông dân. Cụ thể:


20
Đảng và Nhà nước lãnh đạo xây dựng quy hoạch tổng thể đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với chiến lược phát
triển của đất nước. Ra các nghị quyết về phát triển các ngành, các lĩnh vực, các
vùng, các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc trong nông nghiệp, nông thôn; xác
định những vấn đề trọng điểm cần tập trung thực hiện trong mỗi giai đoạn.
Đảng và Nhà nước lãnh đạo thực hiện chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội ở vùng nông thôn, lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng cân đối giữa công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ gắn với xóa đói, giảm
nghèo, tạo cơ sở kết cấu hạ tầng hiện đại, phát triển y tế, giáo dục, xây dựng
môi trường thuận lợi tạo tiền đề thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài để
phát triển nông thôn. Xác định vùng trọng tâm, trọng điểm.
Lãnh đạo khai thác nguồn lực ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, phát
huy nội lực của địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm
nghèo, Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Nhà nước cụ thể hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng thành
chiến lược, chương trình, kế hoạch của Nhà nước về đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong từng giai đoạn và hằng năm
để xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp tổ Tổ chức
thực hiện nhằm đạt được mục tiêu trong từng giai đoạn
Lãnh đạo các ban, ngành đẩy nhanh các hoạt động thực hiện nghị quyết
của Trung ương về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giúp đỡ các địa phương thực hiện
thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, văn

hóa - xã hội ở ở địa bàn nông thôn
Lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy các cấp, các ngành tích cực, chủ động, sáng
tạo trong quán triệt nghị quyết của Đảng, kế hoạch của Nhà nước; xây dựng
nghị quyết và tổ chức thực hiện có hiệu quả nghị quyết của cấp mình; tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ từ cơ sở trong đẩy nhanh công nghiêp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn.


21
– Bản thân người nông dân
Nông dân có ý thức làm chủ cao, tích cực tham gia vào các cuộc sinh
hoạt chính trị chung của cộng đồng, các phong trào quần chúng. Tiếp thu, hiểu
biết về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Nông dân cần cù chịu khó trong lao động, có tư tưởng, ý thức chấp hành pháp
luật tốt. Đây là điều kiện để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn tạo điều kiện thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo của tỉnh.
Trong sản xuất nông nghiệp, đa số nông dân đã chuyển sang sản xuất
hàng hoá đa dạng hóa các loại hình sản xuất. Nông dân không chỉ trồng lúa
mà còn kết hợp với chăn nuôi gia súc, gia cầm…
– Bản thân sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Bản thân sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
cũng có ý nghĩa thiết thực quy định vai trò của nông dân. Bởi vì, nhờ có sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mà nông dân mới ý
thức được về bản thân mình, mới hăng hái thực hiện chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước. Và trong điều kiện như vậy, buộc nông dân phải có ý
thức tham gia công cuộc xây dựng nông thôn mới, phát triển sản xuất để đáp
ứng nhu cầu của bản thân và theo kịp thời đại.
1.1.2. Khái luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
1.1.2.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn
CNH, HĐH là hai quá trình nối tiếp, đan xen nhau. Để có được lực
lượng sản xuất phát triển như hiện nay, các nước Tây Âu và Mỹ đã trải qua
thời kỳ CNH khá lâu rồi sau đó tiến hành HĐH. Có thể hiểu HĐH là quá trình
chống lại sự tụt hậu về kinh tế. Như vậy, xét về mặt lịch sử quá trình CNH
diễn ra trước quá trình HĐH. Tuy nhiên sự phân chia này chỉ mang tính chất
tương đối; trên thực tế luôn có sự đan xen, tác động qua lại giữa hai quá trình
CNH và HĐH.


22
CNH là quá trình mang tính lịch sử. Nhân loại đã trải qua hai cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật: Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất gắn
với quá trình chuyển từ lao động thủ công lên lao động cơ khí, từ đó xuất hiện
khái niệm công nghiệp hóa. Đã có một thời CNH được hiểu theo nghĩa là quá
trình phát triển công nghiệp, tạo ra cơ sở vật chất – kĩ thuật cho nền kinh tế
của một nước.
Quan niệm đơn giản nhất về CNH cho rằng: “CNH là đưa đặc tính
công nghiệp cho một hoạt động, trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà
máy, các loại công nghiệp” [9, tr.19]. Quan niệm này được hình thành trên cơ
sở khái quát lịch sử công nghiệp hóa ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong
quá trình thực hiện CNH, các nước này chủ yếu tập trung và phát triển các
ngành công nghiệp. Sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã hội khác
chỉ là hệ quả của quá trình công nghiệp chứ không phải đối tượng trực tiếp
của công nghiệp hóa.
Trong sách báo về “Kinh tế Liên Xô” (đầu những năm 50 của thế kỉ
XX) có viết: “Công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ
khí có khả năng cải tạo cả công nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng
với ngành trung tâm là chế tạo máy, từ sự tập trung vào phát triển công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng, tỉ trọng công nghiệp trong tổng sản

phẩm của xã hội ngày càng tăng” [9, tr.25]. Quan niệm này xuất phát từ thực
tế của Liên Xô: khi công nghiệp hóa công nghiệp đã phát triển đến một trình
độ nhất định, dù trong thời kỳ nội chiến chúng bị tàn phá nặng nề, chủ nghĩa
đế quốc bao vây, sự trợ giúp từ bên ngoài không có gì, thị trường trong nước
là nền tảng cho sự phát triển kinh tế. Trong bối cảnh ấy, để tồn tại và phát
triển, Liên Xô phải tiến hành công nghiệp hóa với nhịp độ nhanh, phải tập
trung phát triển công nghiệp nặng, phải hướng vào các ngành công nghiệp
phục vụ nông nghiệp nhằm đảm bảo nhu cầu trong nước. Quan niệm này
được gọi là hợp lý trong điều kiện Liên Xô thời kì đó.


23
Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc
(UNIDO) đưa ra định nghĩa: “Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển
kinh tế trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy
động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với công nghiệp hóa hiện
đại, để chế tạo ra các phương tiện sản xuất hàng tiêu dùng, có khả năng đảm
bảo nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ xã
hội” [36, tr.32]. Quan niệm này cho thấy quá trình CNH bao trùm toàn bộ quá
trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự phát triển mà còn cả
sự tiến bộ về mặt xã hội.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước và tham khảo kinh nghiệm
thế giới, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) của Đảng
(1/1994) đã chỉ ra rằng: “Công nghiệp hóa không đơn giản là tăng thêm tốc
độ và tỉ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà còn là quá trình
chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ tạo nền tảng cho
sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân” [16, tr.37].
Như vậy, CNH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một

cách phổ biến sức lao động dựa trên sự phát triển của công nghiệp cơ khí và
điện tử - tin học.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai gắn với quá trình chuyển
từ lao động cơ khí lên lao động dựa trên công cụ tự động hóa, sử dụng rộng
rãi người máy và những công nghệ hiện đại khác, từ đó xuất hiện khái niệm
hiện đại hóa. HĐH là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa
học và công nghệ tiên tiến hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, HĐH và CNH là hai khái niệm khác nhau. HĐH là khái
niệm dùng để chỉ việc đưa một lĩnh vực hoạt động, một nền kinh tế, một xã
hội đạt đến trình độ phát triển hiện đại. Ở một ý nghĩa nhất định, HĐH là khái

×