Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Thông tin Khuyến nông Việt Nam 2 (2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.32 MB, 31 trang )

1
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
SỐ 2/2014 THÔNG TIN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Đ
ể chủ động trong công tác hộ đê, phòng,
chống lụt, bão năm 2014 và hạn chế đến
mức thấp nhất thiệt hại do mưa, lũ, bão gây ra đối
với những vùng được đê bảo vệ, ngày 01 tháng 4
năm 2014, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành
Chỉ thị số 1074/CT-BNN-TCTL gửi Chủ tịch Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương có đê về việc tăng cường công tác quản lý
đê điều và chuẩn bị sẵn sàng hộ đê, chống lụt năm
2014. Nội dung cụ thể như sau:
1. Hoàn thành công tác tu bổ, duy tu bảo
dưỡng đê điềuvà công trình đangthi công
liênquanđếnđêđiều
- Chỉ đạo tăng cường kiểm tra, đôn đốc, phát
hiện và giải quyết kịp thời các khó khăn vướng
mắc để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành việc tu bổ,
nâng cấp đê, duy tu bảo dưỡng chống xuống cấp
hệ thống đê điều đảm bảo chất lượng, kịp thời đưa
công trình vào chống lũ năm 2014, trong đó đặc biệt
quan tâm đến việc xử lý các sự cố đã xảy ra trong
mùa lũ trước.
- Huy động nguồn lực của địa phương để chủ
động xử lý những sự cố phát sinh đột xuất trong
mùa lũ, bão và tu bổ thêm đối với các hạng mục cần
thiết khác nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các sự


cố khi có lũ, bão.
- Đối với các công trình đang thi công liên quan
đến đê điều: UBND các tỉnh chỉ đạo Sở Nông
nghiệp và PTNT phối hợp chặt chẽ với UBND cấp
huyện và các đơn vị liên quan chỉ đạo các nhà thầu
tập trung mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ để hoàn
thành xong trước mùa lũ bão và có phương án bảo
đảm an toàn cho công trình khi có lũ, bão.
2.Đảmbảo antoàncáccốngdướiđêtrong
lũ,bão
- Tổ chức kiểm tra, rà soát, đánh giá chất lượng
các cống dưới đê để phát hiện các cống đã hết thời
gian sử dụng, các cống bị hư hỏng để sửa chữa,
hoành triệt cống tạm thời hoặc hoành triệt vĩnh viễn.
Đối với những cống xung yếu có phương án bảo
vệ do cấp có thẩm quyền phê duyệt và giao nhiệm
vụ cụ thể để chủ động chuẩn bị các điều kiện và tổ
chức thực hiện. Đối với những cống không đảm bảo
an toàn phải hoành triệt trước mùa lũ, bão 2014,
cần chủ động lập phương án tưới (hoặc tiêu) hỗ
trợ để giảm bớt mức độ ảnh hưởng do việc hoành
triệt cống.
- Việc sử dụng cống dưới đê trong mùa lũ phải
chấp hành nghiêm ngặt quy trình đóng, mở. Đối với
những cống chưa có quy trình, Sở Nông nghiệp và
PTNT phải xây dựng và trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt trước mùa lũ, bão để áp dụng ngay trong
năm 2014.
- Đối với những cống do các công ty quản lý và
khai thác công trình thủy lợi quản lý hoặc thuộc các

công trình đầu mối liên tỉnh, liên huyện, đơn vị chủ
quản phải có quy chế, phân công trách nhiệm cụ
thể, phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị và địa phương
trong việc thực hiện phương án bảo vệ, xử lý các
sự cố.
- Đối với những cống dưới đê không thuộc hệ
thống thủy nông, giao cho UBND quận, huyện chỉ
định ngay người trực tiếp quản lý, vận hành và giao
cho Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức tập huấn cho
người quản lý về quy trình vận hành để nắm vững
và thực hiện.
- Đối với những cống qua đê mới được xây dựng
nhưng chưa được làm việc trong điều kiện có lũ cao
hoặc cống đang xây dựng (từ các nguồn vốn khác
nhau), những cống đã xảy ra sự cố trong lũ những
năm trước cần phải xây dựng phương án bảo vệ cụ
thể để chủ động xử lý khi có sự cố xảy ra.
CHỈ THỊ VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐÊ ĐIỀU
VÀ CHUẨN BỊ SẴN SÀNG HỘ ĐÊ, CHỐNG LỤT NĂM 2014
2
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
THÔNG TIN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP SỐ 2/2014
3.Chủđộng,chuẩnbịsẵnsànghộđêtrong
lũ,bão
- Chỉ đạo Sở Nông nghiệp và PTNT phối hợp
với các huyện tiến hành tổng kiểm tra đánh giá
chất lượng đê điều, phát hiện những hư hỏng, các
yếu tố bất lợi có nguy cơ đe dọa an toàn đê điều,
xây dựng phương án hộ đê tương ứng với từng

tuyến, từng khu vực trọng điểm theo phương châm
“4 tại chỗ” (vật tư, hậu cần, lực lượng và chỉ huy
tại chỗ); phối hợp chặt chẽ với lực lượng quân đội
đóng trên địa bàn để chuẩn bị hộ đê theo phương
án và kế hoạch được duyệt.
- Chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các cấp, các sở,
ban, ngành của tỉnh, thành phố theo chức năng,
chủ động triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn
cho đê, đặc biệt là các vị trí đê xung yếu; chuẩn bị
sẵn sàng tổ chức phương án hộ đê trong điều kiện
có bão, lũ lớn, lũ cực lớn, đặc biệt là phương án
chống tràn.
- Căn cứ phương án hộ đê năm 2014, chuẩn
bị đủ số lượng, chủng loại vật tư dự trữ hộ đê cho
từng tuyến. Ngoài số vật tư dự trữ của Nhà nước
hiện có trên địa bàn, cần có kế hoạch huy động vật
tư trong nhân dân cho trường hợp có sự cố xảy
ra (kể cả vật tư, thiết bị của các doanh nghiệp, cơ
quan đóng trên địa bàn).
- Trước lũ tiểu mãn năm 2014, phải chỉ đạo,
tổ chức diễn tập phương án hộ đê, kiểm tra việc
chuẩn bị vật tư, lực lượng, phương tiện, kỹ thuật,
chỉ huy và thông tin hai chiều để bổ khuyết kịp thời
những thiếu sót, tồn tại. Tập huấn nghiệp vụ cho
các lực lượng tham gia hộ đê, đặc biệt là lực lượng
quân đội được bố trí trên địa bàn xong trước ngày
30/5/2014.
- Tổ chức lực lượng, thực hiện nghiêm túc việc
tuần tra canh gác đê theo cấp báo động; thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc công tác tuần tra, canh gác

ở các tuyến đê để phát hiện và xử lý đảm bảo an
toàn cho đê, kè, cống được kịp thời ngay từ giờ
đầu; bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt và báo
cáo kịp thời khi công trình xảy ra sự cố.
4.Côngtácquảnlýđêđiều
- Tăng cường kiểm tra, rà soát tình hình vi phạm
pháp luật về đê điều trên địa bàn, kiên quyết xử lý
dứt điểm các hành vi vi phạm, ngăn chặn vi phạm
mới. Các hành vi vi phạm phải được xử lý nghiêm
minh theo quy định của pháp luật. Chỉ đạo kiểm tra
việc chấp hành quyết định cho phép của chủ đầu
tư các công trình được cấp phép theo quy định của
Luật Đê điều.
- Mọi hành vi lấn chiếm mặt đê, mái đê, hành
lang bảo vệ đê gây ảnh hưởng đến an toàn đê và
khả năng thoát lũ phải được giải tỏa xong trước
ngày 15/5/2014.
- Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 447/CT-TTg
ngày 25/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc
tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về đê điều và
quản lý việc khai thác, vận chuyển, kinh doanh cát
sỏi gây ảnh hưởng đến an toàn đê điều và ý kiến
chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung
Hải tại văn bản số 7248/VPCP-KTN ngày 20/9/2012
của Văn phòng Chính phủ■
BBT (gt)
3
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
SỐ 2/2014 THÔNG TIN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

N
gày 8/3/2014, tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm
Đồng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT
Lê Quốc Doanh, Trưởng Ban chỉ đạo tái canh cà
phê đã chủ trì cuộc họp Ban chỉ đạo tái canh cà
phê. Ngày 28/3/2014, Văn phòng Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã có Thông báo số 1642/TB-BNN-VP về
kết luận của Thứ trưởng tại cuộc họp. Nội dung cụ
thể như sau:
1.ĐốivớicácđơnvịthuộcBộ
- Cục Trồng trọt: Là đầu mối theo dõi, tổng hợp
kế hoạch, kết quả tái canh cà phê của các địa
phương; chủ trì phối hợp với Vụ Khoa học Công
nghệ và Môi trường, Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam giúp các địa phương xây dựng kế hoạch
quản lý, sản xuất giống cà phê phục vụ tái canh.
- Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường: Chủ
trì kiểm tra đôn đốc Viện Khoa học Nông nghiệp
Việt Nam thực hiện đề tài nghiên cứu nguyên nhân
chính gây chết cà phê tái canh và đề xuất giải pháp
khắc phục để sớm có quy trình tái canh cà phê phù
hợp hơn cho một số vùng sinh thái.
Chỉ đạo triển khai dự án khuyến nông tái canh
cà phê theo hướng tăng cường tuyên truyền kỹ
thuật tái canh, các mô hình tái canh đã thành công
trên phương tiện thông tin đại chúng để nhân rộng
trong sản xuất.
- Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp: Gấp
rút hoàn thành Đề án tái canh cà phê trình Bộ phê
duyệt trong tháng 4/2014.

- Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên tiếp
tục phối hợp với các địa phương triển khai Dự án
phát triển giống cà phê, tập trung nhân và chuyển
giao nhanh các giống cà phê có năng suất, chất
lượng cao đã được Bộ công nhận để cung cấp cho
các địa phương làm nguồn giống đầu dòng.
2.ĐốivớiSởNôngnghiệpvàPTNTcáctỉnh
códiệntíchcàphêtáicanh
- Đối với các tỉnh có diện tích tái canh cà phê
lớn, nghiên cứu đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh
thành lập cơ quan thường trực (Sở Nông nghiệp và
PTNT) chỉ đạo việc tái canh cà phê trên địa bàn để
giúp quản lý, điều hành kế hoạch tái canh cà phê.
Điều tra, khảo sát, thu thập, xây dựng cơ sở dữ
liệu thông tin phục vụ tái canh đến cấp xã để xây
dựng kế hoạch và dự án tái canh hàng năm phù
hợp với điều kiện thực tế, tránh tái canh cà phê theo
phong trào.
- Củng cố lại các vườn đầu dòng cà phê được
đầu tư từ ngân sách Nhà nước của các doanh
nghiệp để cung cấp nguồn giống đảm bảo chất
lượng cho sản xuất. Tiếp tục có cơ chế hỗ trợ các
tổ chức, cá nhân đủ điều kiện xây dựng vườn đầu
dòng, vườn ươm giống cà phê để cung cấp đủ
nguồn giống phục vụ trồng tái canh.
- Đẩy mạnh công tác quản lý chất lượng giống
và chuyển giao giống đảm bảo giống cà phê đủ tiêu
chuẩn chất lượng cho tái canh và ghép cải tạo.
- Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, hướng
dẫn người sản xuất chuẩn bị đầy đủ điều kiện vật

tư đầu vào, thực hiện đồng bộ các khâu trong quy
trình để giảm thiểu rủi ro cho người sản xuất khi tái
canh cà phê■
BBT (gt)
Ý KIẾN KẾT LUẬN
CỦA THỨ TRƯỞNG LÊ QUỐC DOANH
TẠI CUỘC HỌP BAN CHỈ ĐẠO
TÁI CANH CÀ PHÊ
4
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
SỰ KIỆN KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
N
gày 24/04/2014, tại TP. Vị
Thanh, tỉnh Hậu Giang,
Trung tâm Khuyến nông Quốc
gia phối hợp với Sở Nông nghiệp
và PTNT Hậu Giang tổ chức
Diễn đàn Khuyến nông @ Nông
nghiệp, chuyên đề “Nâng cao
hiệu quả sử dụng phân bón trên
đất phèn vùng Đồng bằng sông
Cửu Long”.
Ban chủ tọa Diễn đàn gồm
TS. Phan Huy Thông - Giám đốc
Trung tâm Khuyến nông Quốc
gia, ông Nguyễn Văn Đồng -
Giám đốc Sở Nông nghiệp và
PTNT Hậu Giang, GS. Ngô Ngọc

Hưng - Trường Đại học Cần Thơ.
Ban cố vấn Diễn đàn là các nhà
quản lý, nhà khoa học chuyên
ngành thuộc Viện Lúa Đồng bằng
sông Cửu Long, Viện Cây ăn quả
miền Nam, Trung tâm Nghiên
cứu Đất và Môi trường phía Nam,
Trường Đại học Cần Thơ.
Diễn đàn có sự tham dự của
470 đại biểu là đại diện lãnh đạo
Trung tâm Khuyến nông 14 tỉnh
vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL), 250 nông dân các tỉnh
trong vùng, các doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh phân bón.
Tổ chức Diễn đàn này nhằm
đưa ra những giải pháp quản
lý, khống chế đất phèn, phương
pháp sử dụng các sản phẩm
phân bón cho cây trồng để hạn
chế đất phèn, nâng cao hiệu
quả sản xuất bởi vùng ĐBSCL
chỉ có khoảng 1,2 triệu ha đất
phù sa, còn lại gần 2,5 triệu ha
đất phèn, mặn, riêng diện tích
đất phèn chiếm khoảng 1,6 triệu
ha. Phần lớn diện tích đất phèn
ở ĐBSCL tập trung ở vùng Đồng
Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên,
bán đảo Cà Mau và một phần

của Tây Nam sông Hậu. Những
nỗ lực cải tạo, khai thác đất phèn
dùng cho mục đích sản xuất nông
lâm nghiệp đã bắt đầu từ những
năm 1960 và rất mạnh mẽ từ
thập niên 1980 đến nay. Cùng
với phát triển hệ thống thủy lợi
dẫn ngọt xả phèn, các biện pháp
kỹ thuật như cày ải vụ xuân, luân
canh cây trồng lúa - màu, bón vôi
cải tạo đồng ruộng hệ thống
khuyến nông đã hướng dẫn, giúp
đỡ bà con trong việc cải tạo đất
phèn hiệu quả như bón vôi, lân,
lựa chọn giống, kỹ thuật canh
tác, sử dụng phương pháp sạ
ngầm đặc biệt là kỹ thuật bón
phân cải tạo đất trên đất phèn.
Những phương pháp trên cơ bản
đã khống chế được đất phèn tiềm
tàng, sau 30 năm đã cải tạo được
khoảng 260.000 ha. Thực tế hiện
nay đất phèn hoạt động lại có xu
hướng tăng do thực hiện biện
pháp luân canh, canh tác không
hợp lý. Từ những giải pháp đã
làm, trong đó phương pháp sử
dụng phân bón cho cây trồng
phải kết hợp đồng bộ để hạn
chế đất phèn, nâng cao hiệu quả

sản xuất.
Kết luận Diễn đàn, TS. Phan
Huy Thông - Giám đốc Trung tâm
Khuyến nông Quốc gia đã đánh
giá cao công tác tổ chức của
Diễn đàn, đây là Diễn đàn thu hút
sự quan tâm của nhiều cơ quan
nghiên cứu khoa học, sự tham
gia đông đảo của bà con nông
dân các tỉnh vùng ĐBSCL. Nhiều
Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp:
“Nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón trên đất phèn
vùng Đồng bằng sông Cửu Long”
Toàn cảnh diễn đàn
5
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
N
gày 02/4/2014, Trung
tâm Khuyến nông Quốc
gia đã tổ chức kiểm tra mô
hình canh tác lúa giảm phát
thải khí nhà kính tại xã Thanh
Tân, huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình. Mô hình thuộc Dự
án “Chương trình nâng cao
năng lực trong chiến lược giảm
phát thải khí nhà kính” (LEDS)

thuộc chương trình hợp tác giữa
Trung tâm Khuyến nông Quốc
gia và Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Tham gia đoàn kiểm tra có
TS. Hạ Thúy Hạnh, TS. Trần
Văn Khởi - Phó Giám đốc Trung
tâm Khuyến nông Quốc gia, ông
Michael Ward - tùy viên Nông
nghiệp, bà Nguyễn Thị Hường
- chuyên viên Văn phòng Nông
nghiệp, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại
Việt Nam, ông Merle Anders
- giảng viên Trường Đại học
Nông nghiệp Arkansas.
Mô hình sản xuất lúa giảm
phát thải khí nhà kính có diện tích
10 ha với sự tham gia trực tiếp
của 73 hộ nông dân xã Thanh
Tân. Mô hình sử dụng giống lúa
TBR45 gieo sạ vụ đông xuân
2013 - 2014 và chăm sóc theo
quy trình canh tác lúa giảm phát
thải khí nhà kính, trong đó chú
trọng biện pháp điều tiết nước
và phân bón hợp lý.
Tại thời điểm kiểm tra, lúa
đang trong thời gian đẻ nhánh,
sinh trưởng và phát triển tốt,
cây lúa cứng cáp, không có biểu
hiện sâu bệnh. Mực nước trung

bình trên cánh đồng mô hình
là 3 - 5 cm. Cây lúa đẻ nhánh
nhanh hơn, tốt hơn ruộng đối
chứng ngoài mô hình.
Ông Dương Văn Vinh, Trạm
trưởng Trạm Khuyến nông
huyện Kiến Xương khẳng định:
Đến thời điểm này, bà con đã
tiếp nhận và có phản hồi tốt về
Dự án, có sự đồng thuận cao
trong việc triển khai Dự án, áp
dụng kỹ thuật tưới khô ướt xen
kẽ và các biện pháp bón phân
hợp lý.
Đại diện Trung tâm Khuyến
nông Quốc gia, TS. Hạ Thúy
Hạnh ghi nhận quá trình thực
hiện mô hình Dự án của địa
phương và đề nghị các bên liên
quan tiếp tục triển khai thực
hiện theo đúng nội dung và tiến
độ Dự án, đặc biệt cần sớm tổ
chức các cuộc hội thảo đầu bờ
để nhân rộng mô hình.
Ông Merle Anders và ông
Michael Ward đánh giá cao và
hài lòng với kết quả thực hiện
mô hình cũng như quá trình tổ
chức thực hiện Dự án tại Việt
Nam và mong muốn với Dự án

này bà con nông dân xã Thanh
Tân sẽ tiếp tục thực hiện tốt
và nhân rộng mô hình để góp
phần tăng hiệu quả kinh tế, góp
phần giảm phát thải khí nhà
kính trong sản xuất lúa của địa
phương nói riêng và Việt Nam
nói chung■
NGUYỄNTHỊSÂM
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
TRUNG TÂM KHUYẾN NÔNG QUỐC GIA:
KIỂM TRA MÔ HÌNH CANH TÁC LÚA
GIẢM PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH TẠI THÁI BÌNH
Kiểm tra mô hình tại xã Thanh Tân, huyện Kiến Xương
báo cáo khoa học được thông tin tại
Diễn đàn (40 báo cáo) đã cung cấp
lượng thông tin rất cần thiết cho cán
bộ khuyến nông và bà con nông dân.
Qua các báo cáo trình bày và 46 câu
hỏi thảo luận giữa Ban cố vấn và các
đại biểu, để nâng cao hiệu quả sử
dụng phân bón trên đất phèn vùng
ĐBSCL, Trung tâm Khuyến nông
Quốc gia đề nghị các tỉnh trong vùng
cần tập trung thực hiện đồng bộ các
nhóm vấn đề sau:
Thứ nhất, cần nhận thức rõ hơn
về đất phèn vùng ĐBSCL vì đây là
vùng ven biển nên bị ảnh hưởng xâm
nhập mặn, tác động xấu đến sản xuất

nông nghiệp. Từ đó quá trình canh
tác phải có nhiều giải pháp để rửa
phèn, ém phèn.
Thứ hai, Nhà nước cần quan tâm
đầu tư các hệ thống đê bao, xây
dựng hệ thống thủy lợi hợp lý nhằm
thau chua rửa mặn phèn và tránh
xâm nhập mặn. Xây dựng và hoàn
chỉnh hệ thống giao thông, cầu cống,
bến bãi cho các vùng đất phèn.
Thứ ba, lựa chọn giống và nhóm
giống cây trồng thích ứng với đất
phèn. Sử dụng các giống cây trồng
có khả năng kháng phèn, chịu phèn.
Sử dụng hệ thống hữu cơ vi sinh
nhằm tăng cường kháng hữu cơ, làm
giảm độc tố trong đất phèn.
Thứ tư, thiết kế cải tạo đồng
ruộng và kỹ thuật làm đất, kỹ thuật
canh tác phù hợp nhằm hạn chế độc
phèn và tăng hiệu suất sử dụng phân
bón. Bố trí thời vụ để hạn chế thời
điểm phèn lên cao.
Thứ năm, áp dụng biện pháp giảm
độc phèn và cải thiện độ phì nhóm
đất phèn: Đối với đất lúa tăng cường
hiệu quả bón phân, bón vôi; đối với
đất canh tác cây trồng cạn phải lên
liếp, có mương xả phèn, xả lũ, bón
vôi, bón phân hữu cơ khác■

THUHẰNG
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
6
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
N
gày 21/3/2014, tại Trung tâm Tập huấn
và Chuyển giao công nghệ Nông nghiệp
Nam Bộ - Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, trong
khuôn khổ Dự án “Nguồn lợi ven biển vì sự phát
triển bền vững (CRSD)”, Trung tâm Khuyến nông
Khuyến ngư Sóc Trăng phối hợp với Ban quản lý
Dự án CRSD tỉnh Sóc Trăng tổ chức hội thảo “Tổng
kết các mô hình nuôi trồng thủy sản đa dạng hóa
theo hướng VietGAP”. Tham dự hội thảo, có đại
diện Ban quản lý Dự án CRSD, Trung tâm Khuyến
nông Khuyến ngư Sóc Trăng, Chi cục Nuôi trồng
thủy sản Sóc Trăng, Trạm Khuyến nông thị xã Vĩnh
Châu và nông dân thuộc 3 hợp tác xã nuôi trồng
thủy sản của 2 xã Vĩnh Tân, Lai Hòa và phường
Vĩnh Phước tham gia triển khai mô hình.
Dự án CRSD thực hiện từ năm 2012 - 2017 do
Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ, triển khai tại 8
tỉnh trong đó có Sóc Trăng. Với mục tiêu nhằm cải
thiện công tác quản lý nghề cá ven bờ theo hướng
bền vững tại các tỉnh duyên hải, Dự án có 4 hợp
phần trong đó có hợp phần “Thực hành tốt trong
nuôi trồng thủy sản bền vững”. Thông qua các hoạt

động của hợp phần này, Ban quản lý Dự án đã hỗ
trợ cho các hộ dân tại 4 địa phương (huyện Cù Lao
Dung, Mỹ Xuyên, Trần Đề và thị xã Vĩnh Châu) xây
dựng các mô hình trình diễn nuôi trồng thủy sản
bền vững theo hình thức nuôi luân canh và nuôi
theo hướng VietGAP. Tại hội thảo, các đại biểu đã
nghe báo cáo kết quả thực hiện mô hình nuôi luân
canh cua biển, cá kèo, artemia tại thị xã Vĩnh Châu
và huyện Cù Lao Dung; các mô hình nuôi tôm thẻ
chân trắng VietGAP tại huyện Mỹ Xuyên và Trần
Đề và cùng trao đổi, thảo luận những thuận lợi,
khó khăn và các vấn đề liên quan từ các mô hình
đã thực hiện do Dự án hỗ trợ. Thông qua mô hình,
Toàn cảnh hội thảo
TTKNQG: HỘI THẢO TỔNG KẾT MÔ HÌNH
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN ĐA DẠNG HÓA
THEO HƯỚNG VIETGAP
TUYÊN QUANG: TẬP HUẤN CHĂN NUÔI LỢN
THEO VIETGAHP
Thực hiện chương trình đào tạo huấn luyện
khuyến nông năm 2014 của Trung tâm Khuyến nông
Quốc gia, vừa qua, Trung tâm Khuyến nông Tuyên
Quang đã tổ chức lớp tập huấn “Kỹ thuật chăn nuôi
lợn theo VietGAHP”.
Tham gia lớp tập huấn có 30 học viên là cán bộ
khuyến nông huyện phụ trách xã, cán bộ nông lâm
nghiệp xã và các hộ chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh.
Trong 5 ngày tập huấn, các học viên đã được truyền
tải các kiến thức về quy trình kỹ thuật thực hành
chăn nuôi tốt trong chăn nuôi lợn (VietGAHP), từ

khâu quản lý chuồng trại, con giống, thức ăn, nước
uống, vệ sinh thú y, công tác phòng chống dịch bệnh
đến ghi chép, quản lý hồ sơ, truy nguyên nguồn
gốc… Đồng thời, lớp tập huấn còn tổ chức cho các
học viên đi tham quan một số mô hình chăn nuôi lợn
đảm bảo vệ sinh môi trường trên địa bàn tỉnh.
Sau lớp tập huấn, các học viên sẽ là người trực
tiếp hướng dẫn, giúp các hộ chăn nuôi tại cơ sở
nắm vững kiến thức để vận dụng trong sản xuất,
nhằm hướng tới một nền sản xuất an toàn và
bền vững.
LÊTHỊTHUHƯỜNG
Trung tâm Khuyến nông Tuyên Quang
ý thức sản xuất của người dân đã từng bước được
cải thiện và nâng lên đáng kể. Cũng tại hội thảo,
ông Văng Đắt Phuông - Q. Giám đốc Trung tâm Tập
huấn và Chuyển giao công nghệ Nông nghiệp Nam
Bộ đã khẳng định lợi thế phát triển nuôi thủy sản
nước lợ nói chung và lợi thế nuôi cua biển, artemia
nói riêng tại thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Vĩnh Long.
HOADUYHẢI
Trung tâm Tập huấn và Chuyển giao công nghệ
Nông nghiệp Nam Bộ
7
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
BÌNH THUẬN: GIÚP NGƯ DÂN CÓ TÀU THUYỀN
ĐĂNG KIỂM TÀU CÁ

T
oàn tỉnh Bình Thuận hiện có 7.617 tàu cá,
trong đó có hơn 5.000 tàu có công suất từ
20 CV trở lên. Theo quy định, tàu cá có công suất từ
20 CV trở lên phải được kiểm tra an toàn kỹ thuật để
gia hạn đăng kiểm và gia hạn giấy phép khai thác.
Việc kiểm tra an toàn kỹ thuật tàu cá bao gồm:
thân tàu, máy, các trang thiết bị hàng hải, khai thác
thủy sản và các trang thiết bị đòi hỏi nghiêm ngặt về
an toàn lắp đặt trên tàu cá. Cán bộ Chi cục Thủy sản
Bình Thuận không chỉ đến từng địa phương, cảng cá
mà còn ra tận huyện đảo Phú Quý để giúp ngư dân
kiểm tra, xác định và làm thủ tục cấp, gia hạn đăng
kiểm ngay trên bến cá.
Bình Thuận là một trong những tỉnh ven biển dẫn
đầu cả nước về việc đăng kiểm tàu cá. Trong năm
2013, Chi cục Thủy sản (thuộc Sở Nông nghiệp và
PTNT) đã tiến hành đăng kiểm trong toàn tỉnh với số
lượng 4.511 tàu cá có công suất trên 20 CV được
cấp giấy phép đăng kiểm đạt trên 90% tổng số tàu
thuyền đang hoạt động khai thác thủy sản. Với số
lượng tàu thuyền rất lớn, nên cán bộ đăng kiểm của
Chi cục Thủy sản hầu như phục vụ ngư dân quanh
năm. Công việc đăng kiểm tàu cá bắt đầu từ tháng
2 đến tháng 12 trong năm, lịch đề ra được thực hiện
cuốn chiếu từ Phan Thiết (nơi có trụ sở Chi cục Thủy
sản tỉnh) và cuối cùng đến huyện Tuy Phong. Cán bộ
đăng kiểm còn năng nổ đi theo các đội tàu đánh cá
ở vùng biển xa (Ninh Thuận, Bà Rịa Vũng Tàu, Côn
Sơn, Hoàng Sa, Trường Sa…) để kịp thời kiểm tra,

trang bị bổ sung an toàn trên tàu, tạo điều kiện cao
nhất cho ngư dân và các tàu cá yên tâm đánh bắt.
THANHTHỦY-NGỌCBẢY
N
hằm trang bị cho cán bộ khuyến nông kiến
thức, kỹ năng, kỹ thuật sản xuất thâm canh
cây cà phê chè để tập huấn, hướng dẫn cho nông
dân trồng và sản xuất cà phê đúng quy trình kỹ
thuật và mang lại hiệu quả kinh tế cao, vừa qua
Trung tâm Khuyến nông Sơn La đã tổ chức tập
huấn TOT về kỹ thuật thâm canh cây cà phê chè
cho 30 cán bộ khuyến nông các trạm thành phố
Mai Sơn và Thuận Châu.
Trong 5 ngày tập huấn, học viên được tìm hiểu
về cây cà phê chè; quy trình, kỹ thuật thâm canh
cây cà phê chè như kỹ thuật nhân giống, trồng,
chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh hại; thu
hoạch, chế biến và bảo quản Lớp tập huấn dành
phần lớn thời gian để học viên thực hành kỹ thuật
thiết kế vườn ươm, lựa chọn, ngâm ủ hạt giống,
kỹ thuật đóng bầu, cấy cây con vào bầu, chuẩn bị
vật liệu che phủ; phương pháp sử dụng thước chữ
A thiết kế nương cà phê trồng mới và băng cây
xanh theo đường đồng mức chống xói mòn trên
đất dốc; kỹ thuật trồng xen, trồng cây che bóng
trong vườn cà phê; đào hố bón phân trước khi
trồng; chọn cây giống đạt tiêu chuẩn, kỹ thuật bón
phân cân đối cho từng thời kỳ sinh trưởng và phát
triển; kỹ thuật ủ phân hữu cơ bằng chế phẩm vi
sinh; cách nhận biết hạt cà phê chế biến đạt chất

lượng cao, phương pháp bảo quản cà phê sau
chế biến Học viên còn được thực hành kỹ thuật
cưa, đốn tỉa cành, tạo tán, đốn trẻ hóa và đốn cây
cà phê khi bị sương muối gây hại. Đặc biệt học
viên được thực hành kỹ năng thuyết trình và đứng
lớp, thảo luận nhóm để sau khi tập huấn, trở về cơ
sở sẽ trở thành những giảng viên tập huấn, hướng
dẫn kỹ thuật cho nông dân.
Với những kết quả đạt được qua lớp tập huấn,
tin rằng các học viên sẽ vận dụng sáng tạo những
kiến thức và kinh nghiệm đã tiếp thu vào thực tiễn
công việc chuyên môn; góp phần nâng cao năng
suất, chất lượng và vị thế cà phê Sơn La trên thị
trường trong nước, khu vực và Quốc tế.
VÕTHỊVÂNANH
Trung tâm Khuyến nông Sơn La
Sử dụng thước chữ A thiết kế nương cà phê trồng mới
và băng cây xanh theo đường đồng mức
chống xói mòn trên đất dốc
SƠN LA: TẬP HUẤN TOT VỀ KỸ THUẬT THÂM CANH
CÂY CÀ PHÊ CHÈ
Cán bộ đăng kiểm đang kiểm tra tàu cá
8
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
8
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM

HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
HÀ NAM: TẬP HUẤN NÂNG CAO KIẾN THỨC
TRỒNG TRỌT, THỦY SẢN
T
rung tâm Khuyến nông Hà Nam đã tổ chức
tập huấn nâng cao kiến thức chuyên ngành
trồng trọt, thủy sản cho đội ngũ khuyến nông viên
cơ sở ở các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh.
Trong thời gian tập huấn các học viên đã được
học tập và chia sẻ nội dung liên kết trong sản xuất
cây trồng hàng hóa gắn với tiêu thụ sản phẩm như:
lúa Nhật Japonica; cà rốt an toàn; nuôi chạch đồng,
trắm đen.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Hà
Nam Nguyễn Thị Vang nhấn mạnh, khuyến nông
viên cơ sở là một bộ phận của hệ thống khuyến
nông có nhiệm vụ chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
trực tiếp cho nông dân. Vì vậy, khuyến nông viên
phải thường xuyên được đào tạo, tập huấn nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng tốt
yêu cầu công tác. Sau khi tham gia tập huấn, với
những kiến thức có được, học viên sẽ chuyển tải
những tiến bộ kỹ thuật mới cho nông dân ở các địa
phương, giúp nông dân thay đổi tư duy chuyển từ
phương thức sản xuất truyền thống sang sản xuất
theo hướng hàng hóa gắn với tiêu thụ sản phẩm, từ
đó góp phần nâng cao kiến thức cho người dân áp
dụng vào sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao.
HIỀNMAI

Trung tâm Khuyến nông Hà Nam
CÀ MAU: TIẾP TỤC THÍ ĐIỂM BẢO HIỂM
TRÊN TÔM NUÔI
N
gày 1/4, UBND tỉnh Cà Mau tổng kết tình
hình thực hiện Quyết định số 315/TTg về thí
điểm bảo hiểm nông nghiệp 2011 - 2013 trên địa
bàn tỉnh. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Dũng chủ trì
hội nghị.
Tại Cà Mau, bảo hiểm được triển khai thí điểm
ở huyện Đầm Dơi, Cái Nước và TP. Cà Mau. Đến
nay, có 1.611 hộ tham gia bảo hiểm với tổng giá trị
bảo hiểm trên 410 tỷ đồng; tổng số phí bảo hiểm
trên 30 tỷ đồng; ngân sách hỗ trợ hơn 18 tỷ đồng;
người dân tham gia gần 12 tỷ đồng.
Số hồ sơ phát sinh thiệt hại đến thời điểm này
là 1.940 vụ, đã bồi thường 1.761 vụ, tổng giá trị bồi
thường trên 91 tỷ đồng. Hồ sơ chưa bồi thường là
179 vụ, tổng giá trị ước tính trên 13 tỷ đồng.
Phó Chủ tịch UBDN tỉnh Cà Mau Lê Dũng khẳng
định, người dân đã hưởng lợi rất lớn từ chính sách
này, đã giải quyết một phần cho người dân trong
việc tái sản xuất trên mô hình nuôi tôm công nghiệp
tại các xã thí điểm. Nếu như không có chủ trương
này, những hộ đã tham gia bảo hiểm phải đầu tư
khoảng 120 tỷ đồng để tái sản xuất. Với số tiền lớn
này, các hộ nghèo, cận nghèo khó mà vượt qua khó
khăn. Vì thế, Chính phủ nên tiếp tục chỉ đạo nhân
rộng để người nuôi tôm Cà Mau có điều kiện đầu tư
sản xuất bền vững.

THANH LONG
THÁI BÌNH: HỘI NGHỊ BÁO CÁO KHOA HỌC
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SẢN XUẤT VỤ MÙA 2013
V
ừa qua, Trung tâm Khảo nghiệm Khuyến
nông Khuyến ngư Thái Bình tổ chức hội nghị
báo cáo khoa học đánh giá kết quả sản xuất vụ
mùa 2013. Năm 2013, Trung tâm đã tiến hành khảo
nghiệm cơ bản 453 giống lúa, 134 giống ngô, 11
giống khoai tây, 11 giống đậu tương và một số giống
lạc, giống rau, khảo nghiệm sản xuất 57 giống lúa,
xây dựng 40 mô hình các loại tại 85 điểm trong toàn
tỉnh. Ngoài ra còn xây dựng mô hình nhân giống
khoai tây sạch bệnh từ củ nuôi cấy mô, mô hình sản
xuất muối, nấm, mây tre đan
Hội nghị đã nghe báo cáo tóm tắt kết quả khảo
nghiệm, mô hình điển hình, như báo cáo kết quả
khảo nghiệm cơ bản, khảo nghiệm sản xuất, sản
xuất củ giống khoai tây bằng nuôi cấy mô, mô hình
trình diễn giống Nam Ưu 209, TBR227, một số mô
hình chăn nuôi, thủy sản, báo cáo tổng kết vụ mùa
2013 của 8 huyện, thành phố Từ những kết quả
này, Trung tâm sẽ tổng kết và đề xuất với ngành
nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới, cũng như công
tác chỉ đạo sản xuất nông nghiệp. Đây là hội nghị
thường niên của đơn vị, sẽ được duy trì hàng năm,
hàng vụ.
NGUYỄNTHỊNGUYỆT
Trung tâm Khảo nghiệm
Khuyến nông Khuyến ngư Thái Bình

9
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
CAO BẰNG: TẬP HUẤN KỸ THUẬT TRỒNG
THÂM CANH CÂY MỠ
Đ
ể chuyển giao kỹ thuật trồng rừng và quản
lý rừng bền vững cho các hộ gia đình, Trung
tâm Khuyến nông Khuyến ngư Cao Bằng triển khai
mô hình trồng rừng thâm canh cây mỡ tại xã Minh
Khai, huyện Thạch An.
Quy mô mô hình 20 ha, có 20 hộ tham gia. Các
hộ tham gia mô hình được hỗ trợ giống, phân bón
và tập huấn kỹ thuật. Vừa qua, tại xã Minh Khai,
Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Cao Bằng đã
tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật trồng và chăm sóc
cây mỡ cho những người tham gia mô hình. Trong
thời gian tập huấn, các học viên đã được học tập và
chia sẻ những nội dung như: đặc điểm hình thái cây
mỡ, thời vụ trồng, chuẩn bị đất trồng, mật độ trồng,
tiêu chuẩn cây giống, cách đào hố, khoảng cách
hàng cách hàng, cây cách cây, Ngoài ra, các học
viên còn được tập huấn viên hướng dẫn thực hành
trồng cây ở ngoài thực địa theo phương pháp "cầm
tay chỉ việc".
Sau khi tham gia tập huấn, với những kiến thức
tiếp thu được, học viên sẽ áp dụng vào chính mô
hình của mình nhằm đạt được hiệu quả tối đa,

mang lại thu nhập kinh tế cho gia đình.
VĂNTHỌ
Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Cao Bằng
HÒA BÌNH: TẬP HUẤN KỸ THUẬT TRỒNG XEN
CÂY HỌ ĐẬU CẢI TẠO ĐẤT NÔNG NGHIỆP BẠC MÀU
Đ
à Bắc là một trong 2 huyện nghèo nhất tỉnh
Hòa Bình với 38% tỷ lệ hộ nghèo năm 2013.
Thu nhập chính của người dân còn ở mức thấp và
không ổn định, chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp,
như lúa, ngô, khoai sắn và một số cây lâm nghiệp.
Do chế độ canh tác chưa hợp lý, sử dụng phân bón
không cân đối, bón nhiều phân hóa học làm cho
đất thoái hóa, bạc màu, kèm theo đó chưa có biện
pháp cải tạo và bảo vệ đất lâu dài. Đặc biệt đất canh
tác của người dân chủ yếu là đất đồi, đất dốc, vì
vậy tốc độ xói mòn, rửa trôi đất diễn ra ngày càng
nhanh nếu không có biện pháp canh tác bền vững
hiệu quả.
Vừa qua, Trạm Khuyến nông Khuyến lâm huyện
Đà Bắc phối hợp cùng Ban quản lý chương trình hỗ
trợ phát triển cộng đồng tại Đà Bắc triển khai các
khóa tập huấn ngắn ngày (từ ngày 13/3 - 8/4/2014)
tại các xã vùng dự án: Hào Lý, Tu Lý, Hiền Lương.
Lớp tập huấn dành cho 90 học viên là hội viên Hội
Phụ nữ.
Tại lớp tập huấn, bà con được tìm hiểu về
nguyên nhân gây đất chai cứng bạc màu thoái hóa,
vai trò và lợi ích của cây họ Đậu trong việc cải tạo
đất, kỹ thuật thâm canh, luân canh, xen canh lạc,

đậu tương, trên đất đồi, đất ruộng với các loại cây
màu khác. Song song với lý thuyết, các học viên
được thực hành tại đồng ruộng giúp vận dụng tốt
kiến thức được áp dụng vào sản xuất thực tế tại
nông hộ. Qua đó, tại mỗi xã, chị em phụ nữ sẽ thực
hiện 2 - 3 loại mô hình canh tác trồng xen cây họ
Đậu với ngô, mía, để tuyên truyền phổ biến trong
cộng đồng, nhân rộng, khuyến khích người dân cải
tạo đất và đảm bảo việc canh tác bền vững trên
đất dốc.
TRỊNHTHANHHÒA
Trạm Khuyến nông Khuyến lâm Đà Bắc, Hòa Bình

BÌNH ĐỊNH: HUYỆN HOÀI NHƠN ĐƯỢC MÙA,
ĐƯỢC GIÁ LÚA ĐÔNG XUÂN 2013 - 2014
V
ụ đông xuân 2013 - 2014, huyện Hoài Nhơn,
tỉnh Bình Định gieo sạ 5.849,4 ha lúa. Trong
đó, có 357 ha lúa chân cao sạ cưỡng, 3.087,6 ha
canh tác 3 vụ lúa/năm và 2.404,8 ha canh tác 2 vụ
lúa/năm. Hiện đang thời điểm thu hoạch lúa, nông
dân rất phấn khởi vì được mùa, năng suất trung bình
6,42 tấn/ha, một số diện tích đạt gần 8 tấn/ha, cánh
đồng mẫu lớn năng suất khoảng 7,2 - 7,5 tấn/ha.

Theo thống kê, năng suất này cao hơn khoảng 2%
so với vụ đông xuân 2012 - 2013.
Đạt được kết quả này là nhờ vào sự nỗ lực của
ngành nông nghiệp huyện và sự nhất trí cao của
nông dân. Cơ cấu giống gieo sạ của vụ tương đối

đồng đều, có đến 7% diện tích được gieo sạ giống
lúa lai, 91% diện tích gieo giống nguyên chủng
và giống cấp 1. Đồng thời, đã tập trung các giải
pháp thâm canh trên đồng ruộng, thường xuyên dự
báo sâu, bệnh và hướng dẫn nông dân phòng trừ
hiệu quả.
Bên cạnh được mùa thì giá lúa hiện nay được
thương lái thu mua tại địa phương từ 6.600 -
6.800 đồng/kg nên nông dân cũng phấn chấn hơn.
Với mức giá này, người nông dân cầm chắc thu
nhập từ 1.500.000 - 1.700.000 đồng/sào (500 m
2
)
canh tác lúa.
NGUYỄNBÍCHĐÀO
Văn phòng Huyện ủy Hoài Nhơn - Bình Định
Học viên thực hành trồng cây mỡ tại thực địa
10
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
ĐỒNG NAI: HỘI THẢO VỀ TẤM LỢP SINH THÁI
VÀ ĐỆM LÓT SINH HỌC TRONG CHĂN NUÔI
N
gày 28/3/2014, tại huyện Thống Nhất, tỉnh
Đồng Nai, Phòng Nông nghiệp và PTNT
huyện phối hợp với Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai
tổ chức hội thảo “Tấm lợp sinh thái và đệm lót sinh
học trong chăn nuôi”. Tham dự hội thảo có đại diện

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Sở Nông nghiệp
và PTNT Đồng Nai, Ủy ban nhân dân huyện Thống
Nhất, các nhà khoa học cùng hơn 150 hộ chăn nuôi
lợn trên địa bàn huyện.
Hội thảo đã tập trung bàn bạc và trao đổi các
giải pháp kỹ thuật giúp hộ chăn nuôi nâng cao hiệu
quả sản xuất, giảm tối đa ô nhiễm môi trường. Đó
là sử dụng triệt để các sản phẩm phụ trong chăn
nuôi nhằm giảm giá thành, nâng cao năng suất; tiết
kiệm nước trong chăn nuôi, góp phần bảo vệ môi
trường sinh thái. Mô hình trang trại chăn nuôi của
anh Nguyễn Văn Chiểu với việc dùng đệm lót sinh
học kết hợp với tấm lợp sinh thái làm từ vỏ hộp giấy
đựng sữa đã cho kết quả rất tốt. Việc sử dụng đệm
lót sinh học trong chăn nuôi giảm hẳn mùi hôi thối
do phân lợn thải ra, hạn chế được sự phát triển của
những loài vi khuẩn có hại. Hơn nữa, việc sử dụng
đệm lót sinh học giúp giảm công chăm sóc, tiết kiệm
điện, nước, tạo điều kiện cho hộ dân ít đất sản xuất
có thể chăn nuôi, cải thiện kinh tế. Ngoài ra, việc
nuôi heo trên đệm lót sinh học giúp hạn chế việc
sử dụng kháng sinh để phòng và điều trị bệnh cho
đàn heo nên sản phẩm tạo ra bảo đảm vệ sinh an
toàn thực phẩm, đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng.
NGUYỄNVĂNBẮC
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
QUẢNG NAM: THẢ TÔM CÀNG XANH ĐỂ TÁI TẠO
NGUỒN LỢI THỦY SẢN
Tôm càng xanh giống để tái tạo nguồn lợi thủy sản

N
hân kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống
Ngành Thủy sản (1/4/1959 - 1/4/2014), Trung
tâm Giống thủy sản Quảng Nam đã tổ chức thả
50 kg tôm càng xanh mẹ (100 con/kg) và 20 kg tôm
càng xanh bố (100 con/kg) xuống sông Tam Kỳ để
tái tạo nguồn lợi thủy sản. Đây là lượng tôm càng
xanh bố mẹ do Trung tâm sản xuất. Tôm càng xanh
là một trong những loài đặc sản nước ngọt có giá trị
kinh tế cao, chất lượng thịt thơm, ngon, bổ dưỡng
hiện đang được thị trường ưa chuộng. Thời gian
gần đây trong khi nhu cầu của thị trường ngày càng
tăng thì sản lượng tôm càng xanh tự nhiên giảm
mạnh do quá trình khai thác quá mức cùng nguồn
nước ở các sông bị ô nhiễm ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình sinh trưởng, phát triển của tôm càng
xanh trong tự nhiên. Theo ông Bùi Quang Minh -
Giám đốc Trung tâm Giống thủy sản Quảng Nam
cho biết: "Thời gian qua nhận thấy thị trường đang
có nhu cầu cao về giống tôm càng xanh, Trung tâm
đã tiến hành nghiên cứu môi trường sống, quá trình
sinh trưởng phát triển của tôm càng xanh và đã cho
đẻ, ương nuôi thành công tôm càng xanh giống,
cung cấp cho thị trường". Việc sản xuất thành công
giống tôm càng xanh đã tạo bước ngoặc lớn cho
nghề nuôi tôm nước ngọt trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam, đây là điều kiện thuận lợi để người nuôi chủ
động được nguồn giống tôm nuôi cũng như yên tâm
hơn về chất lượng con giống khi thả nuôi.
PHANTHỊLỆ

Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quảng Nam
SÓC TRĂNG: HỘI THẢO MÔ HÌNH CÁNH ĐỒNG MẪU
THEO HƯỚNG VIETGAP
N
gày 03/04/2014, Trung tâm Khuyến nông
Sóc Trăng đã tổ chức hội thảo mô hình
“Cánh đồng mẫu theo hướng VietGAP” tại ấp A2,
xã Thạnh Tân, huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng. Mô
hình thực hiện trên diện tích 80 ha với giống lúa
ST5. Tham gia hội thảo có hơn 50 nông dân đến
tham dự.
Mô hình được Trung tâm Khuyến nông Sóc
Trăng hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật “1 phải 5 giảm”
nhằm giảm chi phí, tăng lợi nhuận, bảo vệ sức khỏe
cộng đồng và hạn chế ô nhiễm môi trường. Giống
lúa ST5 có thời gian sinh trưởng 110 - 120 ngày,
chiều cao cây 110 - 115 cm, có khả năng kháng
mặn tốt. Năng suất mô hình trung bình đạt 8 tấn/ha.
Tại hội thảo, nông dân chia sẻ kinh nghiệm trong
quá trình canh tác: Cách tổ chức sản xuất tập trung
rất có lợi như việc thực hiện bơm nước tập trung,
xuống giống đồng loạt, xịt thuốc đồng loạt và có
nhật ký ghi chép sản xuất theo hướng VietGAP đã
giúp quản lý dịch hại trên đồng ruộng được thực
hiện một cách dễ dàng hơn so với sản xuất truyền
thống theo kiểu mạnh ai nấy làm. Thực hiện mô
hình cánh đồng mẫu, năng suất đạt cao hơn mọi
năm, bà con nông dân rất phấn khởi với giống lúa
ST5 nhưng còn nhiều lo lắng vì đầu ra khó khăn.
Đại diện Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng đã trả

lời những thắc mắc của bà con, đồng thời mong
muốn bà con tiếp tục tham gia cánh đồng mẫu lớn ở
những vụ tiếp theo để phát huy mối liên kết “4 nhà”,
đặc biệt là giữa nông dân với doanh nghiệp nhằm
tìm đầu ra ổn định.
Tại buổi hội thảo, nhiều ý kiến thắc mắc đã
được kỹ sư Võ Quốc Trung giải đáp rõ ràng. Hy
vọng trong những mùa vụ sau bà con duy trì cách tổ
chức cánh đồng mẫu liên kết giữa bà con với doanh
nghiệp và chính quyền địa phương.
NGÔTHẾNHỰT
Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng
Toàn cảnh hội thảo
11
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014
Đ
oàn cán bộ của Trung tâm
Khuyến nông Quốc gia do
TS. Hạ Thúy Hạnh làm trưởng
đoàn đã hướng dẫn và kiểm tra
việc triển khai mô hình chăn nuôi
đại gia súc nhằm giảm phát thải
khí nhà kính tại Thừa Thiên Huế.
Được sự hỗ trợ của Bộ
Nông nghiệp Hoa Kỳ, Trung tâm
Khuyến nông Quốc gia đã triển
khai mô hình chăn nuôi đại gia

súc nhằm giảm phát thải khí nhà
kính tại Hà Nội và Thừa Thiên
Huế. Cán bộ triển khai mô hình
đã được các giảng viên là chuyên
gia hàng đầu về lĩnh vực giảm
phát thải khí nhà kính trong chăn
nuôi đến từ Hoa Kỳ, Thái Lan
và Việt Nam tập huấn kỹ thuật,
hướng dẫn thực hành kỹ thuật
phối trộn thức ăn; ủ rơm với vôi,
urê; trồng và thu hoạch cây thức
ăn cho trâu, bò và tham quan học
tập mô hình chăn nuôi đại gia súc
nhằm giảm phát thải khí nhà kính
tại Thái Lan.
Chủ hộ chăn nuôi, anh Trần
Văn Hùng ở thôn Cư Chánh 2, xã
Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy,
tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết,
gia đình có truyền thống nuôi bò
thịt. Trong suốt 15 năm, gia đình
anh thường xuyên nuôi trên dưới
20 con bò nhưng chỉ nuôi theo
hình thức thả bò vào bãi, rừng để
chúng tự kiếm ăn, khi mùa đông,
mưa lụt, cho bò ăn rơm khô và
thỉnh thoảng hòa nước muối cho
bò uống. Sau khi được hướng
dẫn kỹ thuật chăn nuôi bò thịt
theo hướng giảm phát thải khí

nhà kính, anh đã biết tẩy giun sán
cho bò ngay sau khi mua bò về
nuôi thịt; áp dụng kỹ thuật ủ rơm
với vôi, urê; phối trộn thức ăn
tinh, phương pháp trồng và khai
thác cây thức ăn cho bò; đã theo
dõi khả năng tăng khối lượng của
bò thí nghiệm (cách đo và tính
khối lượng bò).
Anh Hùng vui vẻ nói: “Những
con bò được áp dụng kỹ thuật
của mô hình đã lớn nhanh hơn
rất nhiều so với những con bò
ngoài mô hình, từ nay tôi sẽ áp
dụng kỹ thuật này và phổ biến
cho bà con cùng áp dụng”.
Để khẳng định hiệu quả kinh
tế, xã hội, môi trường của mô
hình, chúng tôi vẫn tiếp tục theo
dõi khả năng tăng khối lượng của
đàn bò và phân tích lượng khí thải
từ phân bò thí nghiệm đồng thời
sẽ triển khai tập huấn cho các hộ
chăn nuôi đại gia súc trên địa bàn
về kỹ thuật chăn nuôi đại gia súc,
bổ sung thức ăn như rơm ủ urê,
vôi, cân đối khẩu phần thức ăn
tinh, trồng xen canh các loại cây
thức ăn cho trâu, bò Khi trâu,
bò ăn khẩu phần thức ăn hợp

lý, thức ăn sẽ được tiêu hóa triệt
để, tăng năng suất và chất lượng
sản phẩm chăn nuôi, chất thải sẽ
ít hơn, đặc biệt là hạn chế các
khí thải qua ợ hơi và đường tiêu
hóa, góp phần giảm phát thải khí
nhà kính■
TS.NGUYỄNTHỊLIÊNHƯƠNG
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Đoàn công tác đang phỏng vấn chủ hộ
Hướng dẫn, kiểm tra chủ hộ ủ rơm Hướng dẫn chủ hộ cho bò ăn
TRIỂN KHAI MÔ HÌNH CHĂN NUÔI
ĐẠI GIA SÚC
NHẰM GIẢM PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH
12
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014

huyện vùng cao Đà Bắc, trong những
năm trở lại đây, nhiều mô hình khuyến
nông, nhiều hộ nông dân đã phát triển nghề trồng
nấm sò trên rơm rạ, bã mía, lõi ngô… là nguồn
phụ phẩm còn đang sử dụng lãng phí sau mỗi vụ
thu hoạch. Mới đây, mô hình trồng nấm sò (nấm
bào ngư) bằng rơm rạ của Trạm Khuyến nông Đà
Bắc phối hợp cùng dự án hỗ trợ phát triển cộng
đồng tại Việt Nam có 07 hộ tham gia đã và đang
mang lại nguồn thu đáng kể cho kinh tế hộ, mở

ra một nghề mới cho nguồn lao động dồi dào tại
địa phương.
Mô hình được triển khai tại xóm Mít - xã Tu Lý
là một trong những xóm đồng bào dân tộc Dao
chiếm đa số, phương thức và trình độ canh tác còn
mang tính chất lạc hậu, manh mún. Từ khi triển khai
thực hiện mô hình, Trạm Khuyến nông huyện đã
tập huấn hướng dẫn các hộ từ khâu thu gom xử lý
nguyên liệu cho tới đóng bịch phôi, ươm tơ, chăm
sóc, thu hoạch bảo quản. Dự án hỗ trợ bà con vật
tư cần thiết, nhiều hộ trong xóm cơ bản nắm được
quy trình trồng nấm theo đúng yêu cầu kỹ thuật.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế và lợi ích từ mô
hình mang lại, huyện đã tổ chức hội nghị tổng kết
để làm cơ sở nhân rộng mô hình ra các xã lân cận
trong địa bàn huyện. Quan sát thực tế tại điểm trình
diễn, các hộ nông dân đều đánh giá cao kết quả
đạt được. Anh Triệu Văn Tư - hộ nông dân trực tiếp
thực hiện phấn khởi chia sẻ: "Mới đầu chưa làm
nghĩ là khó, nhưng khi bắt tay vào làm tôi thực hiện
theo đúng kỹ thuật được tập huấn từ lúc ủ rơm cho
tới lúc thu hoạch nên không bị hỏng bịch phôi nào.
Với 500 bịch phôi, lứa hái đầu thu được 60 kg, bán
đổ buôn cũng được 50.000 đồng/kg, hiện tại đang
ra tiếp lứa 2. Vụ tới tôi sẽ làm thêm nhà mái lá để
nhân rộng mô hình này. Theo tính toán nếu nuôi
1000 bịch phôi sau khi trừ chi phí sản xuất, trong 2
tháng thu lãi khoảng 8 triệu đồng. Đây là một khoản
thu nhập khá hơn rất nhiều so với tiền công đi làm
thuê ở xa nhà. Sau khi thu hoạch nấm, các bịch

phôi hỏng được ủ phân vi sinh để bón cho ngô, lúa
giảm được tiền phân bón".
Ông Nguyễn Văn Tuyển - Phó Chủ tịch UBND
xã Tu Lý cũng cho biết, trước đây ở địa bàn xã cũng
có một số hộ tự phát phát triển nghề nấm ở quy mô
nhỏ lẻ, đầu ra chủ yếu ngay tại địa phương, nguồn
nguyên liệu rơm rạ còn phụ thuộc vào mùa vụ trồng
lúa. Chưa có một tổ chức hay hợp tác xã quy mô
đứng ra phát triển trồng nấm thành một nghề ở
nông thôn. Hy vọng qua mô hình này, bà con trong
vùng tới tham quan học tập, thay đổi dần cách làm
ăn, tự bản thân sẽ vươn lên thoát nghèo bền vững.
Có thể nói rằng, nghề trồng nấm ở nước ta hiện
đang góp phần rất lớn trong công cuộc thay đổi bộ
mặt nông thôn, tạo ra nguồn thực phẩm sạch, giàu
giá trị dinh dưỡng. Tuy mới phát triển nhưng cây
nấm đã khẳng định chỗ đứng trong các loại mặt
hàng nông sản chủ lực. Ngoài một số loại nấm làm
dược liệu như linh chi, xích chi,… thì các loại nấm
thực phẩm như: mộc nhĩ, đông cô, nấm sò đang là
nguồn thu nhập chính của nhiều hộ nông dân■
TRỊNHTHANHHÒA
Trạm Khuyến nông Đà Bắc - Hòa Bình
Hòa Bình:
TỔNG KẾT MÔ HÌNH TRỒNG NẤM SÒ
TẠI XÃ TU LÝ
13
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG

SỐ 2/2014
N
hững năm gần đây, phát triển kinh tế rừng
đang trở thành một trong những hướng đi
mang lại hiệu quả kinh tế cho bà con nông dân trồng
rừng tỉnh Tuyên Quang. Nhiều hộ đã thoát nghèo
vươn lên có cuộc sống ổn định. Bên cạnh việc trồng
rừng thì công tác chăm sóc và bảo vệ rừng luôn là
vấn đề được bà con quan tâm thực hiện. Qua đó,
đã góp phần nâng độ che phủ rừng trên toàn tỉnh
Tuyên Quang đạt trên 64%.
Hiện nay, Tuyên Quang có gần 450.000 ha đất
lâm nghiệp, phân bố ở hầu hết các huyện, thành
phố trong tỉnh, trong đó diện tích rừng đặc dụng trên
47.000 ha, rừng phòng hộ hơn 127.120 ha, rừng
sản xuất gần 273.000 ha. Để phát huy lợi thế về đất
lâm nghiệp và phát triển diện tích rừng, chính quyền
các huyện, thành phố trong tỉnh đã chú trọng đến
công tác chăm sóc và bảo vệ rừng. Từ việc điều
chỉnh, quy hoạch 3 loại rừng (rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ và rừng sản xuất), các địa phương và
các cơ quan chức năng đã có kế hoạch bảo vệ và
chăm sóc những diện tích rừng hiện có, ngăn chặn
các hành vi xâm hại và chặt phá rừng bừa bãi, kiên
quyết không để các hộ gia đình sử dụng đất lâm
nghiệp sai mục đích để trồng các cây nông nghiệp
ngắn ngày. Qua đó, ý thức của người dân đã được
nâng lên, đây là một trong những yếu tố quyết định
để bảo vệ và phát triển rừng. Đi đôi với công tác
chăm sóc và bảo vệ diện tích rừng, hàng năm, việc

trồng mới và trồng lại rừng ở những diện tích đã
khai thác cũng được các địa phương chú trọng.
Triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án giao rừng
trồng gắn với giao đất lâm nghiệp thuộc Chương
trình 327 và Dự án 661 đã thực sự phát huy hiệu
quả, gắn kết được ý thức, trách nhiệm của người
dân trong việc bảo vệ và phát triển rừng. Nhờ vậy,
kế hoạch trồng rừng của Tuyên Quang trong những
năm gần đây luôn đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Năm 2014, tỉnh Tuyên Quang thực hiện kế
hoạch trồng mới 13.800 ha rừng, trong đó rừng
trồng mới tập trung đạt 13.300 ha. Đến ngày 15/2,
các địa phương, các công ty lâm nghiệp, trung tâm
sản xuất giống đã chủ động gieo ươm được trên
14.360 nghìn cây giống các loại, đạt trên 55% nhu
cầu cây giống cho trồng rừng, trong đó cây keo tai
tượng, keo lai hom 11.305 nghìn cây, cây mỡ 2.250
nghìn cây, cây lát hoa 645 nghìn cây, cây khác 160
nghìn cây■
VŨNGỌCTUYÊN
Trung tâm Khuyến nông Tuyên Quang
Trồng rừng tại xã Nhữ Hán, huyện Yên Sơn
Tuyên Quang:
LÀM TỐT CÔNG TÁC BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
14
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 2/2014

M
ai Tùng là xã vùng bãi của
huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú
Thọ với diện tích đất bãi ven sông
Hồng rộng trên 50 ha có lớp phù
sa màu mỡ, phù hợp với các cây
trồng phục vụ chăn nuôi bò như
ngô và cỏ voi. Những năm gần
đây, nhận thấy giá bò thịt trên thị
trường tương đối ổn định, cộng
với với những chính sách hỗ trợ
của Nhà nước, bà con xã Mai
Tùng đã chuyển sang nuôi bò thịt
thương phẩm mang lại hiệu quả
kinh tế cao giúp nhiều hộ dân
thoát nghèo vươn lên làm giàu.
Xã Mai Tùng hiện có 187/376
hộ dân nuôi bò thịt với tổng đàn
bò gần 500 con. Nuôi bò thịt
có chi phí ban đầu cao với trên
10 triệu đồng một con bò giống
nhưng người dân trong xã đã biết
tận dụng những phụ phẩm nông
nghiệp và nguồn đất phù sa màu
mỡ của xã để trồng cỏ nuôi bò,
từ đó làm giảm chi phí chăn nuôi
và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Bà con nơi đây chọn là cỏ voi
là loại cỏ dễ trồng, phù hợp với
đất bãi và có giá trị dinh dưỡng

cao giúp bò sinh trưởng và phát
triển tốt. Sau 10 tháng chăn
nuôi mỗi con bò có giá bán từ
20 - 25 triệu đồng, trừ chi phí, còn
thu lãi trên 10 triệu đồng. Ngoài
việc chú trọng nguồn thức ăn,
người chăn nuôi còn nâng cao
chất lượng đàn bò bằng việc
thay thế giống bò truyền thống
bằng giống bò lai Sind có nhiều
ưu điểm như giống to, đẹp mã và
có chất lượng thịt tốt, được các
thương lái ưa chuộng.
Gia đình chị Lê Phượng Anh
là một trong những người đi tiên
phong trong phong trào nuôi bò
thịt của xã Mai Tùng. Gia đình chị
luôn duy trì đàn bò 6 - 7 con. Mỗi
năm xuất chuồng 2 lứa, mỗi lứa 3
con cho tổng tiền lãi trên 60 triệu
đồng. Chị Anh cho biết: "Nuôi bò
thịt theo kiểu nuôi nhốt rất thuận
lợi, chỉ cần một nhân công có
thể chăm sóc cả chục con bò.
Từ ngày phát triển đàn bò, kinh
tế gia đình chị đã khá hơn trước,
thu nhập từ nuôi bò đã giúp gia
đình chị có tiền mua sắm nhiều
vật dụng có giá trị trong gia đình".
Còn gia đình anh Phạm Văn

Thanh ở khu 2, xã Mai Tùng là
một điển hình thoát nghèo, vươn
lên làm giàu từ nuôi bò. Trước
đây anh Thanh làm nghề sửa
chữa điện dân dụng, thu nhập
cũng chỉ đủ trang trải cuộc sống
gia đình. Nhận thấy nuôi bò lấy
thịt là hướng phát triển tốt, anh
Thanh đã mạnh dạn đầu tư vốn
mua bò giống và học hỏi kinh
nghiệm nuôi bò của hàng xóm.
Ban đầu, anh nuôi thử 2 con rồi
phát triển dần lên 6 con. Qua
mỗi lần bán bò, anh Thanh đã có
thêm một nguồn thu nhập lớn để
trang trải cuộc sống, nuôi 2 con
học cao đẳng, đại học và xây
dựng căn nhà mới khang trang trị
giá trên 500 triệu đồng.
Ông Hà Văn Minh - Phó Chủ
tịch UBND xã Mai Tùng cho biết:
"Chương trình phát triển đàn
bò luôn được xã quan tâm và
khuyến khích người dân thực
hiện. Đây là mô hình phù hợp với
địa phương và mang lại hiệu quả
kinh tế cao. UBND xã cũng tạo
điều kiện để giúp các hộ dân vay
vốn phát triển đàn bò. Bên cạnh
đó, xã cũng phối hợp với trung

tâm dạy nghề của huyện tổ chức
các lớp tập huấn cho bà con nông
dân. Trong thời gian tới xã sẽ tiếp
tục phát triển chương trình nuôi
bò thịt giúp nông dân phát triển
kinh tế".
Hiện nay, mô hình nuôi bò thịt
đối với nhiều hộ gia đình ở Mai
Tùng đã không còn là nguồn kinh
tế phụ. Mỗi năm, xã Mai Tùng
bán ra thị trường trên 200 con
bò thịt với trị giá gần 6 tỷ đồng,
đây là nguồn thu lớn đối với một
xã thuần nông. Mô hình nuôi bò
thịt đã gắn bó với người dân xã
Mai Tùng từ nhiều năm nay và trở
thành thế mạnh trong phát triển
kinh tế. Chăn nuôi bò cũng tạo
một chu trình khép kín trong sản
xuất nông nghiệp, đồng thời mang
lại nguồn thu nhập góp phần phát
triển kinh tế địa phương■
HẢIBÌNH
Đài Truyền thanh Hạ Hoà - Phú Thọ
Nuôi bò thịt giúp gia đình anh Phạm Văn Thanh thu lãi 60 - 70 triệu đồng
Phú Thọ:
NÔNG DÂN XÃ MAI TÙNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
từ mô hình NUÔI BÒ THỊT
15
Thông tin

KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
SỐ 2/2014
C
hương trình mục tiêu quốc
gia (MTQG) xây dựng
nông thôn mới tỉnh Nghệ An đến
nay đã triển khai được 3 năm.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn
trong việc tổ chức chỉ đạo thực
hiện chương trình nhưng đã đạt
được nhiều kết quả khả quan,
từng bước nâng cao nhận thức,
sự đồng thuận trong các tầng lớp
nhân dân để tập trung các nguồn
lực đầu tư đã tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về kinh tế - xã hội trong
khu vực nông nghiệp, nông dân,
nông thôn.
Với chức năng là đơn vị
chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật,
ngay từ khi chương trình MTQG
về nông thôn mới triển khai, đội
ngũ cán bộ khuyến nông đã xác
định được trách nhiệm trong việc
gắn kết chức năng nhiệm vụ
của mình với phong trào. Qua 3
năm thực hiện, công tác khuyến
nông đã thực hiện tốt một số nội
dung sau:

Phối hợp tốt với các huyện, xã
trong việc lựa chọn nông sản có
tiềm năng lợi thế ở địa phương,
lựa chọn hình thức sản xuất phù
hợp để xây dựng mô hình có
hiệu quả, thông qua đó tuyên
truyền nhân rộng mô hình, từng
bước xây dựng các vùng nông
sản hàng hóa, nâng cao thu nhập
cho người dân. Toàn tỉnh Nghệ
An đã xây dựng trên 450 mô hình
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thủy sản, lâm nghiệp, thành công
bước đầu đã góp phần nâng cao
năng suất, sản lượng, chất lượng
và giá trị thu nhập cho người dân
khu vực nông thôn. Hàng loạt các
mô hình trình diễn như chuyển
đổi cơ cấu cây trồng trên vùng
đất lúa cấy cưỡng, chuyển đổi cơ
cấu cây trồng gắn với xây dựng
cánh đồng thu nhập cao, cải tạo
chăn nuôi trâu bò theo hướng
hàng hóa, cải tạo đàn dê, phát
triển các loài vật nuôi đặc sản bản
địa… với mục tiêu chuyển đổi cơ
cấu cây trồng vật nuôi phù hợp
với tình hình biến đổi khí hậu đã
và đang tạo nên những cách làm
mới hiệu quả cao trong tổ chức

sản xuất của bà con nông dân tại
các địa phương.
Ngoài các mô hình trên, hệ
thống khuyến nông đã tích cực
phối hợp với các chương trình
dự án, các tổ chức trong và
ngoài nước xây dựng nhiều mô
hình trình diễn có hiệu quả như
mô hình sản xuất lúa theo quy
trình SRI, các mô hình sản xuất
nông nghiệp thích nghi với biến
đổi khí hậu, các mô hình sản
xuất lúa lai, ngô lai, bí xanh, vỗ
béo bò thịt, chăn nuôi lợn thịt
hướng nạc, chăn nuôi gà an
toàn sinh học… có tỷ lệ số hộ
thoát nghèo cao (trên 50%).
Các mô hình trồng cây cam, chè
cũng được chú trọng, nổi bật
là mô hình sử dụng chế phẩm
phân bón qua lá công nghệ cao
Grow more, Bioplanz trên cây
chè đã góp phần tăng năng suất
lên 42%.
Công tác huấn luyện, đào tạo
được hệ thống khuyến nông hết
sức quan tâm nhằm giúp người
dân khu vực nông thôn nâng cao
kiến thức và kỹ năng sản xuất; đã
tổ chức hơn 3.500 lớp tập huấn

cho cán bộ và nhân dân, đồng
thời làm tốt công tác thông tin
tuyên truyền để chuyển tải nhiều
thông tin đa dạng, đa chiều phục
vụ bà con nông dân.
Công tác đào tạo nghề cho
lao động nông thôn những năm
qua được chú trọng nhằm tạo
điều kiện cho người dân có thêm
năng lực trong việc chuyên môn
hóa sản xuất. Đến nay, hệ thống
khuyến nông đã xây dựng được
đội ngũ cán bộ có chuyên môn
cao, nghiệp vụ sư phạm đáp ứng
yêu cầu dạy nghề sản xuất nông
nghiệp, tổ chức 135 lớp với 4.188
học viên được đào tạo cơ bản
về kiến thức kỹ thuật. Từ những
nghề được đào tạo đã xuất hiện
nhiều điển hình làm kinh tế giỏi,
bà con nông dân đã tổ chức tốt
các mô hình kinh tế hộ và là một
kênh tuyên truyền nhân rộng có
hiệu quả ở địa phương.
Với tinh thần chủ động, tích
cực đồng hành cùng phong trào
xây dựng nông thôn mới; đội ngũ
cán bộ khuyến nông Nghệ An đã
và đang phối hợp với các cấp,
các ngành, các địa phương và

bà con nông dân tập trung mọi
nguồn lực, trí tuệ và quyết tâm
đẩy mạnh phát triển sản xuất
theo hướng hàng hóa, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
theo hướng nâng cao năng suất,
sản lượng, giá trị thu nhập cho
bà con nông dân làm nền tảng
vững chắc cho việc hiện thực
hóa các tiêu chí xây dựng nông
thôn mới■
NGUYỄNQUÝLINH
Trung tâm Khuyến nông Nghệ An
Khuyến nông Nghệ An
Với chương trình mục tiêu quốc gia
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
16
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN SỐ 2/2014
N
ăm 2013, thực hiện Dự án "Phát triển nuôi
thủy sản mặn lợ", Trung tâm Khuyến nông
Quốc gia phối hợp với Trung tâm Khuyến nông
Thanh Hóa xây dựng mô hình nuôi cá chim vây
vàng trong ao tại gia đình anh Hoàng Văn Tùng,
xã Xuân Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, kết
quả đạt được ngoài sự mong đợi của gia đình anh.
Quy mô mô hình 4.000 m
2

, con giống thả nuôi là
giống sản xuất nhân tạo. Các bước tiến hành chuẩn
bị ao như sau.
- Sau khi vụ nuôi kết thúc tiến hành tháo cạn nước
ao, nạo vét bớt lớp bùn đen ở đáy ao, phơi đáy ao từ
3 - 5 ngày, tu sửa lại bờ cống ao để chống rò rỉ trong
quá trình nuôi.
- Rải vôi bột nông nghiệp từ 10 - 20 kg/100 m
2
,
sau đó phơi ao 3 - 5 ngày.
- Cấp nước vào ao nuôi qua hệ thống lưới lọc để
hạn chế cá tạp, mức nước cần đạt trong thời gian
đầu từ 1,2 - 1,5 m.
- Kiểm tra các yếu tố môi trường trước khi thả cá
vào ao nuôi như độ pH đạt từ 7,5 - 8,5, độ mặn ổn
định và dao động từ 20 - 28‰.
- Nguồn giống thả từ nơi sản xuất giống nhân tạo
tại tỉnh Thừa Thiên Huế (lưu ý là cá chim vây ngắn),
mật độ thả 1 con/m
2
. Trước khi thả cá giống phải
lựa chọn cỡ cá thả đồng đều. Cỡ cá thả trong ao từ
8 - 10 cm. Cá khỏe mạnh không dị hình, không mắc
bệnh và phản xạ nhanh và cần được kiểm tra bệnh
hoại tử thần kinh (VNN) trước khi thả giống.
- Thức ăn cho cá chim vây vàng là thức ăn công
nghiệp dạng viên nổi (2 - 3 giờ) có hàm lượng đạm
45% và lipid 15%.
- Cho cá ăn: Cần làm khung bằng nhựa hoặc

bằng tre để giữ thức ăn cho cá. Tạo phản xạ cho cá
ăn tập trung. Hàng ngày cho cá ăn 2 lần vào buổi
sáng (8 giờ) và chiều mát (17 - 18 giờ). Những ngày
trời lạnh (nhiệt độ nước dưới 17
0
C) hoặc trời nóng
(nhiệt độ nước trên 36
0
C) không cho cá ăn. Khi cho
cá ăn cần quan sát kỹ khả năng ăn của cá để điều
chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp.
- Thay nước: Theo dõi chất lượng nước ao hàng
ngày. Hàng tháng thay 20 - 30% nước ao nuôi.
Lưu ý: Trong khi thay nước ao nuôi cần phải
kiểm tra nguồn nước có đảm bảo được độ sạch và
nồng độ muối tránh làm cho cá bị sốc.
- Trong quá trình nuôi, anh Tùng nhận thấy
cá chim có sức phát triển nhanh, ăn nhiều và dễ
chăm sóc hơn nuôi các loài thủy sản khác. Trong
quá nuôi đã xảy ra hiện tượng có một số con bị
chết, nhưng chủ hộ đã xử lý kịp thời là thay nước,
nguyên do trong thời gian đó (tháng 8 dương lịch
trời mưa nên nước bị ngọt hoá) không thay được
nước vì nước ngoài bị đục và ngọt (1 tháng không
thay được nước), sau khi thay được nước thì cá đã
sinh trưởng và phát triển bình thường.
-
Sau 9 tháng nuôi, anh Tùng thu được 2.800 kg

cá thịt, cỡ trung bình 600 g/con, năng suất đạt

8 tấn/ha, giá bán bình quân 145.000 đồng/kg, tổng
doanh thu gần 300 triệu đồng, trừ chi phí anh thu lãi
được 120 - 150 triệu đồng.
Qua vụ nuôi này anh Tùng đã rút ra một số kinh
nghiệm như sau:
+ Về giống là yếu tố đầu tiên để đem đến thành
công của mô hình, con giống thả nuôi phải được
sản xuất và ương lên cỡ 8 - 10 cm khi đưa về
thả nuôi.
+ Mật độ thả nuôi nên thả từ 1 - 2 con/m
2
(hiện
nay nuôi ở mật độ 1 con/m
2
).

+ Công tác chuẩn bị ao nuôi: Ao phải sâu từ
1 - 1,5 m nhằm giữ nước mặn trong mùa mưa và
trong suốt thời gian nuôi, vệ sinh chu đáo, tiêu diệt
các loại vật chủ ăn thịt khi cá còn nhỏ và cạnh tranh
thức ăn.
+ Thức ăn cho cá ăn phải có hàm lượng protein
từ 40% trở lên mới đảm bảo cho cá sinh trưởng và
phát triển tốt.
+ Nên nuôi cá ngay sau khi kết thúc vụ nuôi xuân
hè và thu hoạch trước, trong Tết âm lịch để tránh
dịch bệnh phát sinh thường gặp ở cá chim khi nhiệt
độ xuống thấp.
+ Trong quá trình quản lý môi trường ao nuôi,
yếu tố cần quan tâm nhất là thức ăn và nguồn nước

thay để tránh tình trạng cá nuôi bị sốc làm ảnh
hưởng đến tốc độ phát triển cá nuôi■
HOÀNGHỒNGCHUNG
Trung tâm Khuyến nông Thanh Hoá
STT Cỡ thức ăn
Cỡ cá
(g/con)
Lượng thức ăn
(% trọng lượng thân)
1 Φ = 2 mm 20 - 80 3 - 4
2 Φ = 3 mm 90 - 250 2 - 3
3 Φ = 5 mm > 250 1,5 - 2
Thanh Hóa: Mô hình nuôi CÁ CHIM VÂY VÀNG
đạt năng suất 8 tấn/ha
Cỡ thức ăn và lượng thức ăn cho cá chim vây vàng
nuôi trong ao
17
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
17
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾNSỐ 2/2014
C
hăn nuôi trâu không phải
là nghề mới ở Bắc Ninh.
Những năm trước đây, nghề này
chưa có bước phát triển đáng kể
bởi người chăn nuôi trâu trong
tỉnh chủ yếu vẫn chăn nuôi nhỏ

lẻ, phân tán. Từ năm 2000 trở lại
đây, nghề chăn nuôi trâu ở thôn
Lũng Giang, thị trấn Lim, huyện
Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh phát triển
rất sôi động. Đặc biệt là những
tháng cuối năm, đàn trâu được
nhiều hộ chăn nuôi tốt đã tăng
trọng gấp 2 - 3 lần để đáp ứng
thị trường Tết Nguyên đán và lễ
hội Lim.
Vào thăm hộ gia đình anh
Nguyễn Quang Lơ ở khu chuyển
đổi thôn Lũng Giang chúng tôi tận
mắt nhìn đàn trâu đang trong giai
đoạn vỗ béo chuẩn bị xuất bán.
Dãy chuồng được xây dựng đơn
giản nhưng khá sạch sẽ, thoáng
mát, có hầm biogas để xử lý chất
thải. Hiện gia đình anh đang nuôi
20 con trâu. Anh Lơ cho biết: "Gia
đình anh trước đây chỉ nuôi 1 - 2
con chăn thả tranh thủ lúc rảnh
rỗi. Nhưng sau đó, anh thấy nuôi
nhốt trâu và cho ăn thêm bã đậu
hiệu quả cao hơn, nên 5 năm nay
anh đầu tư xây dựng chuồng trại,
chăn nuôi tập trung. Mỗi năm gia
đình anh nuôi trung bình 4 lứa,
mỗi lứa 20 con. Trâu lúc mua
về có giá khoảng 19 triệu đồng/

con, sau 2 - 3 tháng nuôi cho
xuất chuồng, trừ chi phí thức ăn
tiền bã đậu, cám ngô, cám tổng
hợp mỗi ngày hết 25.000 đồng/
con. Trung bình một con trâu bán
được 30 triệu đồng, cá biệt có
con bán được 40 triệu đồng. Như
vậy mỗi con anh có thể thu lãi
được 4 triệu đồng. Anh cho rằng
nuôi trâu vốn đầu tư lớn nhưng ít
rủi ro, trâu ít bị bệnh, lãi cao hơn
nhiều vật nuôi khác, tận dụng
được rơm rạ và các sản phẩm
phụ từ nông nghiệp…. Tuy nhiên,
khi mua về phải tiêm phòng đủ
các loại vắc-xin. Trâu nuôi nhốt
nên chỉ cần 1 người vẫn chăm
sóc được 20 con trâu". Chính vì
vậy, anh Lơ đã thôi không đi buôn
bán ở tỉnh ngoài nữa mà về quê
nuôi trâu.
Ngay bên cạnh nhà anh Lơ là
gia đình anh Nguyễn Hữu Cường
người có thâm niên 12 năm trong
nghề nuôi trâu. Xuất phát từ
nghề buôn bán trâu, qua những
lần đi chợ mua trâu ở các tỉnh
Lạng Sơn, Sơn La, Lai Châu…
có nhiều người bán trâu gầy, yếu
với giá thấp. Từ đó, anh mua trâu

về nuôi vỗ béo để bán với giá cao
hơn. Tính sơ bộ năm 2013, anh
Cường đã cho xuất chuồng 3 lứa
trâu, mỗi lứa lãi vài chục triệu
đồng, riêng lứa cuối năm anh nuôi
30 con bán vào dịp Tết Nguyên
đán và lễ hội Lim thu lãi gần 150
triệu đồng. Trò chuyện với chúng
tôi anh Cường chia sẻ: "Nuôi trâu
là nguồn thu nhập chính của gia
đình tôi, không tốn công mà hiệu
quả kinh tế cao. Thời gian qua
chăn nuôi gặp nhiều khó khăn
nhưng giá thịt trâu luôn ổn định.
Món thịt trâu có chất lượng thơm
ngon được thị trường tiêu thụ rất
mạnh, cung không đủ cầu”.
Bằng nghề nuôi trâu vỗ béo
thương phẩm, nhiều hộ gia đình
ở thôn Lũng Giang đã vươn lên
làm giàu như hộ anh Nguyễn
Hữu Nam, Nguyễn Tiến Binh,
Nguyễn Tiến Bộ, Nguyễn Văn
Thuần, Nguyễn Văn Hạnh… Các
hộ này nuôi thường xuyên từ
10 - 15 con trở lên, mỗi năm cho
thu nhập ổn định trên 100 triệu
đồng. Tuy nhiên với nguồn vốn
đầu tư khá lớn, trong khi đó, do
diễn biến phức tạp của nhiều loại

dịch bệnh trên gia súc nên nhiều
hộ gia đình chưa mạnh dạn đầu
tư theo hướng này. Người chăn
nuôi trên địa bàn mong muốn
được sự quan tâm hỗ trợ của
Nhà nước về vốn, kỹ thuật chăm
sóc và đặc biệt có biện pháp
phòng chống dịch bệnh, để
người nông dân có thể yên tâm
làm giàu trên chính mảnh đất quê
hương mình■
NGUYỄNTHỊHOÀI
Trung tâm Khuyến nông
Khuyến ngư Bắc Ninh
LÀM GIÀU TỪ NGHỀ NUÔI TRÂU THƯƠNG PHẨM
BẮC NINH:
18
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN SỐ 2/2014
N
uôi ghép chạch đồng và
cua đồng trong ruộng lúa
là hướng đi mới khả quan, được
nhiều người dân quan tâm do
vốn đầu tư ít, dễ thực hiện. Cua
đồng và chạch đồng nuôi tại mô
hình hầu như không bị bệnh, tận
dụng được thức ăn sẵn có trong
tự nhiên.

1. Đặc điểm sinh học của
chạchđồngvàcuađồng
- Chạch đồng có tập tính thích
sống chui rúc vào trong bùn.
- Cua đồng bò dưới đáy mặt
nước và đào hang để sống hoặc
chui rúc vào các bụi, rễ gốc cây
thủy sinh. Cua có khả năng bò
trên cạn và di chuyển rất xa, mỗi
lần lột xác trọng lượng của cua
tăng từ 20 - 50% trọng lượng
cơ thể.
- Hai loài này đều có đặc điểm
chung là ưa hoạt động về đêm,
không thích ánh sáng mạnh nên
ban ngày chỉ ở trong hang hoặc
rúc dưới bùn, ít khi ra ngoài, chỉ
khi trời tối chúng mới ra ngoài
kiếm ăn. Thức ăn chủ yếu của
chúng là tôm, tép, cá tạp, giun,
ốc, ngũ cốc… Nhiệt độ nước có
thể sinh trưởng và phát triển từ
20 - 30
0
C, tốt nhất từ 25 - 27
0
C,
độ pH từ 6,5 - 8. Vào mùa mưa
(từ tháng 3 đến tháng 8 hàng
năm) chạch đồng và cua đồng

sinh trưởng, phát triển mạnh và
sinh sản nhiều.
2.Chuẩnbịruộngnuôi
Để chạch đồng, cua đồng
sinh trưởng và phát triển tốt và
không bị thất thoát phải chuẩn bị
ruộng nuôi tốt trước khi thả giống.
- Chọn ruộng nuôi: Ruộng
bằng phẳng, giữ nước tốt, nguồn
nước dồi dào, cấp thoát nước
thuận lợi, nước không bị ô nhiễm,
chất đất là đất thịt.
- Diện tích ruộng nuôi: Tùy
theo điều kiện diện tích ruộng
nuôi thích hợp từ 3.000 - 5.000
m
2
. Sau khi thu hoạch lúa vụ đông
xuân cắt để rạ dài là lúa chét tận
dụng làm thức ăn cho chạch và
cua. Sau đó đưa nước vào ruộng
cao 0,5 - 0,7 m.
- Đào mương bao quanh và
mương giữa. Mương bao quanh
chân bờ sâu 0,8 - 1,0 m, rộng 3
- 5 m. Nếu ruộng rộng, đào thêm
ở giữa ruộng hình chữ thập hoặc
hình song song rộng 1 - 1,5 m,
sâu 0,5 - 0,8 m. Tổng diện tích
cả 3 loại mương chiếm khoảng

15 - 20% diện tích đất ruộng. Mục
đích của việc đào mương trũng
trong ruộng là tạo nơi trú ẩn cho
chạch đồng và cua đồng khi thời
tiết nắng nóng, lạnh hoặc thay đổi
bất thường của môi trường.
- Bờ ruộng phải được làm
cao và to. Chú ý nện đất chặt để
tránh nước rò rỉ. Các cửa cống
cấp thoát nước phải chắn bằng
đăng tre hoặc lưới cước thích
hợp, nền cống phải đầm chặt.
- Đặt lưới chắn xung quanh
ruộng, nếu lưới bằng ni-lông
mỏng thì phải đóng cọc cao hơn
mặt bờ 40 - 50 cm, lấy dây thép
buộc nối các đầu cọc với nhau,
gấp đôi tấm ni-lông lên dây thép
cho rủ xuống đất thành 2 lớp rồi
vùi sâu trong đất bờ từ 15 - 20
cm. Nếu chắn bằng tấm nhựa
hoặc broximăng… thì chỉ cần
vùi xuống đất 15 - 20 cm, đầu
trên cao hơn mặt đất ít nhất là
40 cm, bốn góc lượn hình cung
để đề phòng trời mưa ngập bờ,
chạch và cua di chuyển ra ngoài.
- Trồng các loại cỏ nước phủ
kín đáy mương và thả các loại cây
nổi như bèo tấm, bèo lục bình,

rau muống… chiếm khoảng 1/3
mặt nước để chạch và cua đồng
trú ẩn khi thời tiết nóng hoặc rét.
- Nếu có điều kiện thì làm
thêm bờ phụ cho chạch và cua
đào hang trú ẩn, bờ phụ rộng
khoảng 1 m, cao hơn mặt nước
lúc cao nhất từ 30 - 40 cm, trên
bờ trồng điền thanh để cua và
chạch tránh nắng, rét khi nhiệt độ
bên ngoài môi trường thay đổi.
Vì vậy bờ phụ càng rộng và chắc
chắn thì khi điền thanh tốt có bộ
rễ phát triển gió không làm bờ bị
lật đổ, đồng thời chạch đồng và
cua đồng cũng ít làm ảnh hưởng
đến bờ chính xung quanh ruộng
nuôi. Tùy theo hình dáng và kích
thước ruộng nuôi mà có thể làm
bờ phụ dạng hình chữ thập hoặc
hình song song.
- Trước khi nuôi 1 - 2 tuần tiến
hành tát cạn nước để diệt hết
địch hại và mầm bệnh bằng cách
bón vôi 7 - 10 kg/100 m
2
, phơi
nắng 3 - 5 ngày, sau đó cấp nước
vào nhưng không cho nước tràn
lên ruộng, chỉ khi nào đến thời kỳ

lúa sắp làm đòng mới cấp nước
Kinh nghiệm
NUÔI GHÉP CHẠCH ĐỒNG VỚI CUA ĐỒNG
Ruộng nuôi ghép chạch đồng và cua đồng
19
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
19
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾNSỐ 2/2014
lên ruộng để cua lên ruộng tìm
thức ăn.
- Tiến hành gây màu nước
bằng phân chuồng hoặc phân
hóa học để tạo nguồn sinh vật
phù du phát triển làm thức ăn cho
cua giống mới thả.
3.Chọngiống
Hiện nay trên thị trường chưa
có cơ sở sản xuất giống nhân
tạo chạch đồng và cua đồng. Để
có được giống thả bà con có thể
đặt mua gom của các thương lái.
Khi mua cần chú ý: Chọn mua ở
những địa chỉ tin cậy, đảm bảo
chất lượng theo yêu cầu.
- Chạch đồng: khỏe mạnh, cỡ
đồng đều 150 - 200 con/kg, sáng
bóng, không mất nhớt, bơi lội hoạt

bát, không bị trầy xước. Không
nên mua ở chợ bởi nếu không để
ý dễ mua nhầm chạch đã kích điện
nên xương sống bị tổn thương,
chạch vẹo mình, khi nuôi không
lớn, hiệu quả kinh tế giảm.
- Cua đồng: khỏe mạnh,
cỡ đồng đều 150 - 160 con/kg,
không gãy càng, gãy còng, mai
sáng bóng, không bị đóng rong.
4.Thảgiống
- Mùa vụ thả thích hợp là
tháng 3 - 4 hàng năm. Thả vào
lúc sáng sớm hoặc chiều mát.
- Mật độ thả ghép chạch đồng
và cua đồng: 20 con/m
2
, trong đó:
chạch đồng 16 con/m
2
, cua đồng:
4 con/m
2
.
Chỉ thả giống 1 lần, các vụ
sau không cần thả thêm vì chạch
đồng và cua đồng sẽ tự sinh sản
trong ruộng nuôi.
5.Chămsóc
Chạch đồng và cua đồng là

những loài có sức chống chịu
với điều kiện môi trường rất tốt,
hầu như không bị bệnh. Thức
ăn tự nhiên rất sẵn như ốc bươu
vàng, tôm, tép, cá tạp xay, bột
cá, cám gạo, cám ngô, lúa chét,
bột sắn… Chúng ta có thể tự chế
biến thức ăn dạng viên hỗn hợp
gồm lúa xay + bột cá + ốc bươu
vàng. Sau đó cho vào máy ép
thành viên phơi sấy để cho chạch
đồng và cua đồng ăn dần.
- Sau thả giống 1 - 2 ngày
tiến hành cho ăn. Lúc đầu cho ăn
rải đều khắp ruộng, sau đó thu
hẹp dần diện tích cho ăn, cuối
cùng cho ăn ở vài điểm cố định
trong ruộng để chạch đồng và
cua đồng ăn quen, thuận lợi cho
quá trình thu hoạch sau này.
Cách cho ăn: Kết hợp cho ăn
thức ăn đạm và thức ăn tinh, 2
ngày cho ăn một lần vào thời gian
cố định chiều tối. Lượng thức ăn
bằng khoảng 5% trọng lượng cơ
thể cua, chạch.
Ngoài ra, có thể bón thêm
25 - 30 kg phân hữu cơ/100 m
2


ruộng/tháng để sinh vật phù du
trong ruộng nuôi phát triển làm
thức ăn cho chạch và cua.
Chú ý: Ở những nơi cho ăn
nên đặt các sàng ăn bằng lưới
mắt nhỏ ở dưới đáy ruộng nuôi,
diện tích sàng ăn khoảng 1,0 -
1,5 m
2
sau đó bỏ thức ăn vào
sàng. Sáng hôm sau kiểm tra
lượng thức ăn dư thừa để có kế
hoạch điều chỉnh thức ăn cho phù
hợp. Vì chạch đồng và cua đồng
là loài hoạt động chủ yếu về đêm
nên cho ăn vào chiều tối, cho ăn
vào vị trí khu vực đánh bắt. Căn cứ
vào mức nước bay hơi mà thường
xuyên bổ sung nước vào ruộng
nuôi để giữ môi trường nước trong
sạch, thường xuyên duy trì mức
nước 0,5 - 0,7 m. Tuyệt đối không
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật
trong ruộng nuôi.
6.Thuhoạch

Sau khoảng 4 - 5 tháng nuôi có
thể tiến hành thu tỉa. Sau 5 - 6 tháng
chạch đồng đạt 20 - 25 g/con
, cua

đồng đạt 25 - 30 g/con. Có thể
thu tỉa hoặc thu toàn bộ.
Trước khi thu hoạch ngừng
không cho ăn 1 - 2 ngày.
- Thu tỉa: Đặt rọ có chứa mồi
là thính hoặc ốc bươu vàng đã
bỏ sạch vỏ vào vị trí cho ăn. Đặt
rọ vào thời điểm chiều tối hôm
trước, sáng sớm hôm sau vớt
rọ thu những con to, con nhỏ thả
xuống tiếp tục nuôi.
- Thu toàn bộ sử dụng đối
với thu hoạch chạch đồng: Rút
cạn nước từ từ để chạch đồng
bơi theo dòng nước, ở chỗ
cống thoát đặt lưới hoặc rọ để
thu chạch.
Bà con chỉ nên thu tỉa một
phần, phần còn lại chọn những
con to khỏe nuôi tiếp để chúng
sinh sản ngay trong ruộng lấy
giống cho vụ nuôi tiếp theo■
ĐẶNGXUÂNTRƯỜNG
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Ruộng nuôi ghép chạch đồng và cua đồng
20
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN SỐ 2/2014
C

húng tôi gặp chị Trần Thị Phi tại Hội nghị
Biểu dương điển hình phụ nữ làm kinh tế
giỏi do Hội Liên hiệp phụ nữ Hà Tĩnh tổ chức. Thoạt
nhìn, chúng tôi thấy được sự mạnh mẽ, quyết đoán
và tự tin toát lên từ người phụ nữ này. Từ vùng đất
hoang hóa, chị xây dựng khu trang trại tổng hợp
liên kết chăn nuôi lợn thương phẩm của Hợp tác xã
(HTX) Kinh doanh dịch vụ và Chăn nuôi tổng hợp
(KDDV & CNTH) Hà Phi ở xã Cẩm Hưng, huyện
Cẩm Xuyên do chị làm chủ nhiệm. Sau hơn 2 năm
triển khai xây dựng, HTX đã trở thành mô hình sản
xuất điển hình về phát triển kinh tế của toàn tỉnh.
Theo con đường bê-tông mới tinh, phẳng lỳ,
dài hơn 1 cây số dẫn vào khu vực sản xuất, chúng
tôi tới khu trang trại chăn nuôi tổng hợp được quy
hoạch đồng bộ và xây dựng kiên cố, hiện đại của
HTX. Hồi tưởng lại những ngày đầu gian khó, chị
Phi chia sẻ: “Ở thời điểm chúng tôi quyết định thành
lập HTX, nền kinh tế đang trong giai đoạn hết sức
khó khăn do lạm phát và suy thoái. Thị trường tiêu
thụ không thuận lợi; lãi suất ngân hàng cao, việc
huy động vốn khó khăn, nhiều rủi ro rình rập Bởi
vậy, với vai trò của người đứng mũi chịu sào, tôi
ngày đêm trăn trở tìm hướng đầu tư với phương
châm an toàn vẫn là mục tiêu hàng đầu”. Hướng đi
mà chị Phi lựa chọn đầu tiên, đó là thực hiện theo
hình thức liên kết với Công ty Cổ phần Chăn nuôi
CP Việt Nam để nuôi lợn thương phẩm gia công
quy mô lớn.
Bắt tay xây dựng được cơ sở hạ tầng cho mô

hình kinh tế trang trại quy mô lớn với các hạng mục
công trình được thiết kế khoa học, hiện đại, điều
khó khăn nhất của HTX là làm thế nào để huy động
được nguồn vốn lớn cho hàng loạt hạng mục công
trình. Tuy nhiên, nềm tin của chị càng lớn hơn khi
chị nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ tích cực, sâu sát
của chính quyền các cấp, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh,
Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, Liên minh HTX
tỉnh. HTX đã được hỗ trợ 550 triệu đồng theo chính
sách của tỉnh để san lấp mặt bằng và xây dựng
chuồng trại, mua con giống. Ngoài ra, HTX còn
được vay 1,1 tỷ đồng của Ngân hàng Nông nghiệp
và PTNT; các tổ chức đoàn thể cũng tạo điều kiện
để HTX vay nguồn vốn lãi suất thấp như: Liên minh
HTX tỉnh (cho vay 450 triệu đồng); Hội Liên hiệp
Phụ nữ tỉnh và xã (cho vay trên 100 triệu đồng)…
Nguồn lực quan trọng này đã tạo điểm tựa để HTX
mạnh dạn dốc vốn của xã viên và huy động thêm
các kênh tín dụng khác để đầu tư thêm 6 tỷ đồng
xây dựng hệ thống điện, đường, mặt bằng và đầu
tư 2 dãy chuồng (mỗi chuồng có diện tích 800 m
2
)
cùng hệ thống nhà kho, nhà khử trùng, bể biogas
để thả nuôi 1.200 con lợn thương phẩm đầu tiên.
Cùng với phát triển chăn nuôi lợn vệ tinh cho
Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam, chị Phi
đã đề xuất với các thành viên HTX tổ chức quy
hoạch từng khu vực sản xuất nhằm khai thác tối đa
5 ha diện tích đất sản xuất còn lại một cách khoa

học, bàn bản: 2 mẫu ruộng lúa; 5 hồ cá rộng 2 ha;
trồng cây lâm nghiệp 2 ha; số diện tích còn lại chăn
nuôi 500 con vịt, 1.300 con gà; xây dựng chuồng
nuôi bò nhốt, với diện tích 300 m
2
Với hình thức
đa dạng cây trồng, vật nuôi, HTX đã tạo việc làm
thường xuyên cho 12 lao động với thu nhập khá.
Qua hơn 1 năm đi vào sản xuất (trừ giai đoạn đầu
tư xây dựng), theo tính toán của chị Phi, sau khi
xuất bán 3 lứa lợn với sản lượng gần 189 tấn, đơn
vị còn lãi gần 300 triệu đồng. Ngoài ra, nguồn thu
nhập phụ từ các sản phẩm: gà, vịt, cá, các loại cây
trồng bước đầu đạt trên 200 triệu đồng/năm.
Chị Phi khẳng định: “Thu nhập bước đầu chưa
cao và số vốn bỏ ra để đầu tư rất lớn, cần có thời
gian để mở rộng sản xuất, nâng cao doanh thu. Hiện
nay, chúng tôi tự tin tổ chức sản xuất, kinh doanh
để nâng cao đời sống cho các xã viên, tạo nên sự
gắn kết bền vững về lợi ích, trách nhiệm giữa các
thành viên trong đơn vị. Ước mơ ấp ủ từ lâu của
tôi, với sự hỗ trợ, tiếp sức từ các chủ trương, chính
sách của chương trình xây dựng nông thôn mới,
nay đang trở thành hiện thực. Điều mà tôi muốn
chia sẻ với những người cùng khát vọng xây dựng
mô hình sản xuất lớn, đó là thành công sẽ đến nếu
biết vượt qua thách thức và nắm chắc cơ hội, cùng
với sự kiên trì và niềm say mê phát triển kinh tế
nông nghiệp”■
NGÔTHẮNG

Trang trại chăn nuôi lợn của HTX KDDV & CNTH Hà Phi
LÀM KINH TẾ
Giỏi
Nữ Chủ nhiệm HTX
21
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆSỐ 2/2014
V
ùng đất khô hạn ven biển
miền Trung phần lớn là đất
cát và cồn cát ven biển với diện
tích khoảng 300.000 ha trong đó
khô hạn thường xuyên khoảng
200.000 ha. Khó khăn nổi bật
của vùng này là nhiều gió mạnh,
nắng nóng, ít nước mặt, ít dinh
dưỡng (đất). Phương thức canh
tác nông - lâm kết hợp với nhiều
mô hình có hiệu quả, phù hợp với
điều kiện của từng địa phương
còn gặp nhiều khó khăn. Tuy
nhiên cây lâm nghiệp được trồng
ở ven biển miền Trung đã thể
hiện rõ tác dụng phòng hộ, bảo
vệ và cải thiện môi trường, góp
phần cung cấp lâm sản tại chỗ
cho người dân.
Một số cây lâm nghiệp đa tác
dụng gồm: cây dầu lai, cây dầu

mè, cây cọc rào, cây diezen, cây
chà là ăn trái, cây trôm lấy nhựa
và cây xoan chịu hạn có thể chịu
khô hạn, vừa có tác dụng phòng
hộ vừa cho gỗ củi, đồng thời cho
trái cây, nhựa cây làm thực phẩm,
làm thuốc trừ sâu sinh học, làm
nhiên liệu sinh học. Dưới đây, xin
giới thiệu kỹ thuật trồng một số
cây lâm nghiệp đa tác dụng:
1. Chuẩnbịđấttrồngcây
- Phát quang: Đất mới khai
hoang hoặc nương rẫy để lâu
ngày cần được phát quang, đốt,
dọn sạch.
- San ủi: Tạo mặt bằng thuận
lợi cho canh tác song không ủi
quá sâu làm mất lớp đất mặt.
- Cày bừa: Tuỳ theo loài cây
trồng, có thể cày, bừa cho đất
tơi xốp.
- Xử lý đất: Đất canh tác trước
đó đã được xử lý sạch bệnh
trước khi canh tác.
2.Chuẩnbịgiốngcâytrồng
- Chọn loài cây trồng phù hợp
với điều kiện đất đai, khí hậu và
nhu cầu thị trường.
- Chọn giống tốt, năng suất
cao, có khả năng chống chịu

sâu bệnh.
- Nhân giống tốt: Có thể nhân
giống hữu tính (từ hạt, củ), với
hệ số nhân giống cao trong thời
gian ngắn.
- Vận chuyển cây trồng: Cần
tưới nhiều nước từ hôm trước,
sử dụng khay bốc xếp cây thẳng
hàng, tránh giập gãy cây, vỡ
bầu cây.
3.Kỹthuậttrồngcây
- Thời vụ trồng: Trồng vào
mùa mưa, với lượng mưa đủ lớn
đảm bảo độ ẩm của đất.
- Mật độ, khoảng cách cây
trồng: Tuỳ theo loài cây và mục
đích trồng mà xác định mật
độ và khoảng cách trồng cây
phù hợp.
+
Với các loài cây trồng phòng
hộ để chắn gió, che phủ đất
có thể trồng dày (1 m x 0,5 m)
,
(1 m x 1 m), (2 m x 1 m).
+ Cây trồng lấy gỗ: 3 m x 2 m.
+ Cây ăn quả: (5 m x 4 m),
(5 m x 5 m), (6 m x 5 m).
- Kích thước luống: Thường
rộng 1 - 1,2 m và dài từ

5 - 10 m.
- Kích thước hố: Cây ăn quả
(60 - 80 cm), cây lâm nghiệp (30 -
40 cm). Riêng cây trồng ở nơi có
tầng cát dày cần đào hố sâu 80
- 100 cm (phi lao trồng ở cồn cát).
- Trồng cây: Nên đào hố trước
1 - 2 tuần. Khi đào hố để riêng
lớp đất mặt, nếu có điều kiện nên
trộn phân bón lót với đất. Xé bỏ
túi bầu, không làm vỡ bầu cây,
đặt cây thẳng và lấp dần từng
lớp, cuối cùng dùng chân dậm
chặt đất quanh gốc cây. Nên tưới
ngay sau khi trồng cây.
4.Kỹthuậtchămsóccâytrồng
- Làm cỏ, vun gốc: Cỏ quanh
gốc cây với bán kính 0,5 - 1 m
cần được làm sạch, vun lớp đất
mặt vào gốc cây. Lưu ý, vun gốc
không được cuốc sâu ảnh hưởng
đến rễ cây.
- Bón phân: Sử dụng phân
bón hợp lý và tiết kiệm tuỳ theo
thành phần dinh dưỡng có trong
đất, giống cây, tuổi cây, từng
thời kỳ sinh trưởng và phát dục
của cây.
- Tưới nước: Phải đảm bảo
nước tưới cho cây trồng trên

vùng đất khô hạn, đặc biệt với
cây nông nghiệp, cây ăn quả.
- Tỉa cành, tạo tán: Đối với cây
ăn quả, cần quan tâm tỉa cành,
tạo tán để có được bộ khung
vững chắc, cành phân bố đều,
đảm bảo đủ ánh sáng. Nên đốn
tỉa về mùa khô để hạn chế xâm
nhập của nấm.
- Hỗ trợ thụ phấn: Đối với một
số loài cây ăn quả có hoa đơn
tính khác gốc (chà là ăn quả,
đu đủ…) hoặc một số loài cây có
hoa lưỡng tính nhưng không tự
thụ phấn được.
- Điều hoà sinh trưởng: Khi sử
dụng chất điều hoà sinh trưởng
cần nắm vững đặc tính và làm
theo đúng hướng dẫn của nhà
sản xuất, làm thận trọng từ bước
nhỏ đến bước lớn.
- Phòng trừ sâu bệnh: Chọn
giống tốt, cây khoẻ, bón phân,
tưới nước, đốn, tỉa hợp lý, thường
xuyên chăm sóc cây trồng, kịp
thời phát hiện và xác định rõ loại
sâu bệnh. Khẩn trương xử lý sâu,
bệnh đúng cách, đúng thuốc và
đúng lúc để diệt tận gốc các loại
sâu, bệnh hại cây trồng.

*Lưuý: Những giải pháp kỹ
thuật công nghệ trên được áp
dụng cụ thể khi trồng từng loài
cây phù hợp với đặc điểm điều
kiện đất đai, khí hậu ở từng nơi■
TTKNQG

Cây cọc rào với khả năng chịu khô hạn,
có tác dụng phòng hộ góp phần
cung cấp lâm sản tại chỗ cho người dân
KỸ THUẬT TRỒNG CÂY LÂM NGHIỆP
TRÊN ĐẤT KHÔ HẠN VEN BIỂN MIỀN TRUNG
22
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ SỐ 2/2014

1.Kỹthuậtsảnxuấtcâygốcghép
a. Thiết kế vườn ươm
- Vườn ươm gốc ghép phải đặt nơi cao ráo,
thoát nước tốt. Xung quanh khu vực vườn ươm
phải quang đãng, không có cây che bóng.
- Bầu ươm: Bằng túi nhựa PE màu đen, dày
0,15 mm, kích thước túi bầu 15 cm x 25 cm hoặc
18 cm x 28 cm, bầu được đục lỗ thoát nước và bảo
đảm độ thoáng khí.
- Hỗn hợp đất bao gồm: 89% đất phù sa hoặc
đất mặt (cát pha đến thịt nhẹ), 10% phân chuồng
hoai mục, 1% phân supe lân. Hỗn hợp đất, phân
trộn đều và được phun thuốc chống nấm hại rễ

1 - 2 ngày trước khi đóng bầu.
- Bầu ươm gốc ghép đặt theo luống, mỗi luống
xếp từ 4 - 6 hàng bầu. Rãnh luống rộng 50 - 60 cm
để dễ dàng thực hiện thao tác ghép.
b. Giống điều làm gốc ghép
Kinh nghiệm cho thấy sử dụng hạt của cây điều
sẻ lùn làm cây ghép sẽ tránh được tình trạng cây
điều ghép phát triển không đều. Cây điều sẻ là cây
điều lùn, hạt nhỏ (trên 250 hạt/kg) nên hệ số nhân
giống cao, sức sống của hạt khoẻ, cây con phát
triển mạnh, đồng đều, ít thấy hiện tượng phân ly khi
gieo bằng hạt.
c. Xử lý và gieo hạt giống
- Hạt giống làm gốc ghép được thu gom trên
các cây mẹ có năng suất cao và sinh trưởng khỏe,
được rửa sạch phơi khô đến độ ẩm 8 - 10%. Bảo
quản hạt trong điều kiện khô ráo và kín gió.
- Xử lý hạt: Cho hạt vào nước để loại bỏ hạt nổi,
rửa sạch và ngâm nước 48 - 72 giờ. Mỗi ngày thay
nước 1 lần. Sau đó, ủ hạt trong bao tải (bao gai)
hay cát ẩm, nền thoát nước, nơi râm mát, có thể
phủ nhẹ trên mặt bằng rơm rạ. Sau 4 - 5 ngày thì
hạt nảy mầm.
- Gieo hạt: Khi hạt nảy mầm dùng lưỡi lam cắt
chóp rễ (để rễ hình thành chùm rễ cọc sau này) và
gieo hạt vào bầu ươm đã được chuẩn bị sẵn. Mỗi
bầu gieo 1 hạt, đặt eo hạt tiếp xúc với mặt đất và ấn
chìm hạt ngay xuống mặt đất. Tưới ẩm bằng ô doa
hoặc vòi phun hàng ngày.
d. Chăm sóc cây con trong bầu

Tưới đủ nước và làm cỏ sạch khi cây còn nhỏ.
Phun thuốc Sherpa 25EC để phòng sâu hại lá, sâu
đục ngọn và bọ xít muỗi. Phun thuốc trừ nấm để
phòng bệnh lở cổ rễ - bệnh đặc biệt thường xảy ra
trong tháng đầu tiên khi cây con chưa hóa gỗ.
2.Vườnnhânchồighép
- Vườn trồng cây lấy chồi ghép gọi là vườn nhân
chồi ghép có trồng cây đầu dòng chọn được trong
quá trình bình tuyển và đã qua hậu kiểm hoặc là
giống đã được khu vực hoá hoặc đã được công
nhận là giống Quốc gia phù hợp với địa phương.
- Kỹ thuật chọn chồi ghép: Chồi ghép phải là chồi
ngủ khoẻ không bị nhiễm sâu bệnh, tuổi của chồi
tương đương với tuổi gốc ghép (2 tháng) thì tỷ lệ
sống cao, đồng đều.
Chồi ghép sau khi cắt nếu vận chuyển đi xa cần
được nhúng qua nước, gói vào giấy báo hoặc quấn
bằng vải, xếp vào thùng xốp có lót đá ở đáy thùng.
Chồi ghép đặt vào thùng đá phải được cách đá
bằng một lớp vải hoặc giấy báo.
Nếu vận chuyển ngắn hoặc ghép nhanh thì chỉ
cần gói chồi ghép trong một khăn giữ ẩm và để nơi
thoáng mát.
3.Kỹthuậtghép
a. Tiêu chuẩn gốc ghép
- Cây con ươm bằng hạt trong bầu được khoảng
45 - 60 ngày thì tiến hành đảo bầu (nhấc rễ), loại bỏ
các cây còi cọc hoặc dị dạng và xếp lại thành từng
ô với mức độ sinh trưởng khác nhau để tiện chăm
sóc. Sau đó để cây con ổn định trong thời gian 30

ngày thì tiến hành ghép.
Kỹ thuật
SẢN XUẤT CÂY ĐIỀU GHÉP
23
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆSỐ 2/2014
- Tiêu chuẩn cây gốc ghép:
+ Đường kính thân 7 - 10 mm .
+ Cây con làm gốc ghép có 10 - 15 lá trở lên.
+ Tuổi cây con làm gốc ghép từ 60 ngày tuổi
trở lên.
+ Cây con khỏe mạnh, không bị nhiễm sâu bệnh.
b. Tiêu chuẩn chồi ghép
- Thời gian lấy chồi ghép tốt nhất là cây chuẩn bị
phát đợt lá mới.
- Chồi ghép tốt cần đạt các tiêu chuẩn sau:
+ Chồi vừa mới bật, đường kính chồi 7 - 10 mm.
+ Chiều dài chồi ghép 7 cm.
+ Không có vết sâu bệnh, chồi lấy ở ngoài sáng.
c. Thời vụ ghép
Thời vụ ghép tốt nhất đạt tỷ lệ sống cao là từ
tháng 2 - 7. Thời vụ này sử dụng chủ yếu chồi ghép
từ vườn nhân chồi. Trong thực tế, từ tháng 2 đến
tháng 5 là thời kỳ cây điều có hoa, mang quả nên
nếu sử dụng chồi từ cây mẹ thì thời vụ tốt nhất là từ
tháng 6 đến tháng 8.
Nên ghép vào buổi sáng lúc trời mát, lúc cây đã
hút đủ nước qua đêm. Thời gian ghép tốt nhất là từ
6 - 10 giờ sáng.

d. Thao tác ghép
Ghép điều có thể thực hiện bằng 3 phương
pháp: ghép vát (ghép áp), ghép nêm và ghép mắt.
Đạt tỷ lệ sống cao là ghép vát hoặc ghép nêm.
Thông dụng và dễ thao tác là ghép vát.
+ Bước 1: Dùng dao ghép vạt xiên thân gốc
ghép một mặt phẳng nghiêng dài 3 - 4 cm cách mặt
bầu (mặt đất) từ 10 - 15 cm, chừa lại 2 - 3 lá thật
trên gốc ghép.
+ Bước 2: Dùng dao vạt một mặt phẳng nghiêng
trên chồi ghép tương tự như vạt gốc ghép.
+ Bước 3: Áp mặt cắt của chồi ghép và gốc ghép
lại với nhau để có sự tiếp hợp. Nếu đường kính của
chồi ghép và gốc ghép chênh lệch nhau thì nên để
một bên mép vỏ của chồi ghép và gốc ghép liền
khớp với nhau.
+ Bước 4: Dùng dây ni-lông mỏng quấn chặt từ
dưới lên trên theo kiểu lợp mái nhà để cố định và
bịt kín chồi ghép.
4.Chămsóccâyghép
- Cây sau khi ghép được tưới ẩm bằng vòi phun
hoặc ô doa hàng ngày, 2 - 3 ngày đầu có thể tưới
số lần nhiều hơn.
- Khi cây ghép đã bứt chồi, nếu tầng lá thứ nhất
của cây phát triển kém có thể tưới phân NPK loại
16:16:8 nồng độ 1 - 1,5%.
- Thường xuyên kiểm tra để cắt bỏ các chồi mọc
ra ở phía dưới vết ghép.
- Đảo bầu: Khi cây ghép có tầng lá đầu tiên phát
triển hoàn chỉnh (thường 4 - 6 tuần kể từ lúc ghép)

thì tiến hành đảo bầu và phân loại cây.
- Bảo quản cây ghép, giữ cho cây sinh trưởng
chậm lại do quá lứa trồng: Trong trường hợp cây
quá lứa trồng cây phải được hãm lại để vụ sau hoặc
lứa sau. Phương pháp giữ cho cây sinh trưởng
chậm lại là hạn chế chăm bón, tưới nước. Đặt bầu
ghép lên lớp ni-lông cách ly đất là cách tốt nhất hạn
chế sinh trưởng của cây ghép trong bầu, kết hợp
với hạn chế đến mức thấp nhất tưới nước cho cây.
5.Tiêuchuẩncâyđiềughéptrướckhixuấtvườn
- Có đủ 2 tầng tán lá khoẻ, lá bánh tẻ, tầng lá thứ
2 cứng cáp, không héo khi vận chuyển trồng.
- Chiều cao cây > 30 cm.
- Đường kính gốc ghép đạt 0,8 - 1 cm trở lên.
- Điểm ghép chắc liền, tròn đều trên thân chính.
Chiều cao điểm ghép không quá 20 cm.
- Cây xuất vườn phải được đảo bầu tối thiểu
trước 10 ngày■
ÁNHNGUYỆT
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Chuẩnbịgốcvàchồitrướckhighép Saukhighép
Gốc ghép
Chồi ghép
Mối ghép
Buộc dây
cố định
Vị trí vạt
Hình minh họa cách ghép chồi vạt ngọn (ghép vát)
24
Thông tin

KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ SỐ 2/2014
T
hị hiếu của người tiêu
dùng thủy sản hiện nay
là hướng tới các sản phẩm bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP). Nuôi cá rô phi thâm
canh theo mô hình ứng dụng Quy
phạm thực hành nuôi tốt (GAP)
là quá trình nuôi có áp dụng
các biện pháp kỹ thuật phù hợp
nhằm đảm bảo VSATTP của sản
phẩm nuôi, an toàn về dịch bệnh,
thân thiện với môi trường và
đảm bảo có hiệu quả kinh tế cho
người nuôi.
Quy trình nuôi bao gồm các
bước sau:
1.Chuẩnbịaonuôi
Ao rộng từ 4.000 - 6.000 m

2
,
mức nước 1,5 - 2,0 m.
2.Tẩydọnaonuôi
Vét bùn đáy ao, bón 8 - 10 kg
vôi bột/100 m
2
. Nếu ao nhiễm

phèn hoặc chua thì bón tăng
thêm 2 - 3 kg/100 m
2
. Phơi đáy ao
2 - 3 ngày, sau đó lọc nước sạch
vào ao. Bón phân vô cơ cho
ao nhằm tạo nguồn thức ăn tự
nhiên, khi nước ao có màu xanh
nõn chuối có thể thả cá. Sau
khi lấy nước 3 - 5 ngày có thể
thả giống.
Lưu ý: Không trộn đạm với lân
để tránh phản ứng làm mất tác
dụng. Chọn thời điểm nắng đều
(9 - 10 giờ sáng) để bón phân
vô cơ cho ao là thích hợp nhất vì
tảo sẽ hấp thụ ngay nguồn dinh
dưỡng vừa bón xuống ao.
3.Mùavụnuôi
Miền Bắc thả giống từ tháng
3 - 6, miền Nam có thể thả giống
quanh năm. Trong điều kiện nuôi
ở miền Bắc nên áp dụng các
hình thức lưu giữ giống qua đông
nhằm chủ động có nguồn giống
sớm để thả nuôi vào tháng 3 - 4.
4.Cágiốngvàmậtđộthả
Cá rô phi dòng GIFT đơn tính
đực hoặc cá rô phi vằn được các
cơ sở sản xuất giống có uy tín

cung cấp, có bảo hành về chất
lượng. Nên thả cá giống cỡ lớn
(5 - 10 g/con) để hạn chế tỷ lệ
hao hụt.
Mật độ thả tùy thuộc vào kích
cỡ thu hoạch dự kiến và năng suất
nuôi: Với mô hình 10 tấn/ha thả
2,3 - 3,0 con/m
2
ao, với mô hình
20 tấn/ha thả 5 - 7 con/ m
2
ao.
5.Chămsócvàquảnlý
- Các yếu tố môi trường:
Phải đảm bảo nhiệt độ 27 - 33
0
C;
pH: 7,5 - 8,5; ôxy hòa tan: 4 - 6 mg/l;
độ trong: 20 - 30 cm; NH
3
< 0,1 mg/l
.
- Thức ăn cho cá: Phải đảm
bảo chất lượng quy định tại Tiêu
chuẩn ngành 28TCN 189:2004.
Nên sử dụng thức ăn công
nghiệp hoặc thức ăn tự chế dạng
viên nén không tan trong nước.
Trong điều kiện không có thức ăn

viên nén, có thể chế biến thức ăn
phối trộn, nấu chín, nắm thành
từng nắm nhỏ và cho cá ăn trên
sàn ăn.
Không nên cho cá rô phi ăn
thức ăn dạng bột. Cho ăn 2 lần/ngày:
Buổi sáng lúc 8 giờ 30, buổi chiều
lúc 4 giờ. Định kỳ 10 ngày dùng
vó hoặc chài thu 30 con cá, cân
rồi tính khối lượng trung bình để
điều chỉnh lượng thức ăn (tính
toán theo công thức) cho cá.
- Tăng cường ôxy cho cá:
Trong ao bố trí 3 - 4 máy quạt
nước hoặc máy sục khí từ tháng
thứ 3 trở đi. Vào những ngày
không có nắng, cần tăng thời
gian vận hành máy. Những ngày
trời mưa to, nhiều gió, có thể
giảm thời gian vận hành nhằm
tiết kiệm năng lượng.
- Chế độ thay nước: Thay
nước tích cực từ tháng thứ 3 trở
đi, thay từ 1/3 - 1/2 lượng nước
với tần suất 4 lần/tháng, riêng
tháng thứ 3 thay 2 lần/tháng; các
tháng thứ 1 và 2 cấp thêm 1/4
lượng nước.
- Sử dụng hóa chất để bảo
đảm môi trường ao nuôi cho cá:

+ Vôi CaCO
3
hoặc CaMg(CO
3
):
Bón định kỳ cho ao nuôi 10 ngày/
lần, liều lượng 1 - 2 kg/100 m
3

nước.
+ Zeolite: Bón vào 3 tháng
cuối chu kỳ nuôi để chúng hấp
thu các độc tố (NH
3
, H
2
S) và kim
loại nặng, định kỳ 10 ngày/lần,
liều lượng 1 - 2 kg/100 m
3
nước.
+ Tricloisoxianuric axit
(TCCA): Từ tháng thứ 3 - 6, định
kỳ 7 - 10 ngày/lần phun TCCA để
khử trùng ao và diệt bớt tảo phát
triển trong ao nuôi, liều lượng
0,3 - 0,5g/m
3
nước.
- Sử dụng các chế phẩm sinh

học: Dùng một trong các dòng có
tên sau đây: Soil-Pro Pond Clear;
Aro-zyme
Ò
; Aqua pond-100. Liều
lượng và thời gian sử dụng theo
hướng dẫn ghi trên sản phẩm.
Nuôi thâm canh cá rô phi
trong ao đất đạt năng suất
20 - 25 tấn/ha/vụ là hình thức
nuôi đạt năng suất cao, sử dụng
100% thức ăn công nghiệp. Hình
thức nuôi này phù hợp với các
trang trại, các nông hộ tiên tiến
am hiểu về kỹ thuật nuôi cá rô phi
và có khả năng đầu tư cao. Thời
gian nuôi 6 tháng, cỡ cá thương
phẩm đạt trên 500 g/con phục vụ
cho chế biến xuất khẩu■
TTKNQG
NUÔI CÁ RÔ PHI
THÂM CANH TRONG AO
theo hướng GAP

×