I.Tổng quan về chứng khoán phái sinh
1.Khái niệm
Chứng khoán phái sinh hay còn gọi là công cụ phái sinh: Chứng khoán phái
sinh là những tài sản tài chính mà mà giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị hoặc tài
sản khả năng sinh lời của một tài sản khác.
2.Vai trò
a.Chứng khoán phái sinh giúp phòng ngừa rủi ro
Nhà đầu tư là nhưng người có tiền thực hiện giao dịch trao đổi mua
banschuwngs khoán nhằm mục đích sinh lời. khi nhà đầu tư này nắm giữ chứng
khoán gốc cổ phiếu,trái phiếu họ muốn chứng khoán này lên giá.vì vậy họ sẽ được
them lời từ khoản chênh lệch giá. Tuy nhiên phần tài sản của họ sẽ bị thiệt hại khi
thị trường có nhiều bất lợi khi gia scuar những chứng khoán của họ bị giảm giá. Đó
là những lí do gây tổn thất cho nhà đầu tư vì vậy phải phòng ngừa giảm thiểu rủi
ro.mỗi loại chứng khoán phái sinh có cách phòng ngừa rủi roc ho nhf đầu tư,bảo vệ
tài sản và cả phần lợi nhuận của nhà đầu tư.ví dụ như chứng quyền bảo vệ quyền
lợi cho những cổ đông thường khi công ty phát hành cổ phiếu mới…
b.Chứng khoán phái sinh được nhà đầu tư sử dụng để đầu cơ
Hoạt động đầu cơ là những hoạt động giao dịch mua bán các hợp đồngcủa
nhà đầu tư mà không sử dụng đến chứng khoán gốc.nhà đầu tư mua bán chứng
khoán nhằm mục đích kiếm lợi. nhà đầu cơ phải phân tích biến động,khả năng tang
trưởng phát trieenrcuar chứng khoán gốc trên thị trường tiền mặt,từ những nhận
định đó nhà đầu tư quyêt định có mua hay bán chứng khoán phái sinh.nhà đầu co
sẽ hi vọng kiếm được lợi nhuận cao nhờ việc chênh lệch giá .
3.Phân loại
Theo chuẩn mực Quốc tế, bao gồm nhiều loại. Nhưng có thể liệt kê 5 loại
chứng khoán phái sinh chủ yếu sau: quyền mua cổ phần; chứng quyền; hợp đồng
kỳ hạn; hợp đồng tương lai; và quyền lựa chọn.
a.Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước)
Là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty
cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một đợt phát hành CP phổ thông
mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại mức giá xác định,
thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định.
b.Chứng quyền
Thời điểm phát hành: được phát hành cùng đợt với phát hành trái phiếu, cổ
phiếu ưu đãi.
Mục đích: Quyền này được phát hành khi tổ chức lại các công ty hoặc khi công ty
nhằm mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ
phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi.
Đặc điểm: Là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được mua
một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu thường, với
một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Để chấp nhận những điều
kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ
phiếu thường.
c.Hợp đồng kỳ hạn
Là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực
hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định
trong tương lai với một mức giá ấn định vào ngày hôm nay.
d.Hợp đồng tương lai
Là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc bán một hàng hoá
nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo một mức giá đã định trước.
Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là cung cấp một cơ
hội cho những người tham gia thị trường để phòng ngừa rủi ro về những biến động
giá bất lợi.
e.Hợp đồng quyền chọn:
Một quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là
quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định
hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Các hàng hoá
cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương
phẩm
II.Thực trạng chứng khoán phái sinh tại việt nam
1. chứng khoán phái sinh trên thị trường việt nam trước 2009
Những công cụ phái sinh được giới thiệu vào thị trường tiền tệ ở Việt Nam
vào cuối những năm 1990 và đến nay xuất hiện nhiều công cụ phái sinh chuẩn và
không chuẩn đang được thực hiện. Tuy nhiên, việc áp dụng các công cụ phái sinh
còn rất hạn chế tại các NHTM của Việt Nam. Thống kê của ngân hàng thanh toán
quốc tế, tính đến cuối tháng 9/2008, tổng giá trị chứng khoán phái sinh trên thế
giới vào khoảng gần 600.000 tỷ USD. Tổng giá trị giao dịch của chứng khoán phái
sinh toàn cầu là một con số rất lớn nếu so sánh với tổng GDP toàn cầu (khoảng
30.000 tỷ USD) hay tổng giá trị chứng khoán vốn (khoảng 31.000 tỷ USD) và tổng
giá trị chứng khoán nợ (khoảng 51.000 tỷ USD)[8]. Thế nhưng, con số này đối với
giao dịch phái sinh ở Việt Nam rất ít được nhắc tới vì quá khiêm tốn, mặc dù đây là
công cụ bảo hiểm rủi ro tài chính phổ biến trên thế giới.
Đối với những công cụ phái sinh về lãi suất thì trên thực tế đã có một số hợp
đồng giao dịch hoán đổi lãi suất (IRD) của ngân hàng với các đối tác trên thị
trường nhưng phạm vi rất hạn hẹp. Ngân hàng ngoại thương thực hiện hoán đổi lãi
suất kèm theo điều kiện quyền chọn với các đối tác là tổ chức tín dụng hoạt động
tại Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở trong nước và ngoài nước. Quyền
chọn thuộc về Ngân hàng ngoại thương là quyền kết thúc trước hạn hợp đồng
Swap đối với các khoản vay của đối tác. Ngân hàng Citibank Việt Nam thực hiện
thí điểm hoán đổi lãi suất giữa hai đồng tiền từ ngày 1/3/2005 đến 2/2006. Ngân
hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi
suất đối với các khoản đi vay và cho vay trung hạn bằng USD hoặc Euro. Ngân
hàng HSBC thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn, thời hạn của hợp đồng
tối đa là 5 năm. Theo thỏa thuận của hợp đồng này, khách hàng vay của HSBC sẽ
trả theo Sibor cộng với phần chênh lệch cho những ngày lãi suất Sibor giao động
trong một khoảng được định trước. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh Việt
Nam thực hiện hoán đổi chéo giữa hai đồng tiền (Cross Currency Swap) đối với
khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ. Ngân hàng
Calton, ABN – AMRO thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện
trong tương lai (Forward Start Swap) là thỏa thuận hoán đổi lãi suất vào một ngày
cụ thể trong tương lai theo một mức lãi suất đã được định trước.
Bên cạnh công cụ hoán đổi, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép thực
hiện thí điểm quyền chọn ngoại tệ (option ngoại tệ/VND) tại một số ngân hàng:
NHTMCP Quốc Tế, Ngân hàng ngoại thương (8/2005); NHTMCP Á Châu,
NHDDT&PT, NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân Đội (12/2005). Tuy nhiên,
qua khảo sát tại một số ngân hàng và chi nhánh ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, những nơi được đánh giá là có điều kiện để triển khai nghiệp
vụ hoán đổi lãi suất đã cho thấy các công cụ này đã hình thành ở Việt Nam, tuy
nhiên còn nhỏ bé và chưa phổ biến
Những số liệu phân tích trên cho thấy, thị trường các công cụ phái sinh phát triển
khá khiêm tốn tại Việt Nam, đặc biệt một số NHTM. Mặc dù chưa có con số thống
kê chính thức nhưng tổng giá trị các công cụ phái sinh được sử dụng phòng hộ rủi
ro không vượt quá 1% tổng giá trị giao dịch ngoại hối trong các NHTM.
* Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này có thể là:
- Do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp, trên thị
trường còn thiếu vắng các đội ngũ các nhà quản lý, các giao dịch viên chuyên
nghiệp. Thực tế, có nhiều NHTM được phép thực hiện quyền chọn ngoại hối từ lâu
nhưng đến nay vẫn chưa triển khai được.
- Do cơ sở pháp lý các nghiệp vụ phái sinh còn chưa đầy đủ, ngoại trừ giao dịch
hoán đổi lãi suất đã có quy chế của ngân hàng nhà nước (Quyết định số
1133/2003/QĐ – NHNN, ngày 30/09/2003 ban hành kèm theo quy chế). Mặc dù
hiện nay tất cả các NHTM đều được thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ, tuy
nhiên chỉ được thực hiện quyền chọn giữa ngoại tệ và ngoại tệ, còn quyền chọn
giữa ngoại tệ và VND thì phải được sự cho phép từ phía NHNN.
- Các NHTM còn e dè trong thực hiện các nghiệp vụ phái sinh do đây là nghiệp
vụ phức tạp, mức độ nhận thức của chuyên gia cũng như các công cụ kỹ thuật hỗ
trợ để thực hiện về nghiệp vụ này còn hạn chế
2.thị trường chứng khoán phái sinh trên thế giới và phương thức xây dựng thị
trường của Việt Nam hiện nay
Nhiều minh chứng cho thấy, thị trường phái sinh (TTPS) tồn tại hàng trăm năm
với những thỏa thuận liên quan đến giao dịch thương mại, tài chính. Tuy nhiên, thị
trường này chỉ thực sự đi vào lịch sử với sự ra đời của Sở giao dịch (SGD) phái
sinh tập trung đầu tiên – SGD Chicago - Hoa Kỳ năm 1848. Công cụ này được cải
tiến nhằm hoàn thiện 3 chức năng quan trọng của thị trường là: huy động vốn, phân
bổ vốn và phân tán rủi ro.
Đến nay TTPS này đang phát triển mạnh mẽ và chưa có một công cụ tài chính
nào làm được điều tương tự. Theo số liệu thống kê của Liên đoàn các Sở giao dịch
chứng khoán (SGDCK) trên thế giới (WFE), số lượng các hợp đồng phái sinh được
giao dịch trên SGDCK năm 2011 là 25 tỷhợp đồng, tăng gấp 2,7 lần so với năm
2004 (9 tỷ hợp đồng); Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2004-2011 là
15,5%. Con số trên còn lớn hơn rất nhiều nếu tính thêm các hợp đồng phái sinh
được giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC).
Các công cụ phái sinh trên chỉ số chứng khoán có những đóng góp hết sức quan
trọng. Tỷtrọng chiếm 50% trên tổng số hợp đồng phái sinh có tài sản cơ sở (TSCS)
là chứng khoán (8,3 tỷhợp đồng/15,3 tỷhợp đồng năm 2011) và chiếm 33% tổng số
lượng hợp đồng phái sinh được giao dịch trên tất cả các loại TSCS gồm: tiền tệ,
hàng hóa và lãi suất. Trong số 52 SGD thành viên của WFE năm 2012, công cụ
phái sinh trên chỉ số chứng khoán là loại sản phẩm được các Sở lựa chọn nhiều
nhất. Bảng 1 đã cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Số liệu ở bảng 1 cho thấy, các công cụ phái sinh trên chỉ số chứng khoán đã và
đang là xu hướng lựa chọn và là xu hướng phát triển của TTPS thế giới. Thống kê
từ nhiều quốc gia trên thế giới, công cụ này là một lựa chọn ưu tiên và là sản phẩm
nền móng cho công cuộc xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh (TTCKPS) tại
nhiều quốc gia.
*Việt nam có phương án xây dựng phát triển chứng khoán phái sinh như sau
Về tổ chức, TTCK phái sinh được tổ chức theo hình thức là một đơn vị thuộc
Sở Giao dịch chứng khoán. Trung tâm thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh
theo mô hình bù trừ đối tác trung tâm được tổ chức dưới hình thức là một đơn vị
trực thuộc Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam, là tổ chức duy nhất được thực
hiện chức năng đăng ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán tại Việt Nam.
Về mô hình tổ chức giao dịch, với loại chứng khoán phái sinh giao dịch và tài
sản cơ sở, trong giai đoạn đầu, các chứng khoán phái sinh được phép giao dịch tại
Sở giao dịch chứng khoán là các hợp đồng tương lai dựa trên chỉ số TTCK và hợp
đồng tương lai dựa trên trái phiếu Chính phủ.
Về hệ thống giao dịch chứng khoán phái sinh, hệ thống được vận hành độc lập với
hệ thống giao dịch cổ phiếu, trái phiếu trong hệ thống giao dịch của Sở giao dịch
chứng khoán.
Về mô hình thanh toán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam là tổ chức
duy nhất thực hiện chức năng thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh theo mô
hình đối tác trung tâm thông qua Trung tâm Thanh toán bù trừ chứng khoán.
Thành viên trên TTCK phái sinh gồm: Thành viên giao dịch là các công ty chứng
khoán, ngân hàng thương mại đáp ứng đủ tiêu chuẩn quy định; Thành viên thanh
toán, bù trừ là các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại đáp ứng yêu cầu là
thành viên của Trung tâm thanh toán bù trừ chứng khoán phái sinh.
Về giám sát, công tác giám sát TTCK phái sinh bao gồm: Công tác giám sát thực
hiện tại UBCKNN, công tác giám sát thực hiện tại Sở giao dịch chứng khoán và
Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam. UBCKNN giám sát toàn bộ hoạt động
của TTCK phái sinh.
Theo dự thảo của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước để được môi giới chứng khoán
phái sinh, các công ty chứng khoán phải có vốn điều lệ hoặc vốn chủ sở hữu từ 700
tỷ đồng trở lên. Nếu vậy, sẽ chỉ có 15 công ty "lọt" qua được tiêu chí này.
DANH SÁCH 15 CÔNG TY CHỨNG KHOÁN CÓ VỐN ĐIỀU LỆ TRÊN 700 TỶ ĐỒNG
3. Những cơ hội và thách thức đối với thị trường chứng khoán phái sinh tại việt
nam
Với nhà đầu tư đại chúng, công cụ phái sinh có lẽ còn là khái niệm mới mẻ,
nhưng đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp, đây là loại công cụ không thể thiếu
trong quá trình đầu tư. Ở Việt Nam, chứng khoán phái sinh
a.Cơ hội phát triển
+) Nhu cầu quản lý rủi ro biến động hàng hóa cao
Việt Nam là một trong số những quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông
sản với danh mục sản phẩm đa dạng từ cà phê, cao su, đến hạt điều, đậu tương,
Đặc điểm của các mặt hàng nông sản là sản lượng không ổn định, phụ thuộc nhiều
vào thời tiết, giá cả biến động nhanh, mạnh. Thực tế kinh doanh nông sản Việt
Nam trong những năm vừa qua đã chứng kiến nhiều địa phương, doanh nghiệp
(DN) do không ổn định đầu ra nên sản xuất còn tự phát, nông dân bị cuốn vào
vòng luẩn quẩn “trồng – chặt – trồng” và “được mùa mất giá, mất mùa được giá”
khiến việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, định giá rất bị động, thu nhập người
sản xuất và kinh doanh nông sản đều bấp bênh. Ngoài ra, do không có SGD hàng
hóa đúng nghĩa và liên thông với thị trường quốc tế nên nhiều mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam luôn phải bán dưới giá bình quân thế giới.Những
bất cập trên đã cho thấy nhu cầu phát triển thị trường PSHH cho các DN để quản lý
rủi ro biến động giá hàng hóa, tạo điều kiện cho các DN và người sản xuất tập
trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi với chiến lược phát triển dài hạn và tạo sự
bình đẳng cho các DN Việt Nam khi tham gia cuộc cạnh tranh gay gắt với các DN
nước ngoài trong thị trường hàng hóa liên tục biến động.
+) Nhu cầu phát triển tất yếu trong hội nhập kinh tế thế giới.
Nhu cầu phát triển thị trường phái sinh háng hóa cho các DN càng được hỗ
trợ mạnh trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng và đa dạng vào
nền kinh tế thế giới.
Trên thế giới thị trường phái sinh hàng hóa đã phát triển từ thế kỷ 19 và đang
ngày càng tăng trưởng do giới đầu tư chuyển hướng và nâng tỷ trọng của hàng hóa
trong danh mục đầu tư khi nhận thấy sự mất cân bằng cung cầu trên thị trường
hàng hóa và giao dịch hàng hóa trở nên dễ dàng hơn với mọi đối tượng. Về quy
mô, khối lượng hàng hóa giao dịch đã tăng mạnh qua các năm, nhất là giai đoạn từ
năm 2008 tới 2010 đã tăng khoảng 50% so với 3 năm trước đó. Giá trị giao dịch
tương lai hàng hóa cũng tăng gấp đôi từ năm 2008 tới 2010 khi đạt 380 tỷ USD.
b. Thách thức
+) Thiếu hành lang pháp lý về thị trường phái sinh hàng hóa
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về thị trường PSHH còn nghèo nàn,
thiếu tính rõ ràng và chi tiết để hướng dẫn các chủ thể tham gia thị trường. Các
SGD hàng hóa ở Việt Nam hiện nay đều chưa đạt chuẩn, lỏng lẻo về cơ sở pháp lý
và thể lệ hoạt động nên nguy cơ bất ổn và xảy ra tranh chấp là khó tránh khỏi.
Trong khi thị trường PSHH tại các nước khác đều nhận được sự hỗ trợ phát
triển của Chính phủ thì tại Việt Nam chưa có một hành lang pháp lý đầy đủ để
khuyến khích và hỗ trợ các SGD/ngân hàng phát triển thị trường cũng như bảo vệ
nhà đầu tư thông qua các quy định về ký quỹ, bảo lãnh, hỗ trợ thanh toán hoặc các
biện pháp quả lý rủi ro khác.
+) Quan niệm chưa phù hợp về “lỗ” trên thị trường PSHH
Khi tham gia giao dịch trên thị trường PSHH, người bán và người mua dựa vào
dự đoán về xu hướng giá hàng hóa trong tương lai để cố định giá trước tại thời
điểm hiện tại. Trong khi đó việc dự đoán xu hướng giá trong tương lai có sác xuất
đúng/sai nên việc tham gia vào thị trường PSHH có thể rơi vào trạng thái lãi hoặc
lỗ. Với các tổng công ty lớn thuộc khối DN Nhà nước, việc lỗ từ hoạt động giao
dịch hợp đồng tương lai có thể bị kết luận là lỗ do “đánh bạc” trên thị trường. Quan
niệm này khiến việc thuyết phục các tổng công ty lớn thuộc khối DN Nhà nước –
đối tượng khách hàng có nhu cầu quản lý rủi ro giá cả hàng hóa lớn tham gia vào
thị trường PSHH có khả năng gặp khó khăn.
+) Thị trường non trẻ, thiếu nhà đầu tư kinh nghiệm
Từ những bước phát triển đầu tiên của SGD hàng hóa tại Việt Nam vào năm
2002 (SGD điều của Hiệp hội điều Việt Nam ở TP.HCM và SGD thủy sản Cần Giờ
của Công ty chế biến thủy sản Cholimex), đến nay với bề dày gần 10 năm phát
triển, so với thế giới, thị trường PSHH Việt Nam vẫn là một thị trường non trẻ và
thiếu những nhà đầu tư kinh nghiệm.
+) Thị trường hàng hóa cơ sở chưa phát triển
Thị trường hàng hóa cơ sở phát triển là nền tảng cho thị trường PSHH. Tuy
nhiên, dù là một nước có sản lượng nông nghiệp dồi dào, nhưng thị trường hàng
hóa cơ sở Việt Nam chưa thực sự phát triển. Về phía cung: sản xuất nông nghiệp
còn tự phát; về phía cầu: sản phẩm nông nghiệp phần lớn được xuất khẩu và phụ
thuộc rất nhiều vào giá trên thị trường thế giới.
+) Thói quen, tập quán kinh doanh chưa phù hợp với thông lệ giao dịch tập
trung trên sàn.
Thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với việc phát triển
thị trường PSHH tại Việt Nam. Việc triển khai chưa thực sự thành công của SGD
thủy sản Cần Giờ và SGD cà phê Buôn Mê Thuột có nguyên nhân chính do nông
dân quen với việc mua bán trực tiếp với thương lái hơn là qua sàn, chưa tiếp cận
được với máy tính, công nghệ thông tin.
• Kết luận: Tuy vẫn còn khá nhiều yếu tố cản trở sự phát triển của thị trường
PSHH tại Việt Nam, nhưng sự phát triển của thị trường PSHH tại Việt Nam
được hậu thuẫn bởi nhu cầu quản lý rủi ro biến động giá hàng hóa cao và bởi
việc phát triển thị trường PSHH là bước phát triển tất yếu khi Việt Nam học
hỏi các thông lệ quốc tế và thực hành tốt nhất trong quá trình hội nhập với
nền kinh tế toàn cầu.
Với mục tiêu góp sức vào việc tháo gỡ những khó khăn và đẩy mạnh các mặt
thuận lợi trong quá trình phát triển thị trường PSHH tại Việt Nam, tác giả bài viết
đề xuất một số kiến nghị để Nhà nước, các nhà cung cấp sản phẩm PSHH (các
ngân hàng, SGD) và người sử dụng sản phẩm PSHH (các DN xuất khẩu) cùng suy
nghĩ và triển khai./.
III.Những đánh giá và biện pháp để giải quyết những khó khăn hiện nay của chứng
khoán phái sinh tại việt nam
Việc xây dựng và phát triển TTCK phái sinh là một yêu cầu tất yếu trong quá
trình phát triển của thị trường tài chính. Hiện nay, TTCK Việt Nam cũng đã manh
nha hình thành những sản phẩm phái sinh như quyền mua cổ phần, quyền chọn,
margin (trong đó, chỉ có sản phẩm margin được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước -
UBCKNN lưu hành).
Tuy nhiên, để có thể xây dựng một TTCK phái sinh được chuẩn hóa, đòi hỏi
phải mất nhiều thời gian từ khâu xây dựng khung pháp lý, thể chế, hệ thống cho
đến công nghệ và đặc biệt là quản trị, vì đây là một thị trường phức tạp và rủi ro
đối với cả nhà quản lý lẫn người tham gia thị trường. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm
hiểu các giải pháp là việc làm cần thiết. Cụ thể như sau:
Một là, hoàn thiện hệ thống pháp lý song song với việc ban hành một số chính
sách khuyến khích phát triển thị trường
Đối với hầu hết các TTCK cơ sở, sự hình thành và phát triển của chúng là do nhu
cầu của xã hội và thông thường sự ra đời của chúng được hình thành trước khi có
sự ra đời của một hệ thống khung pháp lý hoàn thiện. Tuy nhiên, do TTCK phái
sinh là TTCK bậc cao và vận hành dựa trên nền tảng các công cụ phòng vệ mang
tính đòn bẩy, tỷ lệ ký quỹ thấp, các hoạt động đầu cơ, làm giá có thể gây lũng đoạn
thị trường cũng như tạo ra nhiều rủi ro tiềm ẩn cho hệ thống tài chính. Do đó, để
xây dựng một TTCK phái sinh phát triển bền vững, an toàn, lành mạnh, nhất thiết
phải tạo lập một khung pháp lý cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành một cách
rõ ràng, chặt chẽ, toàn diện . Đây là một yêu cầu thiết yếu cho việc hình thành và
phát triển thị trường này.
VD: Một trong những quốc gia đã xây dựng TTCK phái sinh thành công là
Singapore. TTCK phái sinh tại Singapore đã được hình thành và phát triển từ năm
1984 với việc thành lập thị trường trao đổi tiền tệ quốc tế Singapore. Ngay từ khi
mới thành lập, các nhà quản lý thị trường đã có một quyết định hợp lý khi cho phép
TTCK phái sinh Singapore được liên thông với thị trường Chicago – TTCK phái
sinh có lịch sử lâu đời nhất và phát triển nhất trên thế giới. Theo đó, nhà đầu tư
được cho phép giao dịch giữa 2 thị trường mà không tốn chi phí nào. Quy định này
đã thu hút nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường trong thời gian đầu thành lập, tạo
lập nền tảng giúp TTCK phái sinh tại Singapore phát triển nhanh và bền vững. Bên
cạnh đó, điều kiện tham gia thị trường cũng được quy định cụ thể cho từng nhóm
đối tượng, chẳng hạn:
+ Đối với thành viên giao dịch là cá nhân: phải là một nhà kinh doanh phái sinh
chuyên nghiệp, có đầy đủ kiến thức, hiểu biết về chứng khoán phái sinh, không yêu
cầu vốn tối thiểu.
+ Đối với thành viên thanh toán: phải có mức vốn tối thiểu 5 triệu đô la
Singapore, có giấy phép cung cấp dịch vụ thị trường vốn và đáp ứng những chuẩn
mực tài chính cao nhất.
Từ năm 2004, Singapore bắt đầu đưa thêm quyền chọn cổ phiếu vào giao dịch
và tiếp tục gặt hái nhiều thành công. Nguyên nhân là bởi Singapore đã đưa ra nhiều
cơ chế chính sách nhằm tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư như: (i) Thay thế hệ thống
khớp lệnh tại sàn bằng hệ thống giao dịch điện tử trực tuyến, (ii) Miễn yêu cầu về
cáo bạch, (iii) Giảm bớt các tiêu chuẩn niêm yết quyền chọn …
Hai là, đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại đáp ứng tính phức tạp của TTCK phái
sinh
Việc giao dịch các chứng khoán phái sinh đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng
kỹ thuật hiện đại, nhất là hệ thống công nghệ thông tin, do việc giao dịch chứng
khoán phái sinh phải được khớp lệnh liên tục, với tốc độ cao. Vì vậy, việc yêu cầu
hệ thống công nghệ thông tin hiện đại là không thể tránh khỏi.
Ba là, xây dựng TTCK lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển chứng khoán
phái sinh
TTCK phái sinh là kiến trúc phát triển cao nhất của TTCK và vận hành dựa
trên nền tảng các công cụ phòng vệ mang tính đòn bẩy. Trên thế giới, khi TTCK cơ
sở phát triển ở mức độ khá cao và hoạt động bán khống, giao dịch ký quỹ, mua bán
trong ngày đã được triển khai thì lúc đó cơ quan quản lý thị trường mới phát triển
TTCK phái sinh.
Vì vậy, theo thông lệ các nước, thị trường phái sinh phát triển rất muộn so với thị
trường cơ sở. Chẳng hạn, Trung Quốc chỉ bắt đầu phát triển các sản phẩm phái sinh
vào năm 2002 (20 năm sau khi thành lập TTCK), Singapore cũng cần gần 10 năm
chuẩn bị trước khi thành lập TTCK phái sinh. Hiện nay, thị trường phái sinh Việt
Nam hình thành trong bối cảnh các sản phẩm cơ bản của thị trường cơ sở chưa đầy
đủ, hoàn thiện. Số lượng chứng khoán tuy nhiều nhưng chất lượng còn thấp, đa số
các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch là các công ty vừa và nhỏ, tính công khai,
minh bạch trong việc công bố thông tin còn thấp, các giao dịch bán khống chỉ mới
xuất hiện và chưa được UBCKNN cho phép lưu hành. Tuy nhiên, bên cạnh những
khó khăn đó, bối cảnh tại Việt Nam cũng đem lại một số thuận lợi khi việc xây
dựng TTCK phái sinh hiện nay gắn liền với đề án tái cấu trúc thị trường và nằm
trong tổng thể Đề án Chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2011-2020. Để phát
triển TTCK phái sinh, cần tiếp tục hoàn thiện, tái cấu trúc TTCK theo 4 định
hướng:
+ Tái cấu trúc tổ chức thị trường, tái cấu trúc các sở giao dịch chứng khoán theo
các mục tiêu phát triển dài hạn đã được đề ra trong Chiến lược phát triển TTCK
Việt Nam giai đoạn 2011-2020, đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh, vững
chắc, được quản lý, giám sát chặt chẽ; cơ cấu quản trị điều hành minh bạch, rõ
ràng, chuyên nghiệp theo thông lệ và các chuẩn mực quốc tế.
+ Nâng cao chất lượng hàng hóa kết hợp với việc đa dạng hóa các sản phẩm
chứng khoán; nâng cao hơn nữa chất lượng quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro
tại các tổ chức phát hành, đảm bảo tính công khai, minh bạch; từng bước áp dụng
các tiêu chuẩn, chuẩn mực quốc tế về công tác kế toán, kiểm toán, quản trị rủi ro,
đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, cổ đông, củng cố lòng tin của thị trường.
+ Đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, tập trung phát triển hệ thống nhà đầu tư tổ
chức, các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, phát triển các sản phẩm bảo hiểm liên
kết đầu tư đảm bảo tính an toàn và hiệu quả
+ Thu hẹp số lượng các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các công ty
chứng khoán có hoạt động yếu kém, không hiệu quả; kiện toàn mô hình hoạt động
của các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế; nâng cao chất
lượng quản trị rủi ro tại các tổ chức này.
Tuy nhiên, do TTCK cơ sở tại Việt Nam vẫn chưa phát triển đầy đủ nên quá trình
xây dựng TTCK phái sinh phải được thực hiện từng bước vững chắc, có lộ trình,
và phải bám sát với Đề án tái cấu trúc TTCK. Ngày 11/3/2014, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán (TTCK)
phái sinh Việt Nam. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên điều chỉnh về
TTCK phái sinh tại Việt Nam, qua đó tạo tiền đề, cơ sở nhằm tạo dựng hành lang
pháp lý cho việc phát triển TTCK phái sinh bền vững trong tương lai.
*KL: Thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh nói riêng là lĩnh vực kinh doanh
đòi hỏi phải có kiến thức, trình độ chuyên môn cao, nhưng hiện nay còn khá mới
mẻ ở VN. Cho nên, việc đào tạo phải gắng kết với hoạt động mở rộng quan hệ giao
lưu hợp tác quốc tế đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn, xây dựng chính sách phát triển
và quản lý thị trường. Đó là những công việc mà nhà nước, chính phủ và các cơ
quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để thị trường ngày càng phát
triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực của tất cả các chủ thể kinh
tế, các DN, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể cung cấp và sử dụng
sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các chủ thể
tham gia trực tiếp chứ không phải là các chủ thể quản lý.
Sự xuất hiện của các sản phẩm phái sinh trên thị trường phi tập trung đã khẳng
định nhu cầu của nhà đầu tư với loại công cụ mới này. Tuy nhiên, các sản phẩm
phái sinh còn mang tính tự phát, thiếu sự quản lý của nhà nước và mang tính rủi ro
cao. Điều này đặt ra yêu cầu thiết lập một thị trường phái sinh dựa trên các tài sản
cơ sở là chứng khoán, có cơ chế pháp lý đầy đủ và được vận hành dưới sự quản lý
của Nhà nước.