Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nghiên cứu phương pháp Pictogram trên kết quả thực nghiệm của bệnh nhân tâm thần phân liệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 107 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



TRẦN THÀNH NAM


NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP PICTOGRAM TRÊN KẾT QUẢ THỰC
NGHIỆM CỦA BỆNH NHÂN TÂM THẦN PHÂN LIỆT

Luận văn Thạc sỹ Tâm Lý học

Mã số: 5 06 02


Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Sinh Phúc




Hà nội - 2004







- 1 -
MỤC LỤC


Mục lục - 1 -
Phần I: Mở đầu - 3 -
1. Lý do chọn đề tài - 3 -
2. Mục đích nghiên cứu - 5 -
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu - 5 -
4. Nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu - 5 -
5. Giả thuyết nghiên cứu - 7 -
6. Phương pháp nghiên cứu - 7 -
Phần II: Nội dung chính - 9 -
Chương 1 - 9 -
Cơ sở lý luận - 9 -
1.1. Phương pháp - 9 -
1.1.1. Khái niệm - 9 -
1.1.2. Các cấp độ phƣơng pháp nghiên cứu trong TLH - 10 -
1.2. Những đặc điểm rối loạn tâm thần ở bệnh nhân TTPL - 22 -
1.2.1. Khái niệm về bệnh tâm thần phân liệt - 22 -
1.2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt - 23 -
1.2.3. Đặc điểm rối loạn tâm thần ở bệnh nhân tâm thần phân liệt - 24 -
1.3. Các phương pháp nghiên cứu tâm lý dùng trong lâm sàng TTPL - 27 -
1.3.1. Các phƣơng pháp khảo sát nhận thức - 28 -
1.3.2. Những phƣơng pháp khảo sát nhân cách - 29 -
1.3.3. Pictogram - 31 -
Chương 2 - 38 -

Tổ chức nghiên cứu - 38 -
2.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu - 38 -
2.1.1. Địa bàn nghiên cứu - 38 -
2.1.2. Khách thể nghiên cứu - 41 -
2.2. Tiến hành thực nghiệm - 44 -
2.2.1. Các phƣơng tiện cần thiết - 44 -
2.2.2. Các bƣớc tiến hành thực nghiệm - 44 -
2.2.3. Công thức toán học đƣợc sử dụng để kiểm tra tính ý nghĩa - 45 -
2.2.4. Tiến trình thời gian tiến hành nghiên cứu - 46 -
Chương 3 - 48 -
Kết quả và bàn luận - 48 -
3.1. Cách tiến hành và phân tích phương pháp pictogram - 48 -
3.1.1. Tài liệu cần thiết - 48 -
3.1.2. Cách tiến hành - 49 -
- 2 -
3.1.3. Các yếu tố phân tích kết quả - 49 -
3.2. Các kết quả Pictogram trên nhóm bệnh nhân TTPL và nhóm chứng - 54 -
3.2.1. Yếu tố nội dung hình vẽ: (F
1
) - 55 -
3.2.2. Yếu tố nội dung giải thích: (F
2
) - 61 -
3.2.3. Yếu tố ý nghĩa cá nhân: (F
3
) - 67 -
3.2.4. Yếu tố liên tƣởng: (F
4
) - 70 -
3.2.5. Việc sử dụng từ, chữ số: (F

5
) - 76 -
3.2.6. Yếu tố sử dụng màu sắc: (F
6
) - 79 -
3.2.7. Từ chối vẽ hình: (F
7
) - 84 -
3.2.8. Các yếu tố khác: (F
8
); (F
9
); (F
10
); (F
11
) - 86 -
3.2.9. Kết quả tái hiện - 90 -
3.3. Bàn luận - 91 -
3.3.1. Về phƣơng pháp pictogram - 92 -
3.3.2. Những sự khác biệt lớn giữa nhóm TTPL với nhóm bình thƣờng trên kết
quả thực nghiệm Pictogram - 93 -
3.3.3. Những hạn chế của pictogram trong nghiên cứu này - 97 -
Phần III: Kết luận và khuyến nghị - 99 -
1. Kết luận - 99 -
2. Khuyến nghị - 100 -

Tài liệu tham khảo
Phụ lục
- 3 -

PHẦN I: MỞ ĐẦU


1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong tâm lý học (TLH) cũng như bất kỳ một lĩnh vực khoa học nào, các
phương pháp luôn là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nhà nghiên cứu. Công cụ
càng phong phú, kỹ năng sử dụng công cụ càng cao thì nhà nghiên cứu càng có
cơ hội phản ánh đối tượng khách quan và chính xác.
Những năm gần đây, TLH lâm sàng ở Việt Nam đã có những bước phát
triển đáng kể, các nghiên cứu ứng dụng của TLH vào trong lâm sàng ngày càng
nhiều hơn. Chúng ta có cơ hội tiếp cận nhiều phương pháp, trắc nghiệm, thang
đo từ các nguồn khác nhau. Điều này đã tạo nên sự đa dạng nhất định trong
nghiên cứu thực tiễn. Tuy nhiên, một trong những khó khăn mà các nghiên cứu
tâm lý lâm sàng gặp phải cũng chính là vấn đề phương pháp. Phần lớn các
phương pháp đang được sử dụng trong TLH lâm sàng là trắc nghiệm hoặc
phỏng vấn có cấu trúc. Mặc dù trước khi đưa vào ứng dụng trong thực tiễn, các
nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đã có những bước làm thử, thăm dò, song có
thể nhận thấy rằng chúng ta chưa có các “chuẩn” riêng của mình theo đúng
những yêu cầu của test.
Trong lâm sàng tâm thần, một trong những điều mà các thầy thuốc cần ở
nhà tâm lý chính là chẩn đoán tâm lý lâm sàng. Kết quả của chẩn đoán tâm lý
lâm sàng trong nhiều trường hợp là những cứ liệu có giá trị, giúp cho bác sĩ
chẩn đoán bệnh nói chung và chẩn đoán phân biệt nói riêng.
Ở các nước trên thế giới, người ta sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
để nghiên cứu, khảo sát tâm lý người bệnh tâm thần, từ các phương pháp xuất
chiếu như Rorschach, TAT, hoặc các phương pháp khảo sát nhân cách khác như
MMPI, EPI, 16-PF của Cattell cho đến những test trí tuệ, cảm xúc v.v
- 4 -


Khi ứng dụng những test này vào Việt Nam, cái khó mà các nhà nghiên
cứu thường phải đối mặt, như đã đề cập ở trên, chính là các chuẩn. Bên cạnh
đó, có rất nhiều test được xử lý chủ yếu theo định lượng nên ngay cả các nhà
TLH cũng gặp những khó khăn nhất định khi phải đưa ra nhận định, đánh giá về
những đặc điểm rối loạn tâm lý - nhân cách của một người bệnh cụ thể có phù
hợp với chẩn đoán lâm sàng hay không.
Trong những năm tồn tại của nhà nước Xô viết, TLH nói chung và TLH
lâm sàng nói riêng đã có những thành tựu phát triển quan trọng. Để đối trọng
với cách tiếp cận định lượng, các nhà TLH lâm sàng Xô viết, ví dụ như B.V.
Zeygarnik, X.Ia. Rubinstein, Iu.F. Poliakov đã xây dựng và phát triển các
phương pháp tiếp cận định tính. Song song với điều này, nhằm khắc phục những
hạn chế của trắc nghiệm, họ đi sâu vào phát triển thực nghiệm. Cùng với những
vấn đề về lí luận, nhiều phương pháp thực nghiệm tâm lý bệnh học đã thực sự
trở thành những công cụ đắc lực, hữu hiệu cho các nhà nghiên cứu.
Trên tinh thần tiếp thu, khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm của các
nhà TLH lâm sàng Xô viết và cũng nhằm có thêm các phương pháp thăm khám
tâm lý lâm sàng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chẩn đoán tâm lý, chúng
tôi lựa chọn đề tài “Nghiên cứu phương pháp Pictogram trên kết quả thực
nghiệm của bệnh nhân tâm thần phân liệt” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
Pictogram là phương pháp do A.R.Luria đưa ra vào những năm 20 của thế
kỷ XX và đã được các nhà TLH lâm sàng Liên Xô sử dụng nhiều. Hiện nay,
mặc dù đã được đưa vào sử dụng trong một số cơ sở điều trị tâm thần ở nước ta,
nhưng chúng tôi cho rằng phương pháp này vẫn cần được chẩn hoá, hoàn thiện
hơn để đáp ứng tốt hơn những yêu cầu của thực tiễn đề ra.

- 5 -
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề xuất quy trình tiến hành và phân tích kết quả Pictogram trên cơ sở phân
tích phương pháp Pictogram và các kết quả thực nghiệm của bệnh nhân TTPL, từ

đó đưa ra khuyến nghị về việc sử dụng phương pháp này trong chẩn đoán lâm sàng
bệnh nhân TTPL.
3. ĐỐI TƢỢNG, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp Pictogram trên bệnh nhân TTPL.
3.2. Khách thể nghiên cứu
- 63 bệnh nhân đã được các bác sĩ chuyên khoa chẩn đoán xác định là
TTPL theo tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD - 10, đang điều trị nội trú (tại
thời điểm nghiên cứu) ở Khoa A6 - Bệnh viện 103 và Bệnh viện Tâm thần
Trung ương - Thường Tín – Hà Tây
- Để có số liệu so sánh, phân tích đối chứng, chúng tôi cũng lựa chọn một
nhóm 85 người khoẻ mạnh, độ tuổi từ 18 đến 38 trong đó có 61 nam; 24
nữ.
4. NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về phương pháp luận, phương pháp tiếp cận và các phương
pháp nghiên cứu cụ thể trong TLH.
- Nghiên cứu lý luận về thực nghiệm Pictogram, lịch sử và các công trình nghiên
cứu liên quan đến phương pháp này. Trên cơ sở đó thống nhất quy trình tiến
hành thực nghiệm Pictogram trên nhóm bệnh nhân TTPL và nhóm người bình
thường và đề xuất bảng hướng dẫn phân tích các yếu tố trong Pictogram.
- 6 -
- Nghiên cứu lý luận về các biểu hiện đặc trưng của bệnh TTPL, các phương pháp
nghiên cứu tâm lý dùng trong lâm sàng TTPL.
- Phân tích kết quả thực nghiệm ở bệnh nhân TTPL trên cơ sở các tiêu chuẩn của
bảng hướng dẫn phân tích các yếu tố đã đề xuất, so sánh với nhóm bình thường
để rút ra những kết luận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1 Giới hạn về nhóm khách thể nghiên cứu:
- Nhóm bệnh nhân TTPL: Lựa chọn những bệnh nhân đã được chẩn đoán xác

định là TTPL, đang trong trạng thái tạm ổn định, hợp tác làm thực nghiệm.
Những bệnh nhân này đã được bác sĩ cho tạm dừng thuốc hướng tâm thần 24
giờ trước khi làm thực nghiệm theo đề nghị của nhà tâm lý.
- Nhóm đối chứng: Để tiện so sánh với nhóm nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn một
nhóm đối chứng. Nhóm này gồm những người đang sinh sống, làm việc trên địa
bàn Hà Nội và Hà Đông, trên cơ sở có cân nhắc đến các yếu tố giới, tuổi, trình
độ văn hóa so với nhóm nghiên cứu.
4.2.2 Giới hạn về địa bàn khảo sát của nhóm bệnh nhân TTPL:
- Khoa A6 - Bệnh viện 103, và bệnh viện Tâm thần Trung ương – Thường Tín –
Hà Tây từ tháng 10 năm 2003 đến tháng 4 năm 2004.
4.2.3 Giới hạn về nội dung nghiên cứu:
- Do những điều kiện khách quan, trong đề tài này, chúng tôi chỉ bàn đến việc sử
dụng phương pháp pictogram thông qua phân tích kết quả ở bệnh nhân TTPL. Đây
sẽ là cứ liệu cho việc phân tích pictogram trên các nhóm bệnh khác trước khi kết
luận về khả năng chẩn đoán phân biệt của nó.
- 7 -
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
- Có sự khác biệt giữa kết quả Pictogram của người bệnh TTPL với người bình
thường.
- Dùng phương pháp pictogram để nghiên cứu sẽ thu được các thông số về trí
nhớ gián tiếp, các đặc điểm về nội dung hình vẽ, khái quát giả, liên tưởng bắc
cầu, ngẫu nhiên, yếu tố màu sắc, sự từ chối vẽ hình. Đó có thể là những thông
tin có giá trị gợi ý cho nhà tâm lý trong chẩn đoán bệnh TTPL.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Tiến hành dựa trên việc tổng hợp và khái quát các tài liệu đã xuất bản, những
công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm làm rõ cơ sở lý luận của đề tài. Cụ
thể là khái niệm về phương pháp, khái niệm phương pháp Pictogram và các công
trình nghiên cứu có liên quan đến phương pháp này, khái niệm bệnh TTPL và các
đặc điểm lâm sàng, tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh TTPL

6.2. Phương pháp thực nghiệm
Tiến hành thực nghiệm Pictogram:
- Phương pháp Pictogram do Luria A.R. đề xuất vào những năm 20 của thế
kỷ XX là một phương pháp nghiên cứu trí nhớ gián tiếp. Tuy nhiên nó
không chỉ được dùng để nghiên cứ trí nhớ gián tiếp mà còn dùng để phân
tích tính chất liên tưởng của bệnh nhân. Phương pháp này sử dụng cho
bệnh nhân có trình độ văn hoá từ lớp 7 trở lên. Trong thực nghiệm, chúng
tôi yêu cầu nghiệm thể lần lượt vẽ để nhớ 16 cụm từ đã được chọn: Ngày
hội vui, Lao động nặng, Phát triển, Bữa cơm ngon, Hành động dũng cảm,
Bệnh tật, Hạnh phúc, Câu hỏi độc ác, Luồng gió mát, Công bằng, Đêm
tối, Sự thật, Hy vọng, Em bé đói, Lừa dối và Đoàn kết.
- 8 -
- Thực nghiệm được tiến hành với từng người trên nhóm bệnh nhân TTPL
và nhóm người bình thường.
- Đối tượng là bệnh nhân được làm thực nghiệm tại phòng test tâm lý của
Khoa A6 Bệnh viện 103 và phòng test tâm lý của bệnh viện Tâm thần
Trung ương.
- Đối tượng là người bình thường (nhóm chứng) được tiến hành thực
nghiệm trong phòng riêng yên tĩnh.
6.3. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ bệnh nhân
Trước khi làm thực nghiệm, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các hồ sơ bệnh
án của bệnh nhân đang điều trị tại Khoa A6 - Bệnh viện 103 và bệnh viện Tâm thần
Trung Ương. Trong trường hợp cần thiết, chúng tôi hỏi thêm các bác sĩ điều trị để
nắm được đầy đủ hơn thông tin về bệnh nhân.
6.4. Phương pháp thống kê toán học
Kết quả được xử lý định tính kết hợp với xử lý định lượng theo chương trình
SPSS 12.0 cho hệ điều hành Windows trên máy vi tính. Các số liệu thu được được
trình bày bằng bảng biểu.
- 9 -
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. PHƢƠNG PHÁP
1.1.1. Khái niệm

Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm phương pháp tuỳ theo từng
góc độ tiếp cận. Trong tiếng Hy Lạp, phương pháp (methodos) - có nghĩa là cách
thức, con đường để thực hiện một mục đích nhất định.
Phương pháp có một số đặc điểm cơ bản như sau:
- Tính hướng đích: đây là dấu hiệu cơ bản của phương pháp
- Tính cấu trúc : để đạt mục đích, con người phải thực hiện một loạt những
thao tác được sắp xếp theo một trình tự lôgic, có hệ thống, có khoa học
- Gắn liền với nội dung: phương pháp tùy theo đối tượng nghiên cứu. Nội
dung quy định phương pháp, nhưng bản thân phương pháp có tác động
trở lại nội dung, làm nội dung phát triển
- Căn cứ duy nhất để đánh giá phương pháp là hiệu quả công việc (vì thông
qua phương pháp có thể đạt được kết quả tối đa với cố gắng tối thiểu)
Trong Từ điển triết học do các nhà triết học Xô viết biên soạn, phƣơng pháp
được định nghĩa là cách thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một
trật tự nhất định Việc áp dụng một cách có ý thức những phương pháp đã được
luận chứng một cách khoa học là điều kiện quan trọng nhất để nhận được tri thức
mới [18;458 ].
- 10 -
Theo Trần Hồng Cẩm, Cao Văn Đán, Lê Hải Yến trong “Giải thích thuật ngữ
Tâm lý - Giáo dục học”: phƣơng pháp là sự tổ chức thể chế hoá về kỹ thuật và
phƣơng tiện để thực hành nhằm đạt tới một mục tiêu. [5;240]
Để hiểu rõ định nghĩa phƣơng pháp nêu trên, ta sẽ phân biệt nó này với định
nghĩa về chiến lƣợc.

Chiến lƣợc là sự tổ chức kỹ thuật và phƣơng tiện để thực hành nhằm đạt tới
một mục tiêu. [5;240] Định nghĩa này khá gần với định nghĩa về phương pháp nêu
trên nhưng khác nhau ở thuật ngữ "thể chế hoá".
"Thể chế hoá" có nghĩa là tạo nên một một tổng thể hoàn chỉnh từ các bộ
phận với cách thức mà chúng ta có thể quy tắc hoá và chuyển giao được, để khi
ứng dụng đúng đắn sẽ sinh ra cùng một kết quả. Như thế, phương pháp là chiến
lược đã thành công, và được diễn giải dưới một hệ thống pháp điển chính xác. Và
do vậy, phương pháp là một kiến thức khách quan hoá, chuyển giao được và tồn tại
ngoài ý muốn của con người.
Một nhà sư phạm có thể mô tả dễ dàng phương pháp dạy học vấn đáp, một
nhà luyện kim cũng có thể mô tả phương pháp sản xuất thép theo công nghệ mới.
Trong mỗi nghề, phương pháp được mọi chuyên gia hiểu và cùng chia sẻ với nhau
trong khi chiến lược mang tính cá nhân.
Phương pháp cần tới kế hoạch hành động để đạt tới mục tiêu, còn kỹ thuật
chỉ cách thức tiến hành hay một tổ hợp cách thức tiến hành đặc thù.
1.1.2. Các cấp độ phương pháp nghiên cứu trong TLH

TLH cũng như mọi ngành khoa học khác, đều giải quyết các nhiệm vụ của
mình dựa vào những phương pháp nhất định. Tuy nhiên, phương pháp là một phạm
trù phức tạp với nội hàm không thuần nhất. Khi bàn về phương pháp của Tâm lý
học, nhiều tác giả chia thành 3 cấp độ:
- 11 -
- Cấp độ phương pháp luận.
- Cấp độ cách tiếp cận hoặc những nguyên tắc mang tính phương pháp luận.
- Cấp độ các phương pháp cụ thể [7].
Cấp độ phương pháp luận, về thực chất, là những quan điểm triết học của
nhà nghiên cứu. Có thể nhận thấy trong bất kì một tài liệu tâm lý học Mác xít nào
khi bàn đến các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học đều nhấn mạnh đến cơ sở
triết học, trước hết là những nguyên lý, các quy luật vận động của sự vật hiện tượng
khách quan và các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.

Phương pháp tiếp cận hoặc những nguyên tắc mang tính phương pháp luận
của Tâm lí học Mác xít chính là sự cụ thể hóa quan điểm triết học vào trong nghiên
cứu tâm lý học. Chính vì bản thân các nguyên tắc này đã là sự cụ thể hoá của các
luận điểm triết học nên nhiều tác giả chỉ đề cập đến 2 cấp độ: những nguyên tắc
phương pháp luận và những phương pháp nghiên cứu cụ thể[19].
1.1.2.1. Cấp độ phương pháp luận

Như đã đề cập ở trên, cấp độ phương pháp luận chính là những quan điểm
triết học của nhà nghiên cứu. Trong tâm lý học Mác xít, phép biện chứng duy vật
vừa là nền tảng vừa là kim chỉ nam cho các phương pháp nghiên cứu.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa phép duy vật và phép
biện chứng trong cách nhận thức thế giới. Phép biện chứng duy vật khẳng định
rằng vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào não người.
Phép biện chứng còn cho chúng ta một cách nhìn hệ thống về các sự vật hiện
tượng trong thế giới khách quan mà bản thân các hiện tượng này luôn nằm trong
trạng thái vận động và phát triển, luôn tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau.
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật được thể hiện trong những vấn
đề chủ yếu dưới đây:
- 12 -
- Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật:
+ Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến của thế giới chỉ ra rằng: tất cả các sự
vật hiện tượng trong thế giới khách quan đều nằm trong những mối quan hệ qua lại
với nhau rất phức tạp. Nguyên lý này đòi hỏi việc nghiên cứu các sự vật hiện tượng
của thế giới phải tuân thủ theo tính hệ thống và toàn diện.
+ Nguyên lý về tính phát triển của thế giới chỉ ra rằng: Mọi sự vật hiện tượng
trong hiện thực khách quan đều luôn nằm trong trạng thái vận động và biến đổi
không ngừng theo xu hướng phát triển. Nguyên lý này đỏi hỏi khi xem xét, nghiên
cứu, phân tích các sự vật hiện tượng của hiện thực khách quan phải xem xét, nghiên
cứu và phân tích chúng trong sự vận động biến đổi không ngừng, trong sự phát

triển của chúng.
- Ba quy luật vận động của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách
quan.
+ Quy luật đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập của sự vật hiện
tượng. Những mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng chính là động lực thúc đẩy sự
phát triển.
+ Quy luật chuyển hoá từ biến đổi về lƣợng thành biến đổi về chất. Quy luật
này cho thấy quá trình phát triển của mọi sự vật hiện tượng không diễn ra theo con
đường thẳng, không chỉ là sự thay đổi về lượng. Quá trình phát triển của sự vật hiện
tượng trải qua các giai đoạn, sự chuyển biến từ giai đoạn này sang giai đoạn khác
chính là những bước nhảy vọt, sự thay đổi về chất.
+ Quy luật phủ định của phủ định. Quy luật này chỉ ra rằng trong quá trình
phát triển, mọi sự vật đều luôn biến đổi và chuyển hoá cho nhau để luôn tạo ra cái
mới chưa hề có. Cái mới chỉ có thể nảy sinh bằng cách phủ định cái trước đó để rồi
tự hình thành và hoàn thiện bản thân mình theo quy lụât của chính mình.
- Các cặp phạm trù:
- 13 -
Trong triết học Mác - Lê nin có rất nhiều cặp phạm trù. Đáng chú ý nhất có
những cặp:
+ Nội dung và hình thức
+ Cái chung và cái riêng
+ Nguyên nhân và kết quả
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên
Những cặp phạm trù này giúp cho nhà nghiên cứu xem xét và phân tích các
sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
Những vấn đề chủ yếu trên của phép biện chứng duy vật là cơ sở triết học
cho các nghiên cứu tâm lý học. Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển bất kỳ
một phương pháp nghiên cứu nào cũng cần phải tuân thủ những nguyên tắc, quan
điểm triết học Mác - Lê nin.
1.1.2.2. Cấp độ phương pháp tiếp cận


Phương pháp tiếp cận ở đây chính là sự cụ thể hoá quan điểm triết học của
nhà nghiên cứu. Do vậy, như đã bàn ở trên, nhiều tác giả xem đây chính là những
nguyên tắc phương pháp luận. Chính vì là sự cụ thể hoá nên trong nhiều tài liệu
khác nhau, chúng tôi nhận thấy có sự khác nhau trong việc trình bày những nguyên
tắc phương pháp luận của nghiên cứu. Sự khác nhau như vậy, theo chúng tôi nhận
thấy, chủ yếu là do sự khác nhau về lĩnh vực mà nhà nghiên cứu quan tâm. Ví dụ,
các nhà tâm lý học quân sự đề cập đến những nguyên tắc phương pháp luận không
hoàn toàn giống như trong những nghiên cứu về tâm lý học trẻ em.
Phương pháp pictogram mà chúng tôi tập trung nghiên cứu chủ yếu được
khai thác và sử dụng trong tâm lý lâm sàng. Chính vì vậy chúng tôi đi sâu hơn một
số cách tiếp cận/nguyên tắc phương pháp luận nghiên cứu có liên quan nhiều hơn.
- 14 -
- Tiếp cận hệ thống
Theo Rubinstein, sự tồn tại của loài người vốn có nhiều bình diện, nhiều cấp
độ và tầng bậc. Để khám phá ra tính đa dạng của các đặc tính của con người và xác
định vị trí của các đặc điểm tâm lý, cần nghiên cứu tập hợp các hệ thống tạo nên sự
sống của con người và đồng thời là cơ sở của các đặc tính của nó.
Theo cách tiếp cận hệ thống, một hiện tượng bất kỳ được xuất hiện và tồn tại
trong phạm vi một hệ thống nào đó (đủ lớn) của các hiện tượng khác. Ở đây, điều
quan trọng là phải thấy rằng: mối liên hệ của các hiện tượng với một hệ thống nhất
định là điều kiện chủ yếu để mỗi hiện tượng nói riêng và cả hệ thống nói chung
xuất hiện, tồn tại và phát triển chứ không phải là sự tương tác lẫn nhau một cách
ngẫu nhiên, tạm thời.
Tất nhiên, các dạng hệ thống, chức năng và cấu trúc của các vật thể không
tách rời nhau. Có nhận xét cho rằng ý định giải thích các đặc điểm tâm lý theo xu
hướng cấu trúc vật thể không có triển vọng. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
nghiên cứu tâm lý có thể bỏ qua nghiên cứu cấu trúc vật thể của nó. Trong các
nghiên cứu, thí dụ, nghiên cứu quá trình nhận thức - cảm giác nhất thiết phải
thường xuyên sử dụng kiến thức về cấu tạo các giác quan và não. Nếu không dựa

vào những kiến thức này thì không thể hiểu một cách đầy đủ những đặc điểm của
quá trình nói trên [15,tr 114].
Trong các tài liệu đề cập đến tiếp cận hệ thống, các tác giả thường đưa ra một
số nguyên tắc:
- Trước hết, nghiên cứu một hiện tượng nào đó phải được xem xét ở nhiều
mặt hay nhiều bình diện.
+ Hiện tượng tâm lý được xem như một đơn vị có chất lượng, một hệ thống
có những quy luật đặc trưng của nó.
- 15 -
+ Một bộ phận của cấu trúc vĩ mô có những quy luật mà hiện tượng tâm lý
phải tuân theo (ở đây cấu trúc vĩ mô là hệ thống, trong đó có hiện tượng tâm lý
được nghiên cứu).
+ Ở phương diện hệ thống vi mô cũng có những quy luật mà hiện tượng tâm
lý phải tuân theo.
+ Ở phương diện tương tác với bên ngoài của nó, tức là cùng với điều kiện
tồn tại của nó.
- Phải tính đến tính chất tổng thể, hoàn chỉnh, trọn vẹn của đối tượng nghiên
cứu.
- Ngược lại, khi xem xét các hiện tượng tâm lý trong một hệ tọa độ nào đó,
chúng ta có thể làm cho nó trở nên trừu tượng không gắn với các phép đo khác để
nghiên cứu. Tất nhiên, với mục đích khoa học, sự trừu tượng hóa là hợp quy luật,
nhưng phải luôn luôn nhớ rằng, sự trừu tượng hóa chỉ cho phép nắm bắt được một
mặt của các hiện tượng tâm lý.
- Muốn thấy được tính chất tổng thể, hoàn chỉnh, trọn vẹn của đối tượng
nghiên cứu, phải đặt đối tượng nghiên cứu vào trong các quan hệ với các hiện
tượng khác, vào một hệ thống nào đó và xem trong hệ thống ấy, trong thời điểm
nào đó cái gì là hạt nhân.
- Nghiên cứu các hiện tượng tâm lý trong sự vận động (nảy sinh, biến đổi,
phát triển), đồng thời cũng thấy tính ổn định (trong một thời điểm nhất định, những
điều kiện nhất định).

- Bất cứ một hiện tượng nào, cũng đều được nghiên cứu theo các thứ bậc.
Trong tâm lý học lâm sàng, việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý đòi hỏi
phải tuân thủ một cách chặt chẽ nguyên tắc hệ thống. Điều này có nghĩa là việc
phân tích những biến đổi/rối loạn tâm lý - nhân cách của người bệnh phải nằm
trong hệ thống chặt chẽ. Những biến đổi rối loạn này đều có nguyên nhân và đến
lượt chúng những biến đổi đó lại chi phối đến các hiện tượng tâm lý khác. Như
- 16 -
trong tâm lý học thần kinh, A.R.Luria đã xác định rất rõ nguyên tắc phân tích các
rối loạn tâm lý theo hệ thống thứ bậc, cấu trúc. Có những rối loạn đóng vai trò
nguyên phát. Đến lượt mình, những rối loạn này kéo theo rối loạn khác được gọi là
rối loạn thứ phát. Trong nghiên cứu tâm bệnh của mình, B.V.Zeygarnik chỉ ra rằng
chính rối loạn về hệ thống động cơ trong các hoạt động của bệnh nhân TTPL đóng
vai trò thứ nhất. Sự rối loạn hệ thống động cơ đã kéo theo sự giảm sút về hiệu quả
hoạt động nhớ.[51,212 - 214]

- Tiếp cận hoạt động
Xuất phát từ luận điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng con người là sản phẩm
hoạt động của chính mình, tiếp cận hoạt động chỉ rõ việc nghiên cứu tâm lý của con
người phải nghiên cứu trong hoạt động. Tâm lý con người được biểu hiện trong
hoạt động và là thành phần tất yếu của hoạt động đóng vai trò định hướng và điều
khiển hoạt động.
Trong tiếp cận hoạt động, một điểm đáng lưu ý đó là hệ thống công cụ mà
con người sử dụng trong các hành động của mình. Khi bàn về các công cụ tâm lý,
Vưgôtxki đặc biệt nhấn mạnh đến tính gián tiếp của các hiện tượng tâm lý. Con
người tác động vào hiện thực khách quan bằng hoạt động và thông qua hoạt động
của mình. Những hoạt động này được sự hỗ trợ rất đắc lực của hệ thống công cụ.
Chính các hệ thống công cụ: công cụ tâm lý (tiếng nói, chữ viết, con số ); công cụ
lao động kỹ thuật giữ vai trò gián tiếp, cầu nối giữa chủ thể và đối tượng hoạt động.
Việc nghiên cứu tâm lý người bệnh nói chung, TTPL nói riêng cũng phải
tuân thủ tiếp cận hoạt động có nghĩa là phải phân tích những hệ thống động cơ mục

đích hoạt động của họ. Lẽ đương nhiên, hệ thống động cơ mục đích này đã bị biến
dạng dưới sự ảnh hưởng của yếu tố bệnh lý. Do vậy, tiếp cận hoạt động cho phép
chúng ta đánh giá được những biến đổi trong hệ thống động cơ mục đích cũng như
những thao tác mà bệnh nhân đã sử dụng.
- 17 -
Ở trên chúng tôi đã lưu ý đến quan điểm của Vưgôtxki bởi lẽ lúc đầu
pictogram được A.R.Luria thiết kế dựa trên luận điểm về tính gián tiếp của các
chức năng tâm lý do Vưgôtxki đề xuất. Những học trò sau này của ông như
X.Ia.Rubinstein, B.V.Zeygarnik đã đi sâu vào phân tích các thao tác cũng như
những phương tiện mà người bệnh TTPL nói riêng và người bệnh nói chung sử
dụng trong quá trình thực hiện bài tập.
1.1.2.3. Cấp độ các phương pháp cụ thể

TLH sử dụng nhiều phương pháp cụ thể để tiến hành nghiên cứu. Có thể kể
ra các phương pháp nghiên cứu cụ thể chủ yếu như phương pháp quan sát, phương
pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn sâu, phương pháp chuyên gia,
phương pháp đàm thoại, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp thực
nghiệm, phương pháp trắc nghiệm Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi đi sâu
vào hai phương pháp sử dụng chủ yếu trong TLH lâm sàng: trắc nghiệm và thực
nghiệm
- Trắc nghiệm:
Theo từ điển Tâm lý học của Vũ Dũng: Trắc nghiệm là một phƣơng pháp
trong chẩn đoán tâm lý có sử dụng những câu hỏi và bài tập đƣợc chuẩn hoá (các
test) theo những thang nhất định. Trắc nghiệm còn đƣợc sử dụng để chuẩn hoá
những phép đo, những đặc điểm cá nhân. [6; 286].
Về cơ bản, các trắc nghiệm tâm lý được xây dựng theo hướng đo đạc. Do
vậy, bất kỳ một trắc nghiệm tâm lý nào cũng đều phải đáp ứng được các yêu cầu:
- Chuẩn (Noms)
Kết quả trắc nghiệm của bất kì một cá nhân nào cũng đều phải được so sánh
với kết quả của nhóm chuẩn (thường được gọi là điểm chuẩn). Điểm chuẩn của trắc

nghiệm phải được xác lập trên một nhóm đông người, đại diện cho một quần thể về
lứa tuổi, văn hóa, nghề nghiệp, sắc tộc, giới tính v.v
- 18 -
- Độ tin cậy (Reliability)
Độ tin cậy của một trắc nghiệm trả lời cho câu hỏi rằng liệu kết quả của trắc
nghiệm có đáng tin cậy hay không? Nói cách khác, một trắc nghiệm tâm lý được
coi là đủ tin cậy là một trắc nghiệm sau những lần đo khác nhau trên cùng một
khách thể; đo trên nhóm khách thể tương đồng và sử dụng các phiên bản khác nhau
thì phải cho kết quả giống nhau.
- Tính hiệu lực (Validity)
Trắc nghiệm phải đo được những cái cần nghiên cứu và hiệu quả đo lường của
nó phải đạt đến mức độ cần thiết. Tính hiệu lực của trắc nghiệm một mặt được đo
bằng hệ số tương quan giữa các chỉ số trắc nghiệm, mặt khác được đo bằng sự đánh
giá đã qua kiểm tra một cách khách quan các phẩm chất tâm lý của khách thể
nghiên cứu.
Tính hiệu lực của trắc nghiệm bao gồm bốn loại: tính hiệu lực về nội dung;
tính hiệu lực về khả năng dự đoán của trắc nghiệm; tính hiệu lực về quan niệm
TLH của các tác giả và tính hiệu lực đã qua xác định bằng cách đối chiếu với tiêu
chuẩn bên ngoài của các phẩm chất tâm lý của khách thể.[17]
- Thực nghiệm:
Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tƣợng một cách chủ động, trong
những điều kiện đã đƣợc khống chế để gây ra ở đối tƣợng những biểu hiện về quan
hệ nhân - quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp đi lặp lại nhiều
lần và đo đạc định lƣợng, định tính một cách khách quan các hiện tƣợng cần
nghiên cứu.[19; 26]
Hay ngắn gọn hơn: "Thực nghiệm là một phƣơng pháp thu thập các sự kiện
trong những điều kiện đƣợc tạo ra một cách đặc biệt, đảm bảo cho sự thể hiện tích
cực của các hiện tƣợng cần nghiên cứu” [13; 35].
- 19 -
Đặc điểm nổi bật của thực nghiệm là vai trò chủ động tích cực của nhà

nghiên cứu, đây cũng chính là nét khác biệt cơ bản giữa thực nghiệm và trắc
nghiệm. Đặc điểm khác nữa của thực nghiệm chính là phân tích định tính. Và nói
cho cùng, những con số trong phương pháp định lượng về tâm lý chỉ là những cái
mốc có tính phân loại, nghĩa là rút cục vẫn có tính định tính. Chúng ta có thể so
sánh những sự khác nhau giữa phương pháp định lượng và định tính qua bảng 1.1.
Phân loại thực nghiệm theo hình thức thực hiện có thực nghiệm tự nhiên và
thực nghiệm trong phòng thí nghiệm; phân loại theo mục đích có thực nghiệm phát
hiện/xác định và thực nghiệm hình thành.
- 20 -
Bảng 1.1. So sánh giữa nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định lƣợng
- Cung cấp hiểu biết sâu
- Cung cấp hiểu biết một cách khái quát,
tổng thể
- Trả lời câu hỏi Tại sao
- Trả lời câu hỏi Bao nhiêu
- Mang tính chủ quan
- Mang tính khách quan hơn
- Thường mang tính chất tìm kiếm,
khám phá, thăm dò
- Cung cấp những chứng cứ để chứng
minh, kiểm nghiệm và có tính chất
khẳng định
- Nghiên cứu các yếu tố tâm lý đằng
sau các phản ứng, bên trong các phản
ứng, cách ứng xử, triển vọng phát triển
- Đo những hành động của một nhóm
người


- Gắn liền với quá trình giải thích
- Gắn liền với quá trình mô tả
(Nguồn: Hoàng Mộc Lan - Đề cƣơng bài giảng môn Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp
nghiên cứu TLH)
Trong thực tiễn chẩn đoán tâm lý lâm sàng, hình thức thực nghiệm chủ yếu
là thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và theo mục đích, chủ yếu là thực nghiệm
phát hiện.
- Mối quan hệ giữa thực nghiệm và trắc nghiệm:
Thực nghiệm xuất hiện rất sớm trong TLH. Chính sự ra đời của Phòng TLH
thực nghiệm của W.Wund (1879) đã đánh dấu sự ra đời của TLH với tư cách là
một ngành khoa học. Tuy nhiên lúc ban đầu, thực nghiệm tâm lý mới chỉ dừng lại ở
việc đo đạc các yếu tố tâm-vật lý.
Trong chẩn đoán tâm lý nói chung, chẩn đoán tâm lý lâm sàng nói riêng,
các phương pháp được dùng chủ yếu là trắc nghiệm. Không thể phủ nhận vai trò
của trắc nghiệm song nếu chỉ bằng trắc nghiệm thì sẽ khó có thể có được chẩn đoán
tâm lý đầy đủ. Lịch sử phát triển của TLH ứng dụng cho thấy bằng cách trắc
nghiệm, các nhà TLH chưa thể đáp ứng được tốt yêu cầu của thực tiễn. Từ chỗ
- 21 -
dùng một test chuyển sang dùng một bộ test (tổng nghiệm) và sau đó là việc phân
tích kết quả trắc nghiệm phải kết hợp với các tư liệu khác.
Trong những năm tồn tại của Nhà nước Xô viết, nhiều nhà TLH Liên Xô đã
đem đối lập thực nghiệm với trắc nghiệm. Cơ sở chính của sự đối lập này, theo họ,
là không thể lượng giá các hiện tượng tâm lý của con người. Cũng trong một thời
gian dài, các trắc nghiệm tâm lý không những không được sử dụng mà còn bị phê
phán khá mạnh (một trong những nguyên nhân có thể là sự sử dụng một cách thái
quá các trắc nghiệm trí tuệ trong những năm đầu của chính quyền Xô viết). Những
trắc nghiệm nhân cách sau này có được khai thác và vận dụng nhưng khá dè dặt.
Như nhà TLH Tiệp Khắc nổi tiếng J.Svancara (1978) đã nhận xét: Trắc
nghiệm là một tình huống mô hình, nhờ nó mà chúng ta có thể thu nhận được các
mẫu hành vi hoặc trải nghiệm, mà chúng ta cho đó là tập hợp các chỉ số của một

dấu hiệu được nghiên cứu. Với góc độ này, trắc nghiệm là một dạng sơ đẳng của
thực nghiệm mà chúng ta phải thực hiện nó trong những điều kiện chuẩn với những
nhân viên được đào tạo.
Còn theo X.G. Ghenlecstein (1969): "Trắc nghiệm đó là một thực nghiệm
thử nghiệm, mang tính chất của một bài tập nhất định, bài tập này kích thích một
hình thức nhất định của tính tích cực và việc thực hiện nó là một triệu chứng của
sự hoàn thiện các chức năng nhất định, đƣợc đánh giá về mặt định lƣợng và định
tính" [17; 38]. Như vậy, trắc nghiệm thực chất là một biến dạng của thực nghiệm.
Như đã đề cập ở trên, ƣu điểm của thực nghiệm là phân tích định tính còn
thế mạnh của trắc nghiệm là định lƣợng. Trong chẩn đoán tâm lý lâm sàng nhiều
khi rất cần định lượng, ví dụ như đánh giá mức độ giảm sút trí tuệ. Tuy nhiên, nếu
chỉ sử dụng yếu tố định lượng thì sẽ gặp khó khăn trong việc phân tích quan hệ
nhân - quả. Bên cạnh đó, cũng cần phải phân tích, xác định những đặc điểm, tính
chất của các biến đổi tâm lý, vì thế không thể xem nhẹ yếu tố định tính.
- 22 -
Những luận điểm về phương pháp luận cũng như về phương pháp tiếp cận
như đã phân tích ở trên chính là cơ sở để chúng tôi định hướng trong quá trình hoàn
thiện và phát triển pictogram.
Trên bình diện phương pháp cụ thể, Pictogram không định hướng theo trắc
nghiệm chặt chẽ, với những quy trình kĩ thuật chuẩn cũng như phải xác định các
chuẩn, độ tin cậy hoặc độ hiệu lực theo như một trắc nghiệm chuẩn cần có. Điều
này vượt quá khuôn khổ của luận văn cũng như khả năng của chúng tôi. Mặt khác,
ngay cả khi nếu như chúng ta làm được điều đó thì cũng không thể bỏ qua được
phân tích định tính bởi lẽ mục đích chính của nghiên cứu này là bước đầu xây
dựng, hoàn thiện Pictgrram để nó có thể trở thành một trong những công cụ chẩn
đoán tâm lý lâm sàng.
Từ những ý tưởng như vậy, chúng tôi định hướng Pictogram theo dạng thực
nghiệm xác định có kết hợp với định lượng.
1.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN TÂM THẦN Ở BỆNH NHÂN TÂM THẦN
PHÂN LIỆT [2],[21]

1.2.1. Khái niệm về bệnh tâm thần phân liệt

TTPL là một bệnh tâm thần nặng, căn nguyên chưa rõ ràng. Bệnh làm biến
đổi nhân cách người bệnh theo kiểu phân liệt: Người bệnh tách ra khỏi cộng đồng,
thu dần vào thế giới bên trong làm cho tình cảm của họ khô lạnh. Khả năng làm
việc của bệnh nhân ngày càng sút kém và có những hành vi lập dị, khó hiểu.
Bệnh TTPL được biết đến từ lâu, nhưng mãi đến thế kỷ 18 bệnh TTPL mới
được mô tả trong y văn. Tuy nhiên, phải đến khi Kraepelin E (1898) tổng hợp các
biểu hiện bệnh được nhiều tác giả mô tả thành một bệnh riêng và gọi là dementia
praecox “Bệnh mất trí sớm” thì TTPL mới thực sự thu hút các nhà nghiên cứu.
- 23 -
Năm 1911, Bleuler P.E (Thụy Sỹ) đưa ra kết luận lý thú về các rối loạn chủ
yếu của bệnh là sự chia cắt trong các mặt hoạt động tâm thần. Ông đề xuất một
thuật ngữ mới Schizophrenia (Tâm thần phân liệt). Tên gọi này nhanh chóng được
chấp nhận vì nó chỉ rõ bản chất các rối loạn của bệnh mà các tác giả trước đây chưa
nhận thấy.
1.2.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt

Năm 1939, Schneider - nhà tâm thần học người Đức đã nêu ra một loạt các
triệu chứng hàng đầu đặc trưng cho bệnh TTPL như: hoang tưởng bị chi phối, ảo
thanh bình phẩm, hội chứng tâm thần tự động. Những luận điểm của Schneider
được Tổ chức Y tế Thế giới lấy làm cơ sở chính để phân loại các rối loạn tâm thần
trong Bảng Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD - 10).

Theo ICD 10, để chẩn đoán bệnh TTPL phải có ít nhất một trong các triệu
chứng sau:
a: Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt, tư duy bị đánh cắp, tư
duy bị phát thanh.
b: Hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động, có liên quan rõ rệt
với vận động thân thể hay các chi hoặc có liên quan với những ý nghĩ, hành vi hay

cảm xúc đặc biệt, tri giác hoang tưởng.
c: Ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân hay
thảo luận với nhau về bệnh nhân hay các loại ảo thanh khác xuất phát từ một bộ
phận nào đó của cơ thể.
d: Các loại hoang tưởng dai dẳng khác không thích hợp về mặt văn
hoá và hoàn toàn không thể có được như tính thống nhất về tôn giáo hay chính trị
- 24 -
hoặc những khả năng và quyền lực siêu nhân (ví dụ: Có khả năng điều khiển thời
tiết hoặc có khả năng tiếp xúc với người của thế giới khác).
Nếu không có những triệu chứng trên, có thể chẩn đoán là TTPL khi có ít
nhất 2 trong số các triệu chứng dưới đây:
e: Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng
thoáng qua hay chưa hoàn chỉnh, không có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm
theo ý tưởng quá dai dẳng hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều tuần hay nhiều
tháng.
f: Tư duy gián đoạn hay thêm từ khi nói đưa đến tư duy không liên
quan hay lời nói không thích hợp hay ngôn ngữ bịa đặt.
g: Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng, hay
uốn sáp, phủ định, không nói hay sững sờ.
h: Các triệu chứng âm tính như: Vô cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn,
các đáp ứng cảm xúc cùn mòn hay không thích hợp, thường đưa đến cách ly xã hội
hay giảm sút hiệu suất lao động xã hội, phải rõ ràng là các triệu chứng âm tính nói
trên không do trầm cảm hay thuốc an thần kinh gây ra.
i: Biến đổi thường xuyên và có ý nghĩa về chất lượng toàn diện của tập
tính cá nhân biểu hiện như là mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ mải
mê suy nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.[2],[4]
1.2.3. Đặc điểm rối loạn tâm thần ở bệnh nhân tâm thần phân liệt

TTPL là một loại bệnh có những thể bệnh khác nhau. Tuy nhiên chúng đều
có hai tính chất chung của quá trình phân liệt: thứ nhất là tính thiếu hoà hợp và tự

kỷ, thứ hai là giảm sút thế năng tâm thần.
 Tính thiếu hoà hợp và tự kỷ:

×