ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH & NV HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ MINH KHUÊ
ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM SAU KHI
GIA NHẬP WTO
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan Hệ Quốc Tế
Mã số: 603140
Người hướng dẫn khoa học:
Tiến sĩ Bùi Nhật Quang
Hà Nội-2011
1
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
3
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐIỀU CHỈNH
CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI CỦA
VIỆT NAM
7
1.1 Cơ sở lý luận về điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI)
7
1.1.1 Khái niệm về chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
7
1.1.2. Khái niệm về điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
15
1.2. Cơ sở thực tiễn về điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO
17
1.2.1 Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
17
1.2.2. Những thuận lợi, khó khăn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam thời gian qua
18
Chƣơng 2: NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU
TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI KỂ TỪ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP
WTO VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU
29
2.1. Những điều chỉnh cơ bản.
29
2.1.1. Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đúng
cam kết gia nhập WTO
29
2.1.2. Điều chỉnh chính sách nhằm cải thiện môi trường đầu tư trong nước
33
2.2. Những tác động chủ yếu.
43
2.2.1. Tác động trực tiếp
43
2.2.2. Tác động lan tỏa
51
2.2.3. Những tác động tiêu cực
54
Chƣơng 3: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC
59
2
TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi thực hiện điều chỉnh
chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
59
3.1.1. Thuận lợi
59
3.1.2 Khó khăn
69
3.2. Định hướng chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
giai đoạn 2011-2020
72
3.2.1. Mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ nay đến năm 2020
72
3.2.2. Định hướng chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn
2011-2020
74
3.3. Kiến nghị để nâng cao hiệu quả chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam đến năm 2020.
76
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý
77
3.3.2. Cải tiến thủ tục hành chính đối với khu vực đầu tư nước ngoài
81
3.3.3. Nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch về đầu tư trực tiếp nước
ngoài
83
3.3.4. Phát triển nguồn nhân lực
84
3.3.5. Nâng cấp và phát triển kết cấu hạ tầng
86
KẾT LUẬN
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ các chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước và xu hướng toàn cầu hóa,
hội nhập kinh tế, thương mại, Việt Nam đã tận dung những cơ hội mang lại, khắc phục
khó khăn, tăng cường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao tỷ trọng các ngành công
nghiệp, dịch vụ coi đầu tư là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
Trong suốt nhiều thập kỷ kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới năm 1986, Việt
Nam luôn đạt tốc độ phát triển kinh tế cao so với thế giới và khu vực và đóng góp
không nhỏ vào thành công của Việt Nam chính là các dự án đầu tư nước ngoài. Thực tế
cho thấy Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cũng như tiềm năng trong thu hút đầu
tư. Nhà nước Việt Nam đã ban hành luật đầu tư nước ngoài từ rất sớm (1987) và qua
nhiều lần sửa đổi, bổ sung, các văn bản pháp lý và chính sách đầu tư của Việt Nam
ngày càng được hoàn thiện với nhiều chủ trương, chính sách hợp lý hướng tới tháo gỡ
các khó khăn, tinh giảm các thủ tục cho các nhà đầu tư, khuyến khích thu hút đầu tư
nên số lượng dự án cũng như vốn đăng ký đầu tư vào khắp các tỉnh thành trong toàn
quốc đã tăng nhanh, đặc biệt là trong giai đoạn từ 2000 đến nay. Tuy nhiên, các chính
sách thu hút đầu tư cũng như quá trình triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách
ở các cơ quan chức năng còn một số bất cập và kết quả đạt được chưa tương xứng với
điều kiện, tiềm năng của một quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh như Việt Nam. Đặc
biệt là kể từ năm 2006, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) thì mức độ hội nhập quốc tế của Việt Nam đã tăng lên rất
nhiều, đòi hỏi chính sách thu hút đầu tư nước ngoài phải có những điều chỉnh thích hợp
Bối cảnh mới của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế dẫn tới sự cạnh tranh mạnh
mẽ giữa các quốc gia trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á về lĩnh vực thu hút
đầu tư nước ngoài.
Do vậy, cần tiến hành nghiên cứu tìm hiểu những cơ hội, khó khăn, thách thức
mà Việt Nam gặp phải khi gia nhập tổ chức WTO và những tác động có thể có đến
4
việc thu hút đầu tư nước ngoài. Cũng cần thiết phải đánh giá về những điểm mạnh,
điểm yếu trong chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam và yêu cầu phải điều chỉnh
chính sách giai đoạn “hậu WTO” để từ đó rút ra những kinh nghiệm, đề xuất các giải
pháp nhằm hoàn thiện các cơ chế chính sách thu hút đầu tư, nâng cao hơn nữa hiệu lực
của các chính sách thu hút đầu tư của Việt Nam trong thời gian tới.
Cho đến nay, Việt Nam chưa có nghiên cứu mang tính chuyên sâu về vấn đề
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài sau khi gia nhập WTO để phân tích, đánh giá
thực hiện các chính sách thu hút đầu tư, cũng như các tác động của cam kết khi gia
nhập WTO của Việt Nam đến thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới.
Xuất phát từ các lý do như vậy, chủ đề nghiên cứu của luận văn “Điều chỉnh
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam sau khi gia nhập WTO” trở nên
có ý nghĩ thực tiễn và đáng được quan tâm.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các văn bản, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam và
những điều chỉnh, sửa đổi sau khi Việt Nam gia nhập WTO và tác động của việc điều
chỉnh chính sách đến thực tiễn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam kể từ
cuối năm 2006 đến nay.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Hoạt động đầu tư, thu hút đầu tư nước ngoài của trên
địa bàn toàn quốc
- Phạm vi về thời gian
+ Số liệu thu thập phân tích: Giai đoạn 2006 - 2010
+ Thời gian tiến hành nghiên cứu: 2010
3. Mục tiêu nghiên cứu.
* Mục tiêu chung:
5
Trên cơ sở phân tích các chính sách đã ban hành và thực trạng thu hút đầu tư
của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là kể từ sau khi gia nhập WTO năm 2006,
xem xét các điều chỉnh chính sách của Việt Nam để tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các chính sách, đẩy mạnh thu hút đầu
tư vào phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
* Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài và điều chỉnh chính sách đầu tư trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nghiên cứu những điều chỉnh chính sách của Việt Nam trong lĩnh vực thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài sau khi gia nhập WTO .
- Phân tích thực trạng thu hút đầu tư của Việt Nam kể từ sau khi gia nhập WTO,
những thành tựu, thách thức và những hạn chế trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài kể
từ mốc hội nhập WTO.
- Đề xuất những giải pháp, gợi ý để tăng cường hiệu quả trong thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian tới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Với yêu cầu thực hiện nội dung luận văn về điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư
của Việt Nam sau khi gia nhập WTO cho thấy đây là vấn đề nghiên cứu mang tính
quốc tế. Do vậy, luận văn sẽ lựa chọn sử dụng các phương pháp luận Marxist, phương
pháp định lượng và duy vật lịch sử, suy luận logic để diễn giải và phân tích nguyên
nhân, tiến trình và kết quả của các động thái hội nhập mà Việt Nam thực hiện khi gia
nhập WTO. Đồng thời, trong quá trình xử lý dữ liệu phục vụ cho việc thực hiện luận
văn, các phương pháp khác như phương pháp thống kê tổng hợp và nghiên cứu so sánh
cũng được sử dụng nhằm làm rõ các đặc điểm, chuyển biến và thành quả phát triển của
đối tượng nghiên cứu là chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo…v.v, luận văn sẽ được kết
cấu thành 3 chương chính. Chương 1 làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn như khái
6
niệm về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, điều chỉnh chính sách thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh tự do hóa thương mại, đầu tư, mở cửa, hội
nhập. Đồng thời, làm rõ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và những
thuận lợi, khó khăn trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong
những năm vừa qua để thấy rõ tầm quan trọng của việc điều chỉnh chính sách đầu tư
nước ngoài trong từng mốc thời gian cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư.
Chương 2 là chương chính của luận văn, đi vào nghiên cứu chuyên sâu và làm rõ
những nội dung điều chỉnh chủ yếu trong chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam kể từ khi gia nhập WTO, đánh giá những tác động tích cực và tiêu
cực của việc điều chỉnh chính sách đối với thực tiễn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Việt Nam giai đoạn 2006-2010. Chương 3 tập trung phân tích những thuận lợi, khó
khăn của Việt Nam khi thực hiện những nội dung điều chỉnh, đề cập đến định hướng
về điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2011-2020
để đưa ra một số kiến nghị giải pháp trước mắt để nâng cao hiệu quả điều chỉnh chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THU
HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI (FDI) CỦA VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận về điều chỉnh chính sách thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam những năm qua cho thấy nhiều
chuyển biến đáng chú ý với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng được khẳng định
mà bước phát triển mang tính đột phá chính là sự kiện Việt Nam đã đàm phán thành
công để gia nhập WTO cuối năm 2006. Yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu
rộng vào các diễn biến toàn cầu trong suốt thời gian qua cho thấy Việt Nam cần thiết
phải nắm bắt và vận dụng những lý luận, tư tưởng, quan điểm phù hợp liên quan tới
quá trình hội nhập quốc tế và từ đó xây dựng các chính sách quản lý, chính sách điều
tiết phù hợp cho giai đoạn phát triển mới. Trong phần này, luận văn nhấn mạnh tới một
số khái niệm và lý luận quan trọng sử dụng để nghiên cứu về quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam với sự kiện gia nhập WTO và điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước
ngoài bao gồm:
Một là, làm rõ khái niệm về chính sách, chính sách thu hút đầu tư
Hai là, làm rõ một số cơ sở lý luận quan trọng có thể vận dụng khi nghiên cứu về điều
chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
1.1.1. Khái niệm về chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
- Khái niệm chính sách
- Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên các loại ấn phẩm, sách báo,
phương tiện thông tin và được nhắc tới một cách thường xuyên trong hầu hết các hoạt
động đời sống kinh tế, xã hội. Sự hiểu biết chung của chúng ta cho thấy mọi chủ thể
kinh tế - xã hội đều có những “chính sách” của mình nhưng để có thể xác định cụ thể
chính sách là gì thì mỗi bối cảnh cụ thể lại đưa đến những diễn giải khác nhau về khái
niệm chính sách. Điều đó có nghĩa là trên thực tế không thể có một khái niệm cụ thể và
cố định có thể làm rõ và toàn diện về nội hàm của thuật ngữ chính sách. Mặc dù vậy,
8
lựa chọn của luận văn về khái niệm này đi theo những nội hàm mang tính phổ biến,
được sử dụng rộng rãi và phù hợp với việc nghiên cứu về điều chỉnh chính sách của
Việt Nam. Chính sách là “những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ;
được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản
chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc tính chất của đường lối,
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội Muốn định ra chính sách đúng phải căn
cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục
tiêu, phương hướng được xác định trong đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận
dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể” [Từ điển Bách khoa tòan thƣ,
]
Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình đưa ra quyết định. Chúng
vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lý
những quyết định nào có thể và những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các
chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc
thực hiện các mục tiêu chung của tổ chức.
- Khái niệm chính sách đầu tư và chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư
Trên cơ sở đã xác định cụ thể về khái niệm chính sách nói chung đã nêu ở trên,
có thể cụ thể hóa chính sách đó vào trong một lĩnh vực riêng biệt là lĩnh vực thu hút
đầu tư (gồm cả thu hút đầu tư nước ngoài và trong nước). Khái niệm chính sách đầu
tư được lựa chọn như sau: Chính sách đầu tư là một hệ thống những nguyên tắc, công
cụ, biện pháp do Nhà nước sử dụng để điều tiết các mối quan hệ trong lĩnh vực đầu tư.
Chính sách đầu tư chịu ảnh hưởng của chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia và phục
vụ những nhiệm vụ Nhà nước đặt ra trong từng giai đoạn.
Các chính sách ưu đãi, khuyến khích về đầu tư được hiểu là Nhà nước ban
hành các quy định nhằm tạo điều kiện hoặc tạo ra những lợi ích nhất định cho các nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài khi tiến hành đầu tư vào nền kinh tế, trên cơ sở kết
hợp hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước, của nền kinh tế xã hội và của nhà đầu tư.
9
Trước năm 2005, hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam được chia thành
hai lĩnh vực điều chỉnh chính bao gồm các hoạt động đầu tư trong nước và các hoạt
động đầu tư nước ngoài.
Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước là việc Nhà nước quy định các điều
kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư trong nước khi các đối tượng này tiến hành đầu tư
vào những địa bàn, lĩnh vực nằm trong danh mục khuyến khích của Nhà nước. Mức độ
ưu đãi đối với nhà đầu tư đó được nhìn nhận trong tương quan so sánh với điều kiện
đầu tư của các nhà đầu tư khác hoặc chính những nhà đầu tư đó khi đầu tư vào những
dự án nằm ngoài danh mục khuyến khích đầu tư.
Chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư nước ngoài được hiểu là việc nước tiếp
nhận đầu tư ban hành các quy định mà thông qua đó dành cho các nhà đầu tư là người
nước ngoài hoặc công dân nước sở tại cư trú ở nước ngoài những ưu đãi khi những đối
tượng này tiến hành hoạt động đầu tư ở nước tiếp nhận đầu tư.
Những ưu đãi này có thể liên quan đến thủ tục hành chính, các chính sách tài
chính, sử dụng đất, sử dụng các nguồn tài nguyên và các ưu đãi khác theo hướng có lợi
cho nhà đầu tư. Đối với các quy định của Nhà nước khuyến khích thu hút đầu tư nước
ngoài, mức độ thuân lợi và ưu đãi trong mỗi biện pháp, chính sách khuyến khích được
đánh giá trong tương quan so sánh với các quy định dành cho các nhà đầu tư trong
nước khi đầu tư vào cùng lĩnh vực hoặc địa bàn nhất định hoặc trong tương quan so
sánh với các quy định về đầu tư nước ngoài của các nước khác trong khu vực hoặc trên
thế giới
Khuyến khích đầu tư thể hiện thái độ của nước tiếp nhận đầu tư đối với các nhà
đầu tư nước ngoài, số lượng các biện pháp khuyến khích mà Nhà nước quy định tỷ lệ
thuận với mức độ mong muốn được hấp thụ nguồn vốn đầu tư lớn từ các nhà đầu tư
nước ngoài của nước tiếp nhận đầu tư.
Luật đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Việt Nam thông qua ngày
29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 đã thể hiện tư tưởng thống nhất mới về các
hoạt động đầu tư theo đó, các hoạt động về đầu tư không còn phân loại thành hoạt động
10
đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài. Tất cả các dự án đều chịu sự điều
chỉnh của luât đầu tư chung, các dự án này đều được hưởng các biện pháp khuyến
khích đầu tư như nhau nếu đó là các dự án có mục đích kinh doanh, do các chủ thể đầu
tư tại Việt Nam. Luật đầu tư chung năm 2005 của Việt Nam lấy tiêu chí lĩnh vực đầu tư
và địa bàn đầu tư là những tiêu chí cơ bản để áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu
tư và trên cơ sở đó nhà nước Việt Nam ban hành các quy định xác định các ưu đãi cũng
như hỗ trợ đầu tư cụ thể.
- Các loại chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các nước có những điểm
tương đồng đặc biệt là những nguyên tắc có tính chất nền tảng như nguyên tắc không
phân biệt đối xử, nguyên tắc minh bạch hoá và có thể dự đoán…Đồng thời, các điểm
tương đồng còn thể hiện ở mục tiêu thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý
nước ngoài, giải quyết tình trạng cán cân thanh toán bị thâm hụt, nâng cấp cơ sở hạ
tầng, thúc đẩy xuất khẩu, phát triển các ngành công nghiệp nội địa. Tuỳ điều kiện đặc
thù của từng nước mà các công cụ sử dụng có thể khác nhau. Song, các công cụ đó bao
gồm các công cụ hành chính-pháp lý, công cụ tài chính và phi tài chính, quy hoạch,
nhân lực…
- Các quy định mang tính hành chính- pháp lý bao gồm:
+ Quy định về hình thức và phương thức đầu tư trực tiếp như hợp đồng hợp tác
kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, chi
nhánh sở hữu hoàn toàn, BOT, BT, BTO, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu
kinh tế mở cửa, đặc khu kinh tế…Cũng có quan niệm coi những quy định này là chính
sách về hình thức và phương thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
+ Quy định về các lĩnh vực quy hoạch đầu tư bao gồm các lĩnh vực được
khuyến khích đầu tư, hạn chế đầu tư và cấm đầu tư. Chẳng hạn, các lĩnh vực khai thác
được lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, giải quyết
nhiều việc làm, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…được khuyến khích trong khi
11
các lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia, sức khoẻ cộng đồng, đạo đức,
thuần phong mỹ tục của dân tộc bị cấm đầu tư.
+ Quy định về bộ máy quản lý và chức năng hoạt động. Các quy định có tính
cốt lõi thường xoay quanh nguyên tắc nhất trí của hội đồng quản trị và phạm vi các vấn
đề được áp dụng nguyên tắc nhất trí. Đồng thời, cơ cấu nhân sự do các bên bổ nhiệm
được thực hiện như thế nào để bảo đảm tối đa hoá quyền lực của các đối tác trong điều
hành hoạt động của bộ máy.
+ Quy định về thủ tục thẩm định, quản lý dự án, chế độ báo cáo, hoạt động quản
lý nhà nước trong đầu tư nước ngoài. Vấn đề chủ yếu là ban hành quy định về thủ tục
thẩm định dự án đầu tư do cơ quan nào thực hiện, mức độ đơn giản hoá và minh bạch
hoá thủ tục, việc phân cấp thẩm định và cấp giấy phép đầu tư được thực hiện theo quy
trình nào, việc quy định bộ máy và thủ tục quản lý dự án và chế độ báo cáo định kỳ
hoặc thường xuyên, chế độ thanh tra các dự án đầu tư nước ngoài…Quy định thẩm
quyền về việc xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài
theo vùng, ngành, dự án…
+ Quy định về thủ tục xử lý tranh chấp và cơ quan xử lý tranh chấp, tính chất
công khai của việc xử lý các tranh chấp, khả năng dẫn chiếu đến các quy định pháp lý
quốc tế khi xử lý tranh chấp trong những trường hợp nhất định, mức độ trung lập của
cơ quan xử lý tranh chấp và hiệu lực thực hiện các phán quyết của cơ quan bảo vệ pháp
luật đối với hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
+ Quy định không tiến hành quốc hữu hoá, trưng dụng hoặc tịch thu vốn, tài
sản, thu nhập hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài bằng biện pháp hành chính, vấn đề
bồi hoàn cho nhà đầu tư khi có sự vi phạm các quy định của chính sách, áp dụng
nguyên tắc “không hồi tố” trong xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật.
+ Vấn đề thông báo trước (tính có thể dự báo) những thay đổi về chính sách,
việc thiết lập đường dây nóng, tổ chức các diễn đàn và câu lạc bộ doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài để các nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội và điều kiện thuận lợi, dễ
tiếp cận trong nêu ý kiến và đề xuất hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện.
12
+ Vấn đề ký kết các hiệp định quốc tế song phương và đa phương liên quan đến
đầu tư nước ngoài, phát triển các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài.
- Các quy định liên quan đến khuyến khích tài chính như: quy định ưu đãi về
các loại thuế như thuế xuất-nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân, các trường hợp miễn và giảm thuế, hoàn thuế, hoãn thuế vấn đề chuyển vốn, lợi
nhuận và thu nhập hợp pháp về nước, quy định về chống rửa tiền và hối lộ ở nước
ngoài…Tuy nhiên, đối với các nước là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), các quy định khuyến khích phải hết sức thận trọng để tránh vi pham nguyên
tắc không phân biệt đối xử.
- Các quy định liên quan đến các khuyến khích phi tài chính như quy định tỷ lệ
góp vốn, thời gian góp vốn, thời gian thực hiện dự án, quyền sử dụng đất đai, vấn đề
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quy định về quy hoạch phát triển ngành, địa
phương, vấn đề đảm bảo cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, chuyển giao công nghệ, vấn
đề phát triển nguồn nhân lực địa phương.
- Vai trò của chính sách thu hút FDI
+ Đối với nước tiếp nhận đầu tư
Thứ nhất, chính sách FDI tạo khuôn khổ ổn định để điều tiết có hiệu quả hoạt
động đầu tư nước ngoài
Chính sách đầu tư thể hiện rõ ràng và công khai thái độ và quan điểm của chính
phủ đối với đầu tư nước ngoài. Đây là căn cứ để nhà đầu tư hiểu rõ mục đích, lĩnh vực,
phương thức tổ chức thực hiện, mức độ bảo hộ và thái độ thiện chí của chính phủ đối
với đầu tư nước ngoài. Chính sách đầu tư nước ngoài là căn cứ pháp lý và hợp lý để
các cơ quan quản lý duy trì hoạt động đầu tư nước ngoài trong một trật tự và có định
hướng nhất định gắn với mục tiêu phát triển quốc gia. Đặc biệt, chính sách đầu tư nước
ngoài là công cụ bảo vệ quyền sở hữu và là công cụ khai thác lợi thế ở hữu của các nhà
đầu tư nước ngoài. Từ lợi thế sở hữu, chính sách đầu tư hỗ trợ việc thực hiện có hiệu
quả chính sách công nghiệp để tạo lợi thế cạnh tranh. Đồng thời, chính sách đầu tư
nước ngoài thực hiện tốt sẽ làm tăng hiệu quả của chính sách tiền tệ- tài khoá (tăng thu
13
ngân sách, ổn định giá trị đồng tiền, lãi suất và khống chế lạm phát, cải thiện cán cân
thanh toán…). Trên cơ sở chính sách đã được ban hành, cơ quan quản lý nhà nước đề
xuất các công cụ và biện pháp để tổ chức hoạt động vận động và xúc tiến đầu tư thích
hợp, đào tạo nguồn nhân lực, thay đổi quy trình vận hành. Một chính sách đầu tư nước
ngoài hoàn thiện và vận hành có hiệu quả còn là điều kiện để hoàn thiện và thực hiện
tốt các chính sách khác trong hệ thống các chính sách.
Thứ hai, chính phủ nước nhận đầu tư có thể chủ động điều tiết các nguồn lực
đầu tư nước ngoài phù hợp với định hướng phát triển chung của nền kinh tế
Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài được xây dựng căn cứ vào nhu cầu về
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hoặc đầu tư ra nước ngoài. Việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài là quá trình sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản
lý nước ngoài để bổ sung cho sự thiếu hụt các yếu tố đó trong nước cũng như tạo ra
những lợi thế mới Chính sách đầu tư tực tiếp nước ngoài được hoạch định một cách
khoa học góp phần tạo thế chủ động cho chính phủ và cơ quan quản lý đầu tư có căn cứ
đủ độ tin cậy để điều tiết các nguồn lực như vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực…vào
các ngành, các vùng một cách hợp lý theo quy hoạch được xây dựng, bảo đảm lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài, bảo vệ quyền sở hữu của nhà đầu tư, bảo vệ các
ngành sản xuất trong nước và phát huy được lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng
cũng như khả năng của doanh nghiệp và tổ chức, hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý và
bền vững. Chính sách là công cụ để quản lý hoạt động đầu tư phù hợp với mục tiêu
phát triển quốc gia.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả các hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư
nước ngoài (ĐTNN)
Chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa ra các nguyên tắc và công cụ, biện
pháp điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài rõ ràng, tránh tình trạng đầu tư tràn lan,
thực hiện quy hoạch đầu tư nước ngoài có cơ sở khoa học, tạo nền tảng sử dụng nguồn
vốn đầu tư tối ưu. Những ngành được coi trọng sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn
và đó là động lực để phát triển các ngành khác. Chính sách đầu tư được soạn thảo phù
14
hợp là một lợi thế trong cạnh tranh để thu hút đầu tư, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu
tư nước ngoài. Chính sách đầu tư còn tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao
động, thu nhập chính phủ, cộng đồng, sử dụng có hiệu quả và phát triển nguồn nhân
lực, tăng sự ổn định của nền kinh tế đất nước, tăng khả năng cạnh tranh quốc gia và mở
rộng xuất khẩu, bảo vệ môi trường, thúc đẩy quá trình hội nhập của nền kinh tế quốc
gia vào nền kinh tế thế giới, nâng cao vị thế đất nước.
- Đối với các nhà đầu tư nước ngoài
Chính sách đầu tư nước ngoài đóng vai trò nhất định đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Đây là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách và chính sách
điều chỉnh đến luồng vốn di chuyển, công nghệ, kinh nghiệm quản lý mà đặc biệt là
mức độ bảo hộ tài sản của nhà đầu tư cũng như các khoản lợi ích mà nhà đầu tư thu
được từ tài sản đó. Các vai trò này làm tăng thêm hiệu quả của các biện pháp điều
chỉnh của chính phủ đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách đầu tư tạo căn cứ để nhà đầu tư và doanh nghiệp lựa chọn được đối
tác đầu tư phù hợp về công nghệ, ngành hàng, khả năng quản lý, chiến lược kinh
doanh, văn hoá…Chẳng hạn, chính sách đầu tư hướng vào các công ty xuyên quốc gia
sẽ tạo căn cứ để các doanh nghiệp xây dựng chiến lược tiếp cận tập đoàn, có giải pháp
xúc tiến và marketing đầu tư hợp lý để thu hút được vốn đầu tư lớn, công nghệ nguồn,
kinh nghiệm quản lý hiện đại và thương hiệu nổi tiếng cũng như các quan hệ kinh
doanh trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, chính sách đầu tư là văn bản pháp lý để các
nhà đầu tư và doanh nghiệp áp dụng các biện pháp xử lý các tranh chấp phát sinh bao
gồm các hình thức xử lý tranh chấp, các bước xử lý tranh chấp, cơ quan xử lý tranh
chấp và các chế tài áp dụng. Quy định về xử lý tranh chấp thể hiện trực tiếp và rõ ràng
thái độ, mức độ chấp nhận hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như cơ chế bảo vệ lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài theo đúng pháp luật trong nước và tập quán quốc
tế. Ngoài ra, chính sách đầu tư bảo vệ và phát huy được lợi thế sở hữu của nhà đầu tư.
Các yếu tố sở hữu này bao gồm sở hữu về các tài sản hữu hình và vô hình, tài sản vật
thể và tài sản trí tuệ…Khi lợi thế sở hữu được bảo hộ và phát huy có hiệu quả, lợi ích
15
trước mắt và lâu dài của nhà đầu tư được bảo đảm, nhà đầu tư nước ngoài có thêm
động lực thị trường đủ mạnh để đầu tư vào những dự án lớn hơn với hiệu quả cao hơn
hoặc tăng vốn đối với các dự án hiện có. Kết quả là chính sách đầu tư tạo động lực cho
dòng đầu tư mới và tạo niềm tin cao hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tạo sức
cạnh tranh cao hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào trong nước so với đối
thủ ở các khu vực khác.
1.1.2. Khái niệm về điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(a) Sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một công việc
cần thiết phải làm ở hầu hết các nước trên thế giới nhằm tận dụng tốt hơn những cơ hội
thuận lợi từ môi trường thế giới mang lại, đồng thời hạn chế những khó khăn trở ngại
ảnh hưởng đến sự cạnh tranh trong thu hút FDI của nước sở tại. Khi tham gia vào
WTO, các nước sẽ có điều kiện thuận lợi để các dòng vốn FDI di chuyển đến những
nơi đầu tư có hiệu quả. Như vậy, nếu các nước biết cách khai thác tốt lợi thế so sánh
của đất nước mình thì có thể tăng cường thu hút FDI phục vụ cho quá trình phát triển
đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ của các nền kinh tế công nghiệp mới nổi
(NIEs), ASEAN, Trung Quốc trong thời gian qua nhờ một phần quan trọng vào nguồn
vốn FDI và các nguồn vốn bên ngoài khác. Thực tế cho thấy những nước đang phát
triển bứt phá lên được về kinh tế trong những thập kỷ gần đây là những nước biết nắm
bắt các cơ hội thuận lợi, biết điều chỉnh chính sách trong thương mại và đầu tư để có
thể hội nhập hiệu quả nhất vào nền kinh tế toàn cầu. Đó là những nước thu hút được
nhiều vốn FDI nhất trong nhóm nước đang phát triển, đồng thời cũng là những nước có
sự điều chỉnh chính sách FDI hiệu quả nhất.
Tại hầu hết các quốc gia đang phát triển, chính phủ và giới hoạch định chính sách
FDI luôn phải đối mặt với một số thách thức, chẳng hạn như nhiều chính sách và điều
khoản của Luật thu hút FDI không hiệu quả hoặc kém tính khả thi, không mang lại các
kết quả như mong đợi. Ngoài ra, còn có một số thách thức khác như sự tham gia của
các doanh nghiệp trong nước trong các dự án FDI còn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, các
16
chính sách FDI lạc hậu hoặc không phù hợp với thông lệ quôc tế, các cam kết của nước
sở tại còn mang tính kìm hãm tiến trình hội nhập quốc tế. Chính sách FDI kém hiệu
quả có thể khiến cho các nhà đầu tư không được hưởng lợi ích từ đầu tư, phải chịu các
chi phí cao hoặc chi phí bỏ ra quá lớn so với lợi ích đạt được. Chính sách FDI kém
hiệu quả cũng có thể khiến năng lực hấp thụ vốn FDI của nước sở tại kém hoặc nước
sở tại thu hút được quá ít vốn FDI so với mục tiêu đặt ra. Do vậy, rất cần phải điều
chỉnh chính sách thu hút FDI để khắc phục những hạn chế và kém hiệu quả trên đây.
(b) Nội dung chính của việc điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Điều chỉnh chính sách thu hút FDI có thể hướng vào một số nội dung quan trọng
sau đây:
+ Điều chỉnh Luật thu hút đầu tư nước ngoài: Tuỳ theo từng tính chất và mức độ
pháp lý của loại chính sách FDI mà mỗi quốc gia áp dụng, sự điều chỉnh luật thu hút
đầu tư nước ngoài có thể được ban hành dưới các hình thức khác nhau.
+ Điều chỉnh các chính sách khác có liên quan: Để phù hợp với bối cảnh trong
nước và thông lệ quốc tế, các chính sách khác có liên quan cũng được điều chỉnh ,
chẳng hạn như những chính sách liên quan đến quản lý đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng,
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, phát triển nguồn nhân lực
(c) Đánh giá tác động của việc điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài
Tác động của việc điều chỉnh chính sách thu hút FDI được xét dưới hai góc độ
chính: Tác động trực tiếp, có nghĩa là những thay đổi của chính sách FDI sẽ dẫn đến
những thay đổi về cơ cấu vốn FDI đăng ký, vốn FDI thực hiện phân theo hình thức đầu
tư, ngành nghề đầu tư, vùng kinh tế, trình độ công nghệ của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Tác động lan toả, có nghĩa là những thay đổi của chính sách FDI sẽ
có những tác động tích cực hay tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước
sở tại. Cụ thể là:
+ Điều chỉnh chính sách thu hút FDI làm tăng/giảm dòng vốn FDI.
17
+ Làm thay đổi các hình thức FDI (thay đổi cơ cấu các hình thức FDI).
+ Làm chuyển dịch cơ cấu ngành (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ).
+ Làm thay đổi cơ cấu FDI theo vùng lãnh thổ (thay đổi cơ cấu FDI giữa các
vùng miền, địa phương trong cả nước);
+ Khuyến khích hoặc hạn chế chuyển giao công nghệ, xuất nhập khẩu…
+ Hạn chế/ làm gia tăng các vấn đề xã hội (bất bình đẳng, thất nghiệp, đạo đức,
lối sống, phong tục tập quán, )
+ Ảnh hưởng đến vấn đề môi trường (ô nhiễm môi trường tự nhiên, sinh thái…)
+ Các tác động lan toả khác: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển công
nghiệp phụ trợ v.v
1.2. Cơ sở thực tiễn về điều chỉnh chính sách thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO
1.2.1. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Nếu lấy mốc năm 1986 – năm bắt đầu hội nhập của Việt Nam xem xét, thì có
thể nói những nhận thức về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam đã dần dần
được hoàn thiện. Cấp độ hội nhập của Việt Nam ngày càng sâu hơn, rộng hơn, phản
ánh sự bắt kịp và thích ứng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và toàn
cầu. Cùng với cấp độ hội nhập ngày càng mang tính hoàn thiện và sâu sắc hơn, tốc độ
hội nhập cũng được đẩy nhanh hơn sau khi đất nước đã chuẩn bị sẵn sàng về nội lực và
nỗ lực cải cách trong nước, đặc biệt tốc độ này được đẩy mạnh và nhanh hơn vào năm
1996, tăng tốc hơn vào đầu những năm 2000 cho đến nay. Chuyển từ vị thế đối đầu
sang đối thoại và hình thành các quan hệ đối tác; từ mở rộng các quan hệ thương mại
sang mở rộng các quan hệ kinh tế toàn diện, từ quan hệ với một số nước đến phát triển
quan hệ với tất cả các nước; từ quan hệ kinh tế thông thường sang các quan hệ mang
tính định chế; từ hội nhập kinh tế từng bước đến hội nhập kinh tế toàn diện; từ là bạn
của các nước sang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; từ chủ động hội nhập đến chủ
động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…
18
Nhìn lại quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mà đỉnh cao là việc gia nhập WTO
vào cuối năm 2006 cho thấy, Việt Nam đã xác lập được vị thế đối ngoại chủ động và
phù hợp với nội lực. Nói cách khác, Việt Nam đã nhận thức được rõ những thực lực và
lợi thế, khả năng và triển vọng cũng như giới hạn của mình trong từng giai đoạn hội
nhập quốc tế. Vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới không thể cao khi
Việt Nam vẫn còn yếu kém về kinh tế – chính trị. Vị thế không thể thay thế cho nội
lực, mà chỉ có thể bổ sung và phát huy nội lực. Ngược lại, nếu nội lực thiếu, vị thế hội
nhập sẽ bị giới hạn, không phát huy hết tiềm năng, khả năng. Mối quan hệ biện chứng
này đã được Việt Nam kết hợp hiệu quả. Cùng với việc tăng cường hội nhập đa tuyến,
đa tốc độ, Việt Nam đã nỗ lực cải cách bên trong nền kinh tế và khiến tiến trình hội
nhập ngày càng thu được nhiều thành công hơn. Ở trong nước, Việt Nam đã làm được
3 vấn đề quan trọng: Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật, văn bản dưới luật, tạo hành
lang pháp lý phù hợp cho hội nhập (ví dụ Luật Doanh nghiệp, Luật Công ty, Luật đầu
tư…); Thực hiện chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống kinh tế vĩ
mô, cố gắng cải cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Để thống nhất việc chỉ đạo quá trình
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 10/2/1998 Thủ tướng chính phủ đã ra quyết
định 31/1998-TTG thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Uỷ ban này
có nhiệm vụ giúp Thủ tướng chỉ đạo và điều hành các bộ, ban, ngành trong việc tham
gia hội nhập quốc tế. Sau khi chính thức là thành viên của WTO, Việt Nam đã tiến
hành rà soát, hài hòa hoá các cam kết của Việt Nam trong các lĩnh vực mở cửa thị
trường hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ để tuân thủ các quy định chung, từ đó
lên kết hoạch triển khai một lộ trình hội nhập mới, chuyển từ phát triển theo chiều
rộng, xuất phát từ phía cung sang hội nhập theo chiều sâu, lấy nhu cầu thị trường làm
cơ sở xuất phát điểm, đưa Việt Nam vào tiến trình hội nhập cao hơn trong nền kinh tế
thế giới.
1.2.2. Những thuận lợi, khó khăn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam thời gian qua
19
(a) Chính sách thu hút FDI của Việt Nam trước khi gia nhập WTO
Kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài lần đầu tiên vào năm 1987, nhà nước
Việt Nam đã ban hành chính sách thu hút FDI cởi mở và hấp dẫn hơn. Để tạo niềm tin
cho nhà đầu tư nước ngoài, luật đầu tư nước ngoài năm 1987 cam kết “đảm bảo quyền
sở hữu đối với vốn đầu tư… tạo mọi điều kiện thuận lợi” để thu hút đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam đảm bảo “vốn và tài sản của các tổ chức cá nhân
nước ngoài không bị trưng thu hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính. Xí nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không bị quốc hữu hóa” và “ đối xử công bằng và thỏa
đáng đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài.”
Đến năm 1990, Luật đầu tư nước ngoài được bổ sung, sửa đổi. Trong đó, nổi bật
là: cho phép các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần chiếm đa số vốn
điều lệ được độc lập tham gia đầu tư với các nhà đầu tư nước ngoài; góp vốn không bị
hạn chế mức tối đa nhưng giới hạn ở mức tối thiểu; các mức ưu đãi thuế đi kèm với các
điều kiện cụ thể (chuyển giao công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu, số lượng lao động ), cho
phép tính lãi suất vay vào chi phí đầu tư…Tuy nhiên, Luật đầu tư nước ngoài năm
1990 bộc lộ nhiều bất hợp lý, như: chưa đa dạng hình thức đầu tư, chưa quy định rõ
trách nhiệm đền bù của nhà nước trong trường hợp làm thiệt hại vốn và tài sản của các
nhà đầu tư nước ngoài; thời hạn thuê đất làm dự án của các nhà đầu tư nước ngoài
không phù hợp. Do đó, Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi lần thứ 2 vào năm 1992.
Đến năm 1996, tiếp tục được bổ sung, sửa đổi lần thứ 3 với các nội dung cơ bản: gắn
khuyến khích ưu đãi đầu tư theo định hướng phát triển của kinh tế, cho phép người
nước ngoài góp vốn bằng VND có nguồn gốc từ ngoại tệ, đa dạng thêm các hình thức
đầu tư (xây dựng – kinh doanh – chuyển giao BOT, xây dựng – chuyển giao – kinh
doanh BTO), tăng quyền chủ động cho các doanh nghiệp, mở rộng lĩnh vực đầu tư
(bệnh viện, giáo dục – đào tạo), giảm nhẹ các thủ tục đầu tư
Đến năm 2000, năm thứ 5 kể từ khi Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO, Luật
đầu tư tiếp tục được sửa đổi theo hướng minh bạch và có tính cạnh tranh cao hơn. Nội
dung sửa đổi bao gồm: mở rộng thời hạn ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế
20
nhập khẩu nguyên liệu sản xuất trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất đối với các dự
án đặc biệt thuộc danh mục khuyến khích đầu tư, nới lỏng tỷ lệ tham gia góp vốn cổ
phần cho các nhà đầu tư nước ngoài, chuyển đổi hình thức đầu tư: chia, tách, sáp nhập,
hợp nhất doanh nghiệp.
Sự thay đổi mang tính ảnh hưởng lớn nhất đến việc thu hút đầu tư nước ngoài của
Việt Nam bắt đầu từ năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh
nghiệp mới (có hiệu lực từ 1/7/2006). Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành NĐ
108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật
Đầu tư (Nghị định 108). Thay đổi lớn nhất khi sửa đổi và ban hành Luật Đầu tư 2005
và Luật Doanh nghiệp năm 2006 là không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước
và nước ngoài khi tham gia các hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Quy định của Luật đầu tư 2005 đã bao trùm một phạm vi rất rộng liên quan tới
hoạt động đầu tư nói chung, bao gồm cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Điều
này đã thể hiện chính sách nhất quán của Việt Nam trong quản lý và định hướng, tạo
điều kiện cho các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Nhà đầu tư tại Việt Nam được hưởng
các chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư sau:
- Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không
cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
- Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi
thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.
- Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu
dài của các hoạt động đầu tư.
- Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
21
- Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh
vực, địa bàn ưu đãi đầu tư.
Luật Doanh nghiệp năm 2006 cũng quy định rõ ràng các thủ tục pháp lý cần
thiết để nhà đầu tư nước ngoài đăng ký đầu tư và ”không phân biệt đối xử giữa các loại
hình doanh nghiệp” (trích điều 5, Luật Doanh nghiệp 2006)
- Thực tiễn thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 1988 - 2006
Biểu đồ 1.1: FDI vào Việt Nam, giai đoạn 1988 - 2006
Nguồn: Ms. Le Hai Van (2007), Foreign direct investment in Vietnam,
24/09/2007.
22
Thay đổi về lượng vốn FDI đăng ký cho thấy diễn biến thu hút FDI rõ ràng
không chỉ là kết quả của điều chỉnh chính sách FDI, mà còn do tác động của tiến trình
hội nhập kinh tế của Việt Nam, cụ thể vào các năm 1995 khi Việt Nam gia nhập
ASEAN và năm 2006 khi Việt Nam gia nhập WTO. Hai sự kiện liên quan đến hội
nhập kinh tế khác cũng có tác động đáng kể đến tâm lý của các nhà đầu tư, qua đó ảnh
hưởng tích cực tới kết quả thu hút FDI chính là việc Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận kinh tế đối
với Việt Nam vào cuối năm 1994 và việc ký kết Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (BTA)
vào cuối năm 2001.
“Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với
năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ
bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002.
Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm
trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong
20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm
1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.” [6]
FDI thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tham gia có hiệu
quả vào phân công lao động quốc tế. Nó là động lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát
triển, đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thông qua phát triển kinh tế thị
trường, mở rộng các mối liên hệ kinh tế – thương mại với các nước và các khu vực trên
thế giới, nâng cao thị phần của Việt Nam trên thị trường thế giới, tăng cường vị trí và
vai trò của đất nước trong các cuộc đối thoại và hợp tác khu vực. FDI là nguồn vốn
quan trọng và là cú hích cho phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam
có điều kiện tiếp nhận nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ bên
ngoài. Các nguồn vốn FDI chủ yếu đến từ các công ty xuyên quốc gia (TNCs), tập
trung chủ yếu ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, EU, NIEs.
Có thể nói trong suốt 2 thập niên qua, FDI đã góp phần quan trọng vào nền kinh
tế, giúp Việt Nam phát triển bền vững thể hiện qua tốc độ tăng trưởng GDP cao liên
23
tục, chỉ đứng thứ hai sau Trung Quốc. Xét về mặt lý thuyết, FDI không chỉ dừng chân
ở những nước có sự ổn định về nhiều mặt như chính trị, an ninh (quân sự, dịch bệnh,
thiên tai…), kinh tế, xã hội, mà FDI còn là chỉ số dự báo sự phồn vinh, thịnh vượng
của nền kinh tế trong tương lai. Vì vậy, Việt Nam đã làm mọi cách để thu hút ngày
càng nhiều vốn FDI về cho đất nước và cho doanh nghiệp.
(b) Những thuận lợi, khó khăn trong thu hút FDI vào Việt Nam trước khi gia nhập
WTO
Một trong những vấn đề nổi bật đang được nhiều nhà đầu tư đánh giá là Việt
Nam đang có được một môi trường chính trị xã hội ổn định và đạt được nhiều thành
quả kinh tế. Cụ thể là:
+ Sau Đại hội Đảng tòan quốc lần thứ VIII (diễn ra từ ngày 28/6/1996 –
1/7/1996), Bộ chính trị xác định Việt Nam “phát triển mạnh mối quan hệ đối ngọai,
phá thế bao vây, cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế” [Văn
kiện Đại hội Đảng tòan quốc lần thứ VIII]. Với tôn chỉ đó, Việt Nam đã kiên trì thực
hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư.
+ Nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư
quốc tế, nhất là khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước.
+ Môi trường đầu tư của Việt Nam từng bước được cải thiện. Hệ thống luật
pháp chính sách về đầu tư nước ngoài đã được hoàn chỉnh hơn tạo khuôn khổ pháp lý
đầy đủ, rõ ràng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
+ Công tác chỉ đạo, điều hành của chính phủ, của các bộ, ngành và chính quyền
địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy mạnh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ
trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan
tâm hơn tới việc tháo gỡ những khó khăn cho việc triển khai dự án)
+ Công tác xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực. Thực hiện nghị quyết 09
của chính phủ và Chỉ thị 19 của Thủ tướng chính phủ, nhất là trong các năm 2003-
2005, công tác xúc tiến đầu tư có nhiều chuyển biến tích cực, khiến hình ảnh của Việt
24
Nam được quảng bá rộng rãi hơn và môi trường đầu tư của Việt Nam được nhiều
người đầu tư nước ngoài hiểu rõ hơn.
Tuy nhiên, những vấn đề đặt ra về môi trường đầu tư của Việt Nam là:
+ Môi trường đầu tư của Việt Nam tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được
còn chậm hơn so với các nước khác trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn
FDI tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt, làm hạn chế kết quả thu hút đầu tư mới.
+ Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn
chưa đồng bộ, hay thay đổi, khó dự đoán trước. Một số bộ, ngành chậm ban hành các
thông tư hướng dẫn các nghị định của chính phủ (như nghị định 06 về lĩnh vực giáo
dục và đào tạo) đã gây khó khăn đối với việc thẩm định cấp phép đầu tư và thu hút các
dự án mới vào lĩnh vực này. Một số ưu đãi của chính phủ đã được quy định trong nghị
định của chính phủ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu 5 năm cho sản xuất đối với
các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều
kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhưng thiếu hướng dẫn nên chưa được áp dụng.
Nghị định 164 về thuế thu nhập doanh nghiệp là bước tiến mới trong lộ trình xây dựng
một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, nhưng quy
định mới về thuế thu nhập doanh nghiệp cũng đã làm giảm ưu đãi đối với đầu tư nước
ngoài, nhất là vào các khu công nghiệp, khu chế xuất.
+ Việt Nam vẫn thiếu một quy hoạch tổng thể về thu hút FDI một cách khoa
học, phù hợp với thực tế và đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài của chúng ta hiện nay
vẫn chủ yếu căn cứ và những thế mạnh hiện có, hoặc đang thiếu hụt về công nghệ và
vốn, nhưng lại không được căn cứ vào thực tế quy hoạch hiện tại của chính phủ. Công
tác quy hoạch bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng xu hướng bảo hộ sản xuất
trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. Theo quy
định của pháp luật, ngoài các dự án không cấp giấy phép đầu tư, các nhà đầu tư có
quyền lập các dự án xin cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình
chỉ đạo điều hành, chính phủ đã ban hành thêm một số quy định tạm dừng hoặc không