ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG
KHẢO CỨU TÀI LIỆU HÁN NÔM
NHA KINH LƯỢC BẮC KỲ
VỀ HÀ NỘI (1886 – 1897)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Hán Nôm
HÀ NỘI - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG
KHẢO CỨU TÀI LIỆU HÁN NÔM
NHA KINH LƯỢC BẮC KỲ
VỀ HÀ NỘI (1886 – 1897)
CHUYÊN NGÀNH: HÁN NÔM
MÃ SỐ: 60.22.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM
Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRƯƠNG ĐỨC QUẢ
HÀ NỘI - 2013
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………
4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề…………………………………………
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………
7
4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………
11
5. Đóng góp của luận văn……………………………………………
11
6. Kết cấu của luận văn………………………………………………
12
NỘI DUNG
Chương 1:KHẢO CỨU VĂN BẢN TÀI LIỆU HÁN NÔM NHA
KINH LƯỢC BẮC KỲ………………………………………………
13
1.1 Cơ sở hình thành tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ………
13
1.1.1 Bối cảnh lịch sử hình thành Nha Kinh lược Bắc Kỳ…………….
13
1.1.2 Chức năng hành chính của Nha Kinh lược Bắc Kỳ……………
15
1.1.3 Việc hình thành tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ……
17
1.2. Vấn đề văn bản tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ………
18
1.2.1 Chất liệu …………………………………………………………
18
1.2.2 Phương pháp tạo văn bản………………………………………
22
1.2.3 Thể thức văn bản………………………………………………
23
1.2.4 Niên đại………………………………………………………….
28
1.2.5 Tác giả…………………………………………………………
32
1.2.6. Các loại hình văn bản…………………………………………
33
1.2.6.1 Văn bản do vua ban hành và gửi lên nhà vua………………….
35
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
2
1.2.6.2 Văn bản trao đổi giữa các cơ quan hành chính………………
36
Tiểu kết………………………………………………………………
39
Chương 2: NỘI DUNG TÀI LIỆU HÁN NÔM NHA KINH
LƯỢC BẮC KỲ VỀ HÀ NỘI………………………………………
40
2.1. Quản lý hành chính………………………………………………
40
2.1.1 Quan chức………………………………………………………
40
2.1.1.1 Bổ dụng, thăng giáng và hoán đổi quan chức………………….
43
2.1.1.2 Chế độ đãi ngộ và phong phẩm hàm cho quan viên…………
50
2.1.2. Địa giới hành chính……………………………………………
56
2.1.2.1 Lập các xã mới………………………………………………
57
2.1.2.2 Sáp nhập địa giới trong tỉnh và với các tỉnh phụ cận………….
63
2.1.3 Thuế khóa………………………………………………………
78
2.1.3.1 Thu thuế………………………………………………………
80
2.1.3.2 Giảm thuế……………………………………………………
87
2.2. Kinh tế…………………………………………………………….
89
2.2.1 Nông nghiệp……………………………………………………
89
2.2.1.1 Ruộng đất………………………………………………………
89
2.2.1.2 Thủy lợi………………………………………………………
101
2.2.1.3 Thiên tai, bão lụt……………………………………………….
109
2.2.2 Những ngành khác……………………………………………….
112
2.3 Xã hội……………………………………………………………
112
2.3.1 Dân số……………………………………………………………
112
2.3.2 An ninh trật tự……………………………………………………
117
2.4 Văn hóa……………………………………………………………
122
2.4.1 Tôn giáo – tín ngưỡng…………………………………………
122
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
3
2.4.2 Tế lễ ……………………………………………………………
128
2.5 Giáo dục…………………………………………………………
129
2.5.1 Sự thay đổi trong giáo dục thời thuộc địa………………………
129
2.5.2 Vấn đề thi cử …………………………………………………….
135
2. 6 Quân sự…………………………………………………………
137
2.6.1 Vấn đề binh lương và lập đồn……………………………………
137
2.6.2 Tình hình hoạt động của phong trào khởi nghĩa…………………
142
2.7. Hình luật…………………………………………………………
145
2.7.1 Đơn kiện và tranh chấp…………………………………………
145
2.7.2 Kết án…………………………………………………………….
146
2.8. Những vấn đề khác………………………………………………
149
2.9 Giá trị nội dung của tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ……
152
Tiểu kết………………………………………………………………
153
KẾT LUẬN………………………………………………
155
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………
160
PHỤ LỤC…………………………………………………
165
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để trực tiếp cai quản xứ Bắc Kỳ đất rộng người đông lại cách xa Kinh đô
Huế của triều đình nhà Nguyễn, ngày 3 – 6 – 1886 được sự đồng ý của Tổng trú
sứ Trung – Bắc Kỳ, vua Đồng Khánh đã ra chỉ dụ thành lập Nha Kinh lược Bắc
Kỳ.
Nha Kinh lược Bắc Kỳ là cơ quan hành chính nhà nước phong kiến cao
nhất ở Bắc Kỳ có nhiệm vụ thay mặt vua trực tiếp điều hành và giải quyết mọi
việc ở đây. Năm 1897 Toàn quyền Pháp ở Đông Dương P.Doumer thấy Nha
Kinh lược Bắc Kỳ không còn cần thiết nữa nên ngày 26 – 7 – 1897 vua Thành
Thái xuống dụ giải thể Nha Kinh lược; ngày 13 – 8 – 1897 Toàn quyền
P.Doumer chính thức thông qua. Trải qua 11 năm hoạt động, Nha Kinh lược đã
hình thành được một phông tài liệu Nha Kinh lược Bắc Kỳ gồm 3525 tập. Tài
liệu này chủ yếu được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm phản ánh tương đối đầy
đủ các mặt hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở Bắc Kỳ. Trước năm
1975 tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ được bảo quản ở kho Lưu trữ Nhà
nước Trung ương (nay là Trung tâm Lưu trữ quốc gia I), ở Nha Văn khố và Thư
viện quốc gia Sài Gòn. Năm 1975 tất cả đều được đưa ra Trung tâm Lưu trữ
quốc gia I để đảm bảo tính toàn diện của tài liệu này. Tài liệu Hán Nôm Nha
Kinh lược Bắc Kỳ thực sự là một nguồn sử liệu quý giúp chúng ta tìm hiểu và
nghiên cứu lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tổ chức bộ máy nhà
nước… thời thuộc Pháp. Tuy nhiên, cho đến nay tài liệu này vẫn ít được biết
đến. Vì thế chúng tôi muốn chọn tài liệu này làm đối tượng nghiên cứu để đánh
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
5
giá giá trị của tài liệu, đồng thời nhằm giới thiệu một nguồn tư liệu Hán Nôm mà
chúng ta đang có.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tư liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ đã góp phần phản ánh rõ hơn
bức tranh toàn cảnh về thực trạng xã hội, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa,
giáo dục, quân sự… ở Bắc Kỳ những năm cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, cho tới
nay nguồn tài liệu này vẫn chưa được nhiều người biết đến và gần như chưa có ai
nghiên cứu sâu về nó. Nhìn chung mới chỉ có ít bài công bố về một vài văn bản
cụ thể trong khối tài liệu này.
- Tác giả Lê Ninh có một số bài viết khái quát về Nha Kinh lược và tư liệu
có liên quan như:
+ Vài nét về Nha Kinh lược Bắc Kỳ đăng trên Tập san Văn thư Lưu trữ, số
2, năm 1983, tr. 22 - 24. Bài viết chủ yếu tìm hiểu qua nguồn tài liệu tiếng Pháp
để giới thiệu khái quát về bộ máy Nha Kinh lược. Thông qua bài giới thiệu, tác
giả cung cấp cho chúng ta những thông tin cơ bản từ việc hình thành đến tổ chức
và chức năng, nhiệm vụ cũng như quá trình hoạt động của Nha này.
+ Vụ án giặc Pháp sát hại ông Nghè Vũ Lợi đăng trên Tập san Văn thư
Lưu trữ, số 3 (tr.21) năm 1983 và bài Giới thiệu thêm tài liệu về hồ sơ “vụ án
giặc Pháp sát hại ông Nghè Vũ Lợi” đăng trên Tập san Văn thư Lưu trữ, số 4
(tr.29) năm 1983. Trong bài viết này, tác giả kết hợp tài liệu Tiếng Pháp và tài
liệu của phông Nha Kinh lược Bắc Kỳ để giới thiệu. Song bài viết chỉ mang tính
tập hợp tư liệu của một sự kiện.
- Nguyễn Tiến Lộc: Giới thiệu danh mục làng xã tỉnh Hà Nội cuối thế kỷ
XIX đăng trên Tạp chí Lưu trữ Việt Nam, số 3 năm 2000, tr. 22-26. Tác giả cung
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
6
cấp cho độc giả một danh mục làng xã của tỉnh Hà Nội vào cuối thế kỷ XIX
trong khối tài liệu Nha Kinh lược Bắc Kỳ.
- Tác giả Vũ Văn Sạch có một số bài viết:
+ Về tờ thị của Tôn Thất Thuyết đăng trên Tập san Văn thư Lưu trữ, số 2,
tháng 6 – 1979, tr. 19 - 20; năm 2002 in lại trong cuốn “Tuyển tập những bài
công bố, giới thiệu tài liệu lưu trữ” của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. Bài viết
giới thiệu về văn bản có tờ thị của Tôn Thất Thuyết nằm trong phông Nha Kinh
lược Bắc Kỳ. Trong bài viết này, tác giả vừa giới thiệu về mặt văn bản học, vừa
giới thiệu về nội dung có kèm phiên âm, dịch nghĩa văn bản.
+ Sơ bộ tìm hiểu, đánh giá một số tình hình và việc công bố giới thiệu tài
liệu lưu trữ Hán Nôm ở kho Lưu trữ Trung ương Hà Nội đăng trên Tập san Văn
thư Lưu trữ, số 4 năm 1983, tr. 11 - 13 và số 1 năm 1884, tr. 18-21. Bên cạnh
việc giới thiệu những tài liệu Hán Nôm kho Lưu Trữ Trung ương Hà Nội (nay là
trung tâm Lưu trữ quốc gia I) như: Châu bản triều Nguyễn, Địa bạ triều Nguyễn,
tập tài liệu Hương Khê, những bài thi hương, hành trình đi sứ… , tác giả đã giới
thiệu tài liệu Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Tuy nhiên, bài viết mới chỉ dừng lại ở mức
giới thiệu rất sơ lược nội dung của khối tài liệu.
+ Thêm một bài thơ của Nguyễn Cao đăng trên Tập san Văn thư Lưu trữ,
số 4 năm 1983, tr. 25 – 29. Bài này, tác giả giới thiệu bài thơ của Nguyễn Cao
được tìm thấy trong tài liệu Nha Kinh lược Bắc Kỳ.
- Ngoài ra, tác giả Vũ Văn Sạch đã cùng nhà sử học Đinh Xuân Lâm công
bố một loạt những tư liệu về phong trào Cần Vương trong khối tài liệu này qua
các bài viết:
+ Tư liệu mới về Nguyễn Xuân Ôn và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo
(1885- 1887) đăng trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 6 năm 1982, tr.80 – 83.
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
7
+ Về Nguyễn Cao đăng trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 4 năm 1983,
tr. 71 – 74.
+ Ba văn kiện về phong trào Cần Vương đăng trên Tạp chí nghiên cứu
Lịch sử, số 5 năm 1983, tr. 76 – 79.
+ Một số tư liệu về phong trào Cần Vương đăng trên Tạp chí nghiên cứu
Lịch sử, số 5 năm 1985, tr. 87 – 89.
+ Hai bài thơ Nôm của vua Hàm Nghi đăng trên Tạp chí sông Hương, số 8
năm 1984, tr. 103 – 104.
- Tác giả Trần Văn Viết có bài Giới thiệu tài liệu liên quan đến xây dựng
chợ Đồng Xuân thế kỷ XIX đăng trên Tạp chí Lưu trữ Việt Nam, số 5 năm 2000,
tr. 20-21. Bài viết cho chúng ta thông tin về quá trình xây dựng chợ Đồng Xuân
mà tác giả đã tập hợp được tư liệu từ phông Nha Kinh lược Bắc Kỳ.
Tuy đã có một số bài lấy tư liệu từ phông Nha Kinh lược Bắc Kỳ nhưng
đây là những bài viết mang tính chất giới thiệu nội dung, sự kiện cụ thể. Qua
những bài viết này, người đọc chỉ tiếp nhận được nội dung mang tính chất đơn lẻ
mà chưa có cái nhìn khái quát, toàn diện về một khối tài liệu Hán Nôm giá trị
này. Vì thế, tôi muốn bước đầu khảo cứu tài liệu Nha Kinh lược Bắc Kỳ để khái
quát và cung cấp cái nhìn tổng quan cũng như giá trị của một nguồn sử liệu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Theo như thống kê, tổng khối lượng tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc
Kỳ là 3525 tập, chủ yếu bao quát toàn bộ các hoạt động hành chính của Bắc Kỳ
trong thời gian 11 năm (từ 1886 - 1897). Do khuôn khổ có hạn của luận văn cao
học, chúng tôi chọn tài liệu Nha Kinh lược trên địa bàn Hà Nội làm đối tượng
nghiên cứu, khảo sát. Tuy nhiên, địa giới hành chính Hà Nội thời kỳ này được
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
8
tách nhập khá phức tạp nên trước hết chúng tôi muốn xác định giới hạn Hà Nội
lúc bấy giờ để làm cơ sở lựa chọn tài liệu.
Theo Đại Nam thực lục, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) cho bãi bỏ các
trấn, doanh và chia đất nước thành 31 tỉnh, trong đó có tỉnh Hà Nội, đặt tỉnh lỵ ở
thành Thăng Long cũ. Tỉnh Hà Nội thời kỳ này gồm “4 phủ là Hoài Đức,
Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân; 15 huyện là Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ
Liêm, Thượng Phúc, Thanh Trì, Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An,
Nam Xang, Duy Tiên, Bình Lục, Phú Xuyên, Kim Bảng, Thanh Liêm” [42,
tr.229]. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép: “năm Minh Mệnh thứ 12
(1831), đặt tỉnh Hà Nội có 4 phủ, 14 huyện: phủ Hoài Đức lĩnh 2 huyện Thọ
Xương, Vĩnh Thuận; phủ Ứng Hòa lĩnh 4 huyện: Sơn Minh (sau là huyện Sơn
Lãng, nay là huyện Ứng Hòa), Hoài An (tương đương với phía nam huyện Ứng
Hòa là một phần huyện Mỹ Đức ngày này), Chương Đức (nay là huyện Chương
Mỹ), Thanh Oai; phủ Lý Nhân lĩnh 5 huyện: Bình Lục, Kim Bảng, Duy Tiên,
Thanh Liêm, Nam Xương (cũng gọi là Nam Xang, nay là huyện Lý Nhân); phủ
Thường Tín lĩnh 3 huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín), Thanh Trì,
Phú Xuyên. Bỏ trấn Sơn Nam. Lại đem huyện Từ Liêm thuộc phủ Quốc Oai,
trấn Sơn Nam trước kia đổi sang thuộc phủ Hoài Đức” [46, tr.33]. Như vậy, các
chính sử triều Nguyễn đều ghi tỉnh Hà Nội bắt đầu có từ năm 1831 và gồm 4 phủ
15 huyện.
Sau khi thành Hà Nội bị thất thủ, triều đình Huế phải ký hiệp ước
Patenotre chấp nhận cho Thực dân Pháp thiết lập quyền bảo hộ ở nước ta. Ngày
8 - 1 – 1886, ngày 1 và ngày 29 - 5 - 1886 chính quyền bảo hộ Pháp lập ra Ban
tư vấn thành phố Hà Nội. Ngày 19 – 7 – 1888, Toàn quyền Đông Dương ban
hành nghị định thành lập “Thành phố Hà Nội” đứng đầu là một Đốc lý (chức
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
9
Đốc lý do Công sứ tỉnh Hà Nội kiêm nhiệm)
1
. Ngày 14 – 9 - 1888, Pháp định
giới hạn của thành phố Hà Nội
2
.
Ngày 1 – 10 – 1888, Đồng Khánh ký một đạo dụ, được Toàn quyền Đông
Dương Richaud thông qua ngày 3 – 10 - 1888 dâng hẳn thành phố Hà Nội cho
Pháp làm nhượng địa và từ bỏ quyền hành của chính phủ Nam triều trên đất
nhượng địa này. Địa giới của thành phố Hà Nội được xác định bởi Nghị định số
122 ngày 15 tháng 11 năm 1889 của Thống sứ Bắc Kỳ gồm đại bộ phận khu đất
của huyện Thọ Xương và một phần huyện Vĩnh Thuận (thuộc phủ Hoài Đức tỉnh
Hà Nội)
3
. Các khu vực còn lại được gọi là tỉnh Hà Nội gồm 4 phủ: phủ Hoài Đức
gồm các huyện Từ Liêm, Đan Phượng, Thọ Xương, Vĩnh Thuận; phủ Thường
Tín gồm huyện Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên; phủ Lý Nhân gồm huyện
Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục, Nam Xang; phủ Ứng Hòa gồm
huyện Sơn Lãng và Thanh Oai.
Lấy cớ tỉnh Hà Nội quá rộng, không tiện cho việc tuần phòng, ngày 21 –
3 - 1890, Toàn quyền Đông Dương cho tách 3 huyện Nam Xang, Bình Lục,
Thanh Liêm của phủ Lý Nhân ra khỏi tỉnh Hà Nội. Ba huyện này lập thành phủ
Liêm Bình và đem sáp nhập vào tỉnh Nam Định; còn 2 huyện Duy Tiên và Kim
Bảng, phủ Lý Nhân vẫn thuộc tỉnh Hà Nội như cũ. Hai huyện Chương Mỹ và
Yên Đức cũng được tách ra (trừ những tổng của huyện Hoài An cũ nằm bên tả
ngạn sông Đáy) ra khỏi tỉnh Hà Nội. Sau đó sáp nhập 2 huyện này với phủ
Lương Sơn và huyện Lạc Thủy của tỉnh Mường (Hòa Bình ngày nay), lập thành
1
Công báo J 142, MPAT 1888
2, 3
Địa chính Hà Nội, hồ sơ 800
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
10
một đơn vị hành chính riêng gọi là đạo Mỹ Đức. Một số tổng còn lại của huyện
Hoài An cho sáp nhập vào huyện Sơn Lãng thuộc tỉnh Hà Nội.
Ngày 02 tháng 6 năm 1890 Toàn quyền Đông Dương lại ra quyết định số
602 xác định địa giới của tỉnh Hà Nội: phía Bắc và phía Đông là Sông Hồng,
phía Nam là sông đào phủ Lý Nhân (Canal de Phu Ly), phía Tây là sông Đáy.
Ngày 20 – 10 - 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định lấy phủ Liêm
Bình cùng với 17 xã của huyện Vụ Bản và Thượng Nguyên (phần đất phía nam
huyện Mỹ Lộc ngày nay) tỉnh Nam Định nhập vào phủ Lý Nhân gồm 2 huyện
Duy Tiên và Kim Bảng, thêm 2 tổng Mộc Hoàn và Chuyên Nghiệp của huyện
Phú Xuyên, tỉnh Hà Nội, lập thành tỉnh Hà Nam, tỉnh lỵ là Lý Nhân. Như vậy,
khi thành lập tỉnh Hà Nam thì 2 huyện Duy Tiên, Kim Bảng và 2 tổng Mộc
Hoàn, Chuyên Nghiệp của huyện Phú Xuyên không còn thuộc tỉnh Hà Nội.
Ngày 18 – 3 – 1891, Toàn Quyền Đông Dương lại ký nghị định xóa bỏ
đạo Mỹ Đức và thành lập phủ Mỹ Đức (gồm 2 huyện Chương Mỹ và Yên Đức),
cho phủ này lệ thuộc tỉnh Hà Nội, còn phủ Lương Sơn và huyện Lạc Thủy của
đạo Mỹ Đức cũ thì đem trả lại tỉnh Mường.
Tỉnh Hà Nội từ thời Minh Mệnh so với thời gian này đã bị thu nhỏ lại và
chỉ còn có: phủ Hoài Đức với 4 huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm, Đan
Phượng; phủ Thường Tín với 3 huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín),
Thanh Trì, Phú Xuyên; phủ Ứng Hòa với 2 huyện Sơn Lãng (nay là huyện Ứng
Hòa), Thanh Oai; phủ Mỹ Đức với 2 huyện Chương Mỹ, Yên Đức (nay là huyện
Mỹ Đức). Tỉnh lỵ khi ấy vẫn là Thành phố Hà Nội.
Ngày 26 – 12 - 1896 Toàn quyền Đông Dương J.Fourès ra nghị định
chuyển tỉnh lỵ Hà Nội về Cầu Đơ, một làng thuộc huyện Thanh Oai. Từ khi tỉnh
lỵ Hà Nội chuyển về Cầu Đơ, tỉnh này đôi khi vẫn được gọi là tỉnh Cầu Đơ. Tuy
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
11
nhiên, đến ngày 03 tháng 5 năm 1902 Toàn quyền Đông Dương Broni ký nghị
định chính thức đổi tên tỉnh này thành tỉnh Cầu Đơ
1
.
Như vậy, kể từ khi được lập, tỉnh Hà Nội đã có nhiều thay đổi về địa giới
hành chính; trong giới hạn của luận văn chúng tôi chỉ khảo cứu những văn bản
khi đơn vị hành chính đang thuộc về Hà Nội (tính cả thành phố Hà Nội và tỉnh
Hà Nội).
Về nội dung nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về
văn bản học như chất liệu, loại hình, tác giả, niên đại, hình dấu … của loại tài
liệu này. Đồng thời, chúng tôi khảo sát, phân loại tài liệu dựa trên tiêu chí văn
bản và nội dung của nó. Qua đó cung cấp cho độc giả cái nhìn tổng quan về tài
liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ trên địa bàn Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được chúng tôi tiến hành trong luận văn này cơ
bản là dựa trên phương pháp văn bản học Hán Nôm. Luận văn sẽ lần lượt nghiên
cứu từ mặt chất liệu, đến niên đại, tác giả, thể thức văn bản để đưa ra những
thông tin cơ bản, chính xác về loại hình văn bản đặc thù này.
Ngoài ra, luận văn còn dùng phương pháp đối chiếu, so sánh kết hợp với
phương pháp liên ngành giữa các ngành sử học, ấn chương học, lưu trữ học …
để tìm hiểu giá trị nội dung và hình thức của tài liệu.
5. Đóng góp của luận văn.
Luận văn nghiên cứu, giới thiệu các loại hình văn bản tài liệu Hán Nôm
Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội giai đoạn 1886 – 1897. Đây là luận văn đầu
tiên nghiên cứu về nguồn tài liệu này mang tính giới thiệu tổng quát, toàn diện.
1
Công báo J 1044, JOIF 1902
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
12
Luận văn bước đầu phân loại tài liệu theo nội dung, đồng thời đánh giá giá
trị nghiên cứu của tài liệu Nha kinh lược Bắc Kỳ.
Từ các kết quả trên, luận văn cung cấp cho độc giả cái nhìn tổng quan về
tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ cùng những đặc điểm của nó về mặt
văn bản học. Trên cơ sở đó người đọc có những thuận lợi nhất định khi khai
thác, nghiên cứu loại tư liệu đặc thù này.
6. Cấu trúc luận văn
Nội dung luận văn được trình bày theo 3 phần lớn: Mở đầu, nội dung và
kết luận. Phần cuối của luận văn là phụ lục công bố một số văn bản kèm theo
bản dịch.
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
13
NỘI DUNG
Chương 1
KHẢO CỨU VĂN BẢN TÀI LIỆU HÁN NÔM
NHA KINH LƯỢC BẮC KỲ
1.1. Cơ sở hình thành tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ
1.1.1 Bối cảnh lịch sử hình thành Nha Kinh lược Bắc Kỳ
Sau khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ, Thực dân Pháp bắt đầu thực hiện
âm mưu tiến ra Bắc Kỳ. Trước sự tấn công mạnh mẽ của Thực dân Pháp, lúc đó
triều đình nhà Nguyễn lại quá suy yếu nên các tỉnh Bắc Kỳ lần lượt rơi vào tay
thực dân. Năm 1884, quân Pháp được tiếp viện dồi dào đã chiếm được nhiều tỉnh
giàu có của Bắc Kỳ. Tháng 5 – 1884, hiệp ước Thiên Tân được ký, đại diện Pháp
buộc quân Thanh phải rút về nước, đồng thời triều Nguyễn phải chấp nhận một
số điều kiện trong hiệp ước Harmand và ký hiệp ước Patenotre. Với hiệp ước
này, việc thiết lập quyền bảo hộ ở Việt Nam của Pháp không còn bị ngăn cản. Từ
đây, triều đình nhà Nguyễn gần như phải phụ thuộc vào Toàn quyền Pháp ở
Đông Dương.
Để trực tiếp cai quản xứ Bắc Kỳ cách xa Kinh đô Huế, dưới sự đồng ý của
Tổng trú sứ Trung – Bắc Kỳ Paul Bert, vua Đồng Khánh đã ra chỉ dụ thành lập
Nha Kinh lược Bắc Kỳ vào ngày 3 – 6 – 1886
1
. Đến ngày 20 – 6 – 1886, dụ
thành lập này được chuẩn y. Lệnh ngày 20 – 6 – 1886 của Tổng trú sứ Trung-
Bắc Kỳ Paul Bert chuẩn y Đạo dụ ngày 3 – 6 – 1886 của Vua Đồng Khánh về
việc uỷ nhiệm các quyền hạn của triều đình cho Kinh lược sứ Bắc Kỳ như sau:
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
14
“Theo đó, để cai quản Bắc Kỳ, Kinh lược sứ được toàn quyền áp dụng
mọi biện pháp mà ông ta cho là cần thiết và phù hợp.
Tuy nhiên, Kinh lược sứ không được tự ý ban hành quyết định sửa đổi
quyền hạn của mình cũng như quyền hạn trao cho người đại diện của Pháp và
viên chức trong triều đình Huế theo các hiệp ước hiện hành.
Kinh lược sứ có trách nhiệm thông báo cho triều đình những quyết định
do ông ta đưa ra”
1
Như vậy, Nha Kinh lược Bắc Kỳ là cơ quan hành chính nhà nước phong
kiến cao nhất ở Bắc Kỳ, có nhiệm vụ thay mặt vua trực tiếp điều hành và giải
quyết mọi việc ở Bắc Kỳ. Kinh lược sứ Bắc Kỳ có nhiệm vụ làm tấu sớ báo cáo
tình hình lên triều đình để nhà vua biết.
Về phía thực dân, Tổng trú sứ Trung – Bắc Kỳ Paul Bert đồng ý cho lập
Nha Kinh lược là muốn lợi dụng cơ quan này làm trung gian phục vụ mục đích
của mình. Vì vậy, những vấn đề về quản lý hành chính của các tỉnh Bắc Kỳ trên
danh nghĩa vẫn là do Nha Kinh lược quản lý, điều hành nhưng thực tế nha này
không được quyền sửa đổi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng như của đại diện
Pháp.
Đến khi trực tiếp thiết lập điều hành bộ máy cai trị ở Bắc Kỳ, Toàn quyền
Đông Dương P.Doumer thấy Nha Kinh lược không còn cần thiết. Vì vậy, ngày
26 – 7 – 1897 vua Thành Thái xuống dụ giải thể Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Ngày
13 – 8 – 1897 dụ giải thể được Toàn quyền Pháp ở Đông Dương P. Doumer
1
Phông RST, Hồ sơ 4797, tờ 3
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
15
chính thức thông qua. Theo đó, Nghị định đồng ý giải thể Nha Kinh lược và bãi
bỏ chức Kinh lược gồm 2 điều:
“Điều 1. Chuẩn y đạo dụ ngày 26 – 7 - 1897 của Vua Thành Thái về việc
xoá bỏ chức Kinh lược Bắc Kỳ và chuyển giao toàn bộ chức năng của Kinh lược
sứ vào tay Thống sứ. Đạo dụ được thực thi trên toàn xứ Bảo hộ.
Điều 2. Khâm sứ Trung Kỳ và Thống sứ Bắc Kỳ chịu trách nhiệm thi hành
nghị định này”
1
.
Sau 11 năm hoạt động, đến năm 1897 Nha Kinh lược bị bãi bỏ, Hoàng
Cao Khải trở về Kinh đô Huế làm việc, toàn bộ nhân viên ở nha do Thống sứ
Bắc Kỳ quản lý. Nhà sử học Dương Kinh Quốc nhận định rằng: “Đây là một
bước quyết định trong chính sách trực trị của Thực dân Pháp đối với Bắc Kỳ. Từ
đây, vua và triều đình Huế không còn chút quyền hành gì ở Bắc Kỳ nữa; quyền
bổ nhiệm, điều động, thăng, giáng quan lại các cấp ở Bắc Kỳ đều do Thống sứ
Bắc Kỳ quyết định [33, tr.241]”. Như vậy, bãi bỏ Nha Kinh lược đồng nghĩa với
việc Thực dân Pháp đã xóa nốt cả phần hành chính còn lại trong tay triều đình
Huế ở Bắc Kỳ để trực tiếp thực hiện mục đích khai thác thuộc địa của mình.
1.1.2 Chức năng hành chính của Nha Kinh lược Bắc Kỳ
Nha Kinh lược Bắc Kỳ được thiết lập nhằm thay mặt vua trực tiếp điều
hành và giải quyết mọi việc ở Bắc Kỳ. Người đầu tiên giữ chức Kinh lược sứ là
Nguyễn Hữu Độ, bố vợ vua Đồng Khánh. Ngay sau khi giữ chức, Nguyễn Hữu
Độ xin với quan thầy Pháp cho xây trụ sở và tổ chức bộ máy làm việc.
Bộ máy Nha Kinh lược lúc đầu có 15 viên chức chia làm 2 phòng. Phòng I
có 1 bát phẩm, 2 cửu phẩm, 5 thư lại, phụ trách các việc của Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ
Binh. Phòng II có 1 bát phẩm, 1 cửu phẩm, 5 thư lại, đảm nhiệm các việc thuộc
1
Phông GGI-A, Q.43,Vb.26, tờ 39
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
16
Bộ Hình, Bộ Hộ, Bộ Công. Tuy nhiên số biên chế của nha không cố định là 15
người mà tùy vào lượng công việc nhiều ít có thể thêm bớt.
Đầu năm 1888, bộ máy của Nha Kinh lược được mở rộng và chia lại các
phòng ban cho tiện làm việc. Lúc này, nha có sáu phòng gồm Phòng Lại, Phòng
Lễ, Phòng Binh, Phòng Hình, Phòng Hộ, Phòng Công và có một Viên ngoại lang
phụ trách chung.
Cuối năm Mậu Tý (1888), Kinh lược sứ Nguyễn Hữu Độ chết, Tổng đốc
Sơn Hưng Tuyên Trần Lưu Huệ làm quyền Kinh lược. Sau khi Trần Lưu Huệ lên
giữ quyền Kinh lược, Thực dân Pháp rút hẹp quyền hạn của nha. Kinh lược sứ
không được quyền quyết định những việc quan trọng, thậm chí chỉ như một cơ
quan trung gian để tấu các việc hành chính của các tỉnh vào Kinh và tư những
hiệu lệnh xuống các tỉnh Bắc Kỳ khi Toàn quyền Đông Dương hay triều đình
ban bố.
Ngày 1 – 7 năm Thành Thái thứ 2 (1890), quyền Kinh lược sứ Trần Lưu
Huệ xin từ chức, Tổng đốc Hải An Hoàng Cao Khải được về giữ Nha Kinh lược.
Ngày 1 – 6 năm Canh Dần (1890), Toàn quyền Đông Dương Piquet và Thống sứ
Bắc Kỳ Bonnal ra nghị định cho phép Hoàng Cao Khải được quyền tổ chức lại
bộ máy của nha, đồng thời lựa chọn viên chức và định mức lương cho từng
người. Sau đó, Hoàng Cao Khải sắp xếp lại bộ máy làm việc, giữ nguyên các
phòng ban, nhưng số người thì giảm một nửa. Tổng số nhân viên hành chính của
Nha Kinh lược lúc này còn 12 người và đội bảo vệ 18 người.
Triều đình Nguyễn giao cho Nha Kinh lược quản lý mọi hoạt động chính
trị, kinh tế, xã hội…của Bắc Kỳ từ cấp tỉnh trở xuống (tỉnh, huyện, phủ, tổng,
xã). Nha có nhiệm vụ giải quyết mọi vấn đề ở Bắc Kỳ, sau đó làm tấu sớ báo về
triều đình. Mặt khác, nha có trách nhiệm thông báo những chỉ, dụ, quy định của
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
17
triều đình ban hành cho các địa phương thực hiện. Như vậy, nha Kinh lược vừa
có chức năng quản lý hành chính ở Bắc Kỳ, vừa như một cầu nối giữa triều đình
và địa phương.
Về phía Thực dân Pháp, muốn cai trị Việt Nam, họ dùng chính “người bản
xứ trị người bản xứ”. Vì thế, họ tiếp tục duy trì chế độ phong kiến để làm công
cụ, làm trung gian cho họ. Ngoài ra, Thực dân Pháp đặt chức Thống sứ Bắc Kỳ
cai quản chung toàn vùng này; đặt tòa Công sứ tại các tỉnh, giao cho viên Công
sứ, Phó công sứ quản lý mọi mặt trong tỉnh. Đồng thời, đặt thêm những đội lính
khố đỏ, khố xanh, lính thủy; ở phủ huyện có lính cơ, lính lệ để tăng cường bộ
máy đàn áp.
Với chức năng, nhiệm vụ như vậy, Nha Kinh lược thực chất là một cơ
quan trung gian có trách nhiệm giải quyết mọi thủ tục hành chính ở các tỉnh Bắc
Kỳ. Nha có nhiệm vụ tư báo toàn bộ tình hình ở địa phương cho triều đình và
chính quyền Pháp, đồng thời thông tin lại những hiệu lệnh của triều đình và Toàn
quyền Đông Dương xuống địa phương thực hiện. Với nhiệm vụ đó, mọi thông
tin hành chính từ chính quyền địa phương lên trên và ngược lại đều phải thông
qua trung gian Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Điều đó có nghĩa Nha Kinh lược mang
chức năng quản lý hành chính giải quyết mọi vấn đề về quan chức, địa giới hành
chính, án kiện, kinh tế, văn hóa, giáo dục …. ở Bắc Kỳ nhưng không được thực
quyền.
1.1.3 Việc hình thành tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ
Nha Kinh lược được lập nhằm thay mặt triều đình Huế quản lý và điều
hành hệ thống hành chính thuộc chính quyền địa phương về mọi hoạt động kinh
tế, chính trị, xã hội … ở Bắc Kỳ. Việc quản lý này thông qua hệ thống các văn
bản hành chính như tư, tư di, nghị định, quyết định, trình, báo cáo …. Nha có
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
18
nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết những văn bản của Toàn quyền, Thống sứ, công
sứ, triều đình, Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát … gửi đến và ngược lại.
Trong suốt quá trình hoạt động của Nha Kinh lược từ năm 1886 – 1897 đã ban
hành và tiếp nhận một khối công văn đồ sộ về khối lượng, phong phú về nội
dung và đa dạng về hình thức. Đây là những văn bản hành chính được viết chủ
yếu bằng chữ Hán Nôm và một số thư từ được dịch từ tiếng Pháp sang chữ Nôm.
Nội dung của những văn bản này tập trung vào các vấn đề chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quan lại, địa giới, an ninh, tình hình quân sự… Về loại hình, tài liệu
này vừa có văn bản hành chính của chế độ phong kiến như dụ, tấu, tư, sức, trát,
trình…, vừa có loại hình văn bản quản lý nhà nước mới của chính quyền Thực
dân Pháp ban ra như nghị định, thông tư, báo cáo, quyết định… Trong 11 năm
hoạt động, cơ quan này đã để lại một khối lượng tài liệu lớn, theo thống kê, hiện
nay chúng ta còn giữ được 3525 tập với 92821 văn bản. Để phân biệt với những
tài liệu lưu trữ khác, khối tài liệu này được gọi theo tên cơ quan hành chính là
phông Nha Kinh lược Bắc Kỳ. Vì vậy, nhắc đến tài liệu Hán Nôm Nha Kinh
lược Bắc Kỳ hay gọi theo cách phân loại tài liệu lưu trữ là Phông Nha Kinh lược
Bắc Kỳ đều để chỉ khối tài liệu này.
1.2. Vấn đề văn bản tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ
1.2.1 Chất liệu
Chữ Hán được du nhập vào nước ta cùng với sự xâm lược của phong kiến
phương Bắc.Trong suốt chiều dài các triều đại phong kiến Việt Nam, chữ Hán là
ngôn ngữ viết chính thống ở nước ta, song chúng ta đã không bị đồng hóa mà
luôn mang bản sắc riêng biệt của người Việt. Ngày nay chữ Hán không còn được
sử dụng nhưng những thư tịch cổ Hán Nôm mà cha ông để lại mãi là nguồn di
sản, nguồn sử liệu vô giá. Qua những gì còn lại đến ngày nay cho thấy di sản
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
19
Hán Nôm này được viết trên rất nhiều chất liệu khác nhau tùy theo mục đích
như: giấy, gỗ, vải lụa, bia đá, đồng, vàng, bạc… Đối với những bộ sử, những
tác phẩm và cả những văn bản dài cần được lưu hành rộng rãi, văn bản Hán Nôm
thường được khắc trên những bản gỗ, chúng ta gọi là mộc bản, sau đó dùng giấy
dó in thành nhiều bản. Một số những văn bản được khắc lên bia đá, ma nhai hay
chuông đồng. Bên cạnh đó, chúng ta còn gặp một số loại kim sách (sách vàng),
ngân sách (sách bạc) và đồng sách (sách đồng). Tuy nhiên, loại chất liệu này
không phổ biến và những văn bản được khắc thường rất quan trọng, ngắn gọn,
súc tích. Số nhiều văn bản Hán Nôm còn giữ lại được là viết trên chất liệu giấy.
Dựa vào những mục đích khác nhau và tầm quan trọng mà người xưa lựa chọn
chất liệu giấy để sử dụng cho phù hợp. Đối với sắc phong được sử dụng loại giấy
cao cấp, có độ bền cao, trên mặt giấy phủ nhũ vàng, in hình hoa văn với các họa
tiết rồng, phượng, hình mây hay mặt trời, mặt trăng cách điệu. Tuy nhiên, ngay
trong các sắc phong, sắc văn này cũng phân biệt loại giấy phụ thuộc vào phong
cho ai, phong về việc gì mà quy định về chất liệu, họa tiết và kích thước cụ thể.
Đại Nam thực lục chép: “cáo sắc cấp cho quan nhất phẩm dùng giấy sắc kim nhũ
hạng nhất, dọc 1 thước 4 tấc, ngang 4 thước 3 tấc, mặt giấy vẽ con rồng to, mây
dầy bốn bề, chung quanh vẽ vẩy rồng, mặt sau vẽ tứ linh. Cáo sắc cấp cho quan
nhị phẩm dùng giấy sắc kim nhũ điểm vàng, hạng nhì, dọc 1 thước 3 tấc, ngang 4
thước, mặt giấy vẽ con rồng lớn, chung quanh vẽ mây liền, mặt sau vẽ con lân và
con phượng…”[41, tr.442]. Đây là quy định về chất liệu giấy đối với những văn
bản có nội dung quan trọng.
Đối với khối tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ nội dung thực chất
là những công văn trao đổi giữa các cấp chính quyền phong kiến nhà Nguyễn,
giữa chính quyền Pháp và Nha Kinh lược nhằm mục đích thông tin và truyền đạt
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
20
những vấn đề công vụ thì các loại giấy cao cấp và những chất liệu đặc biệt gần
như không sử dụng. Theo khảo sát của chúng tôi, tài liệu Nha Kinh lược Bắc Kỳ
chủ yếu được viết tay trên chất liệu giấy dó. Đây là những loại giấy làm theo
phương pháp thủ công ở nước ta. Chỉ có một số rất ít văn bản là thư từ của Pháp
viết trên giấy công nghiệp bằng tiếng Pháp. Sang triều Thành Thái, có một số
đơn từ, công văn được viết bằng giấy công nghiệp (dân gian thường gọi là giấy
Tây) có in sẵn một số chi tiết như dấu tròn có họa tiết rồng và dòng chữ dọc viết
“Đại Nam Thành Thái” và một dấu tròn của chính quyền Pháp đề tiếng Pháp
Indochine française
1
(Đông Pháp). Như vậy, tài liệu Kinh lược Bắc Kỳ chủ yếu
được viết bằng chữ Hán Nôm trên chất liệu giấy dó và chỉ có một số ít được viết
bằng giấy công nghiệp (giấy Tây).
Về kích thước và chất lượng giấy của tài liệu này chúng tôi thấy có mấy
điểm sau: Thứ nhất là giấy mỏng nhưng có độ dai, bền tốt nên ít hư hỏng. Thứ
hai là về khổ giấy, vì đây là những công văn của nhiều cơ quan, nhiều địa
phương nên các văn bản tài liệu không có cùng một kích thước. Giấy dó của
những văn bản này thường khá mỏng và khổ giấy hẹp. Chúng tôi cũng đã tiến
hành đo trực tiếp kích thước một số văn bản cụ thể để giới thiệu trong luận văn
này. Dưới đây là bảng số liệu kích thước một số văn bản khi chưa được tu bổ.
Bảng 1.1: Kích thước giấy của văn bản Kinh lược Bắc Kỳ
TT
Nội dung
Tờ
Tập
Niên đại
Chiều
Ngang
(cm)
Chiều
dài (cm)
1
Bãi bỏ lệnh cấm đốt pháo chào
125
30
Đồng
15,7
28,7
1
nước Pháp ở Đông Dương
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
21
mừng ngày lễ tết nguyên đán
Khánh 1
(1886)
2
Hà Nội báo cáo: hai huyện
Thanh Trì, Thanh Oai bị phỉ
đánh phá, huyện viên không
giữ nổi cần triệt hồi
90
52
Hàm Nghi 1
(1885)
15,8
28,7
3
Về tập tấu xin thăng bổ Tri
huyện, Huấn đạo của Bố chánh
Hà Nội
1
60
Đồng
Khánh Ất
Dậu (1885)
15,9
28.2
4
Tư: một thôn ở xã Hạ Hiệp
(Sơn Tây) xin sáp nhập vào
huyện Thọ Xương
50
153
Đồng
Khánh Ất
Dậu (1885)
15,8
28,4
5
Mật sức cho phủ Hoài Đức tiễu
thám phỉ
16
154
Đồng
Khánh Ất
Dậu (1885)
15,9
28,7
6
Yết thị về việc buôn bán
25
230
Đồng
Khánh 2
(1887)
15,9
28,5
7
Trình Hà Nội mua các loại
hàng hóa và thu vải thuế
13
238
Đồng
Khánh 2
(1887)
17,9
29,2
8
Nghị định cắt thành phố Hà
Nội thuộc Pháp
24
399
Đồng
Khánh 3
(1888)
18,2
31,2
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
22
9
Đơn của Bang tá huyện Nam
Xang Hoàng Văn Quán bị triệt
hồi
16
422
Đồng
Khánh 3
(1888)
18,2
31
Theo bảng kê thì khổ giấy được sử dụng trong khối tài liệu này có chiều
rộng trên 15 cm đến dưới 20 cm, chiều dài từ 28 cm đến 32 cm. So sánh với chất
liệu và khổ giấy trong Châu bản của triều Minh Mệnh, Thiệu Trị thì giấy của
triều này mỏng hơn, kích thước bé hơn. Tuy nhiên, khảo sát những văn bản cùng
thời gian này trong khối Châu bản triều Nguyễn, chúng tôi thấy chất liệu và kích
thước giấy có sự tương đồng giữa hai khối Châu bản và Kinh lược. Điều này
chứng tỏ đây là loại giấy được sử dụng chung và rộng rãi thời bấy giờ.
1.2.2 Phương pháp tạo văn bản
Có lẽ, không phải chỉ ngày nay chế độ văn thư trong các cơ quan nhà nước
mới được quan tâm, mà từ xa xưa vấn đề văn thư, soạn thảo văn bản, trao đổi
thông tin đã là một nhu cầu không thể thiếu. Khi xã hội phát triển, các thiết bị
hiện đại ra đời, các văn bản hành chính được soạn thảo trên máy móc hiện đại,
sau đó có thể nhanh chóng in sao thành nhiều bản. Tuy nhiên, cách đây hơn một
thế kỷ thì việc soạn thảo văn bản vẫn theo phương pháp viết tay. Đối với văn bản
của triều đình, tùy từng nội dung mà nhà vua quy định nơi soạn thảo. Sau đó từ
người viết (phụng thảo) đến người kiểm tra (phụng khảo) đều phải ký tên chịu
trách nhiệm. Đối với các văn bản của địa phương, việc soạn thảo văn bản được
giao cho người chuyên trách trong nha môn, sau đó người viết và người kiểm tra
cũng phải ký tên như thông lệ. Tài liệu Hán Nôm Kinh lược Bắc Kỳ là những
công văn nhằm mục đích thông tin, những văn bản này đều được viết tay và thực
hiện theo nguyên tắc của việc soạn thảo văn bản hành chính lúc bấy giờ. Theo
Khảo cứu tài liệu Hán Nôm Nha Kinh lược Bắc Kỳ về Hà Nội (1886 -1897)
23
quy định, bao giờ một công văn gửi đi cũng có một bản chính và hai bản phó; và
thực tế, khối tài liệu này còn lưu được rất nhiều bản phó của văn bản. Những
công văn này, dù là bản chính hay bản phó thì đều theo phương pháp thủ công,
chép tay, sau đó ký tên đóng dấu trên văn bản để khẳng định tính pháp lý xác
thực của văn bản.
1.2.3 Thể thức văn bản
Nói đến thể thức văn bản là nói đến những quy định chung mang tính bắt
buộc khi soạn thảo. Ngày nay thể thức của văn bản được quy định rất chặt chẽ và
chi tiết. Thông thường một văn bản hành chính ngày nay thường có:
1. Quốc hiệu.
2. Tên cơ quan, tổ chức ban hành.
3. Số, ký hiệu văn bản.
4. Địa danh và ngày tháng năm ban hành.
5. Tên loại và trích yếu nội dung văn bản
6. Nội dung văn bản.
7. Chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm quyền.
8. Dấu của cơ quan.
9. Nơi nhận.
Ngoài ra, còn có một số quy định khác về dấu chỉ mức độ mật, khẩn, chỉ
dẫn về phạm vi lưu hành, địa chỉ cơ quan, tổ chức … Tuy nhiên, không phải chỉ
ngày nay, thể thức văn bản hành chính mới được quy định rõ ràng mà từ các
triều đại phong kiến đã có những quy định khi soạn thảo.
Triều Lê với bộ Quốc triều hình luật đã đặt ra những quy định đối với lĩnh
vực văn bản hành chính như soạn thảo, chuyển giao, sử dụng và quản lý ấn
tín…. Đến triều Nguyễn, những quy định này lại càng chặt chẽ hơn. Các điều lệ